Tìm kiếm:
Tìm nâng cao img-tk
img-tkTìm kiếm nâng cao



Bản án 12/2019/KDTM-PT ngày 16/09/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 12/2019/KDTM-PT NGÀY 16/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 16 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 10/2019/TLPT-KDTM ngày 05 tháng 3 năm 2019 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 25/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo, kháng nghị. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1050/2019/QĐ-PT ngày 26 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng S; Địa chỉ: thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn L – Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Việt A – Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần S, Chi nhánh Đà Nẵng (theo giấy ủy quyền số 52/UQ-TGĐ ngày 17/6/2013).

Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Thu U, bà Trần Thị Ngọc D – Chuyên viên xử lý nợ Ngân hàng thương mại cổ phần S, Chi nhánh Đà Nẵng. Ông T có mặt; bà U, bà D có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng.

2. Bị đơn: Bà Vũ Thị Hồng D, sinh năm 1985 và ông Trần Anh D, sinh năm 1985.

Địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi. Cư trú tại: tỉnh Quảng Ngãi. Đều vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của ông D, bà D: Ông Vũ Ngọc V, sinh năm 1957.

Cư trú tại: tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Công ty cổ phần H. Địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Vũ Thị Thu H – Giám đốc. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1981.

Cư trú tại: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

3.2. Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Địa chỉ: Đường N, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Viết A – Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Người kháng cáoNgười đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng S – ông Đặng Việt A; bị đơn – bà Vũ Thị Hồng D.

5. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các văn bản trình bày, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S và người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Vào ngày 02/5/2008, ông Trần Anh D và bà Vũ Thị Hồng D có ký Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD với Ngân hàng thương mại cổ phần S để vay số tiền 600.000.000 đồng với lãi suất vay 1,8%/tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; thời hạn vay 12 tháng; mục đích vay: Góp vốn kinh doanh vào Công ty cổ phần H. Tài sản thế chấp cho khoản nợ vay trên là quyền sử dụng đất và tài sản hình thành trên đất trong tương lai tại thửa đất số 203, tờ bản đồ số 21, tổ 14, phường L, thành phố Q. Ngày 09/5/2008, bà D, ông D đã nhận nợ theo khế ước nhận nợ số 241/08-01 với số tiền nhận nợ là 600.000.000 đồng.

Khi vay, bà D, ông D được Công ty cổ phần H do bà Vũ Thị Thu H làm giám đốc đã cam kết bảo lãnh trả nợ vay. Trên thực tế, Công ty cổ phần H đã nộp lãi thay cho bà D, ông D được 4 tháng đầu với số tiền 43.690.560 đồng nhưng sau đó không trả nữa. Ngân hàng đã làm việc với vợ chồng bà D, ông D yêu cầu trả nợ nhưng bà D, ông D không đồng ý trả.

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà D, ông D phải trả nợ cho Ngân hàng số tiền nợ gốc 600.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 23/11/2018 là 1.640.910.000 đồng. Tổng cộng: 2.240.910.000 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn là 1.118.160.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 522.750.000 đồng), được trừ số tiền lãi 43.690.560 đồng mà Công ty cổ phần H đã trả, đồng thời ông D, bà D phải trả số tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngay 02/5/2008, được tính tiếp kể từ ngày 24/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng. Trong trường hợp ông D, bà D không trả nợ thì yêu cầu Tòa án buộc ông D, bà D phải xử lý tài sản thế chấp quy định tại khoản 3 Điều 6 Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008.

Trường hợp xác định bà D giả mạo chữ ký của ông D, đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của việc vô hiệu hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 09/5/2008 theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự, theo đó xác định lỗi và trách nhiệm bồi thường của bà D về việc giả chữ ký, xác định rõ lỗi và trách nhiệm bồi thường của Ủy ban nhân dân phường L trong việc vi phạm thủ tục chứng thực chữ ký quy định tại Điều 17 và khoản 1 Điều 22 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ, buộc bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường cho Ngân hàng đối với tài sản thế chấp của Ngân hàng bị mất.

Đối với số tiền 43.690.560 đồng mà Công ty cổ phần H đã nộp thay thì Ngân hàng đã khấu trừ vào số tiền nợ hiện tại của bà D, ông D. Nay Ngân hàng không yêu cầu Công ty cổ phần H thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là trả nợ thay cho ông D, bà D; Ngân hàng chỉ yêu cầu ông D, bà D trả nợ, nếu không trả được nợ thì yêu cầu Tòa án xử lý tài sản thế chấp.

Tại bản tự khai, bản trình bày và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theoủy quyền của bị đơn vợ chồng ông Vũ Thị Hồng D, bà Trần Anh D là ông Vũ Ngọc V trình bày.

Vào tháng 5/2008, bà Vũ Thị Thu H – là giám đốc Công ty cổ phần H có hỏi mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông D, bà D để vay tiền hoàn thiện thủ tục lập Công ty cổ phần H. Lúc đầu bà D không đồng ý nhưng sau vì bố bà D (ông Vũ Ngọc V) nói, nên bà D có cho bà H mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay tiền và bà H hứa trong vòng 01 tháng sẽ trả lại cho vợ chồng bà D. Vào thời điểm đó, chồng bà D là Trần Anh D đang đi tập huấn ở Vũng Tàu nên không biết chuyện này. Sau đó bà H có mang tới nhà bà D một bộ hồ sơ nhờ bà D ký giúp, vì đang chăm sóc con nhỏ nên bà D đã ký vào hồ sơ mà không đọc nội dung trong đó. Hơn một tháng sau, bà H không trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bà D có hỏi nhưng bà H hứa từ từ sẽ trả, nhưng sau bà D không liên lạc với bà H được nữa.

Khi cán bộ Ngân hàng đến nhà làm việc, thì bà D mới biết bà H lấy sổ đỏ của vợ chồng bà vay vốn ở Ngân hàng. Bà D hoàn toàn không biết việc này cũng như không nhận tiền vay vốn của Ngân hàng, không góp vốn vào Công ty cổ phần H. Tại hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008, hợp đồng thế chấp, ủy nhiệm chi…cũng như toàn bộ hồ sơ vay vốn, chữ ký là do bà D ký tên, chữ ký của chồng bà D là ông Trần Anh D là do bà D ký thay, riêng tên “Trần Anh D” dưới chữ ký là ai ghi thì bà D không biết.

Khi vay, Công ty cổ phần H có cam kết bảo lãnh cho hợp đồng vay vốn này, nên nay Ngân hàng yêu cầu vợ chồng ông D, bà D phải trả số tiền gốc 600.000.000 đồng và nợ lãi tính đến 23/11/2018 là 1.640.910.000 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn là 1.118.160.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 522.750.000 đồng) và số tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008, được tính tiếp kể từ ngày 24/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng thì vợ chồng ông D, bà D không đồng ý. Ông D, bà D yêu cầu Công ty cổ phần H phải trả vì đã nhận tiền và cam kết bảo lãnh trả nợ cho hợp đồng tín dụng trên.

Việc vay nợ tại Ngân hàng S ông D không biết vì tại thời điểm vay ông D đang tập huấn tại Vũng Tàu, nhưng Hợp đồng tín dụng ghi lập tại trụ sở Chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần S với sự có mặt của ông là thuộc về trách nhiệm của Ngân hàng chứ không phải là lỗi của vợ ông. Toàn bộ hồ sơ vay nợ tại Ngân hàng do vợ ông D ký thay tên ông D. Khi vay nợ có thế chấp quyền sử dụng đất thửa số 203, tờ bản đồ số 21, tổ 14, phường L do hai vợ chồng ông, bà đứng tên, đây là tài sản chung của vợ chồng, nhưng khi thế chấp không có sự đồng ý của ông D nên chỉ có giá trị 50%. Quyền sử dụng đất của vợ chồng ông ở đường H, nhưng trong biên bản thẩm định tài sản của Ngân hàng ghi quyền sử dụng đất ở đường B là không đúng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần H trình bày:

Ông Trần Anh D, bà Vũ Thị Hồng D vay 600.000.000 đồng tại Ngân hàng thương mại cổ phần S – chi nhánh Đà Nẵng, Công ty cổ phần H có đứng ra bảo lãnh khoản vay này. Bà D không phải là cổ đông của Công ty cổ phần H. Khi vay, bà D có yêu cầu chuyển số tiền vay vào tài khoản của Công ty, sau đó bà D đã đến Công ty yêu cầu rút hết số tiền vay và Công ty đã đưa số tiền đó cho bà D. Việc giúp Công ty cổ phần H đứng ra bảo lãnh cho bà D, ông D chỉ là để giúp vợ chồng bà D hoàn thiện hồ sơ vay vốn tại Ngân hàng. Trong thời gian đầu, Công ty cổ phần H có trả lãi thay cho bà D và ông D 04 tháng số tiền 43.690.560 đồng. Việc trả lãi là do Ngân hàng trích từ tài khoản của Công ty cổ phần H tại Ngân hàng.

Nay Ngân hàng khởi kiện ông Trần Anh D, bà Vũ Thị Hồng D trả nợ số tiền vay nêu trên, Công ty cổ phần H không có trách nhiệm đối với khoản vay này của ông D, bà D.

Ngày 06/9/2018 Công ty cổ phần H có bản trình bày yêu cầu Ngân hàng hoặc bà D, ông D phải có trách nhiệm trả lại cho Công ty cổ phần H số tiền 43.690.560 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi trình bày:

Thời điểm chứng thực Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay với số vào sổ 0209, quyển số 01/2008/TP/CC/SCT/HĐGD ngày 09/05/2008 do ông Vũ Ngọc V (cha ruột của bà Vũ Thị Hồng D) là người trực tiếp đến Ủy ban nhân dân phường yêu cầu chứng thực vào Hợp đồng, công chức Tư pháp hộ tịch Phùng Kim A đã tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra và xác nhận vào hợp đồng theo thẩm quyền trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân phường ký, đóng dấu theo quy định. Tại buổi làm việc trực tiếp vào ngày 28/11/2011 và tại các văn bản giải trình, ông V thừa nhận việc ông thay mặt thành viên gia đình trực tiếp đến Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Q yêu cầu chứng thực hợp đồng thế chấp và chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Liên quan đến việc thực hiện chứng thực hợp đồng theo quy định Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/05/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, Ủy ban nhân dân phường L đã nhiều lần tổ chức họp kiểm điểm trách nhiệm đối với từng cá nhân và đã có báo cáo gửi Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố để theo dõi, chỉ đạo. Quá trình dẫn đến thiếu sót nói trên vì cán bộ, công chức tin tưởng vào uy tín của cá nhân ông Vũ Ngọc V, hoàn toàn không có yếu tố tư lợi cá nhân.

Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 25 tháng 12 năm 2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

Căn cứ Điều 30, Điều 37, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 161, Điều 227, khoản 2 Điều 201, Điều 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 135, Điều 137, khoản 2 Điều 307, khoản 1 Điều 368, Điều 410 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 7 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngàỵ 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; khoản 2 Điều 17 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S.

Tuyên bố Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD, ngày 02/5/2008 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D vô hiệu một phần. Tuyên buộc bà Vũ Thị Hồng D phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền nợ gốc 600.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 23/11/2018 là 1.597.219.440 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn là 1.074.469.440 đồng, nợ lãi quá hạn là 522.750.000 đồng). Tổng cộng: 2.197.219.440 đồng (Hai tỷ, một trăm chín mươi bảy triệu, hai trăm mười chín ngàn, bốn trăm bốn mươi đồng) và số tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008, được tính tiếp kể từ ngày 24/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần S.

2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S về việc yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 08/5/2008 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D vô hiệu; Hủy đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 09/5/2008 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Q đối với thửa đất số 203, tờ bản đồ số 02, tại tổ 14, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần S phải trả lại cho bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AI 771807, số vào sổ H00921 ngày 25/6/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, phần án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/01/2019 và ngày 21/01/2019, ông Đặng Việt A, là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thương mại cổ phần S có Đơn kháng cáo và đơn kháng cáo bổ sung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Hủy bản án sơ thẩm; Công nhận Hợp đồng thế chấp số 185/08/TC/SĐN ngày 09/5/2008 có hiệu lực pháp luật; Xem xét hiệu lực hợp đồng đối với Hợp đồng thế chấp số 185/08/TC/SĐN ngày 09/5/2008 giữa Ngân hàng S với bà Vũ Thị Hồng D. Trường hợp Hợp đồng thế chấp vô hiệu, Ngân hàng S không xử lý được tài sản thế chấp để thu hồi nợ, đề nghị xác định lỗi của bà D trong việc giả mạo chữ ký của ông D, lỗi của UBND phường L trong việc vi phạm quy định pháp luật về chứng thực hợp đồng và tuyên buộc bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho Ngân hàng S số tiền tương ứng với giá trị phần tài sản thế chấp đã bị mất theo đúng quy định của pháp luật tại Điều 137 Bộ luật dân sự, khoản 1 Điều 3 và khoản 3 Điều 6 Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008.

Ngày 09/01/2019 bà Vũ Thị Hồng D kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng: Buộc Công ty cổ phần H có nghĩa vụ thực hiện cam kết bảo lãnh thanh toán khoản vay cho Ngân hàng S thay cho bà; Không tính lãi suất do Ngân hàng S cho vay trái pháp luật dẫn đến Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp vô hiệu theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005.

Ngày 08 tháng 01 năm 2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có Quyết định kháng nghị số 128/2019/KNPT-KDTM kháng nghị một phần đối với Bản án sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 25/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi theo thủ tục phúc thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm theo hướng tuyên bố Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN/HĐTD ngày 02/5/2008 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D bị vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo Điều 137 Bộ luật dân sự. Khi sửa Bản án sơ thẩm phần án phí sẽ được điều chỉnh đúng quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Đồng thời, tuyên sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm tại phần quyết định về số tờ bản đồ của thửa đất số 203, thuộc tổ 14, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay: Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng S ông Nguyễn Minh T, bà Vũ Thị Hồng D và Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và Quyết định kháng nghị. Các đương sự không hòa giải với nhau về việc giải quyết vụ án.

Trong phần phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền nghĩa vụ của mình. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của người kháng cáo và chấp nhận Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, sửa một phần án sơ thẩm.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện và đầy đủ chứng cứ Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Xét hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN/HĐTP ngày 02 tháng 5 năm 2008 giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội với vợ chồng ông Trần Anh D và bà Vũ Thị Hồng D thì thấy: Bà D thừa nhận chữ ký trong hợp đồng tín dụng là do bà ký. Còn chữ ký của ông D thì bà D thừa nhận do bà ký là phù hợp với kết luận giám định số 211/PC54 ngày 09/4/2011 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận “Chữ viết, chữ ký Trần Anh D tại hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN/HĐTP ngày 02 tháng 5 năm 2008 và Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ghi tháng 5/2008 với chữ ký và chữ viết tại các mẫu so sánh là không phải do cùng một người ký, viết ra”. Do đó, có đủ căn cứ để khẳng định ông D hoàn toàn không tham gia giao dịch vay tiền do vậy không làm phát sinh nghĩa vụ của ông D đối với hợp đồng tín dụng nêu trên. Bản án sơ thẩm xác định hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN/HĐTP ngày 02 tháng 5 năm 2008 vô hiệu một phần đối với trách nhiệm của ông D là có cơ sở, ông D và Ngân hàng không phát sinh quyền nghĩa vụ gì đối với khoản tiền bà D vay từ Ngân hàng.

[2] Bà D ký hợp đồng tín dụng và đã ký Khế ước nhận nợ ngày 09/5/2008 (BL 386) rồi ủy nhiệm chi số tiền 600.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty H. Do vậy bà D phải có nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi cho Ngân hàng là hoàn toàn phù hợp với quy định tại các điều 471, 474 và Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 và các điều khoản trong hợp đồng được bà D ký kết. Bản án sơ thẩm buộc bà D phải trả tiền gốc và lãi phát sinh là có căn cứ phù hợp với pháp luật, bảo đảm được quyền lợi chính đáng của Ngân hàng. Do vậy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi là không có cơ sở chấp nhận.

[3] Xét hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 08 tháng 5 năm 2008 thì thấy: Để đảm bảo cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng nêu trên, bà D đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 08 tháng 5 năm 2008 để thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản hình thành trên đất trong tương lai thửa đất số 203, tờ bản đồ số 21, phường L, thị xã Q (nay là thành phố Q) thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông D và bà D. Bà D thừa nhận chữ ký của ông D trong hợp đồng thế chấp là do bà ký thay ông D. Ông Vũ Ngọc V (bố bà D) và Ủy ban nhân dân phường L thừa nhận ông V là người mang hợp đồng thế chấp đến Ủy ban phường chứng thực mà không có mặt đại diện Ngân hàng S cũng như bà D và ông D.

Như vậy, bà D tự ý giả chữ ký của ông D định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Ông D không biết, không ủy quyền và cũng không đồng ý thế chấp nên vi phạm khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Hợp đồng thế chấp nêu trên chứng thực không có mặt của đại diện ngân hàng (người nhận thế chấp), bà D (người thế chấp) là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 về cấp sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Bản án sơ thẩm xác định hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên vô hiệu là có căn cứ đúng pháp luật. Theo trình bày của Ủy ban nhân dân phường L và bà D thì hợp đồng nêu trên do bố bà D là ông Vũ Ngọc V mang đến Ủy ban ký xác nhận.

[4] Xét thấy hậu quả của Hợp đồng thế chấp vô hiệu là không có tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng tín dụng chứ hoàn toàn không phải là tổn thất vật chất thực tế theo quy định tại khoản 2 Điều 307 Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó, chưa có cơ sở để giải quyết hậu quả của hợp đồng thế chấp vô hiệu là buộc chị Diệp và Ủy ban nhân dân phường L liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại phát sinh từ Hợp đồng thế chấp vô hiệu. Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của Ngân hàng là có cơ sở, do vậy kháng cáo của Ngân hàng S không có căn cứ chấp nhận.

[5] Xét kháng cáo về nội dung yêu cầu Công ty H thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 26/4/2008 Công ty H lập bản “cam kết bảo lãnh” để cam kết trả nợ thay cho bà D nếu bà D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trên thực tế Công ty H đã trả lãi thay cho bà D 04 tháng lãi với số tiền là 43.690.560 đồng. Tuy nhiên khi bà D không có khả năng trả nợ nữa thì Ngân hàng khởi kiện và yêu cầu thực hiện việc phát mại tài sản đã thế chấp để thanh toán công nợ chứ không yêu cầu Công ty H phải thực hiện nghĩa vụ cam kết bảo lãnh. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay phía Ngân hàng vẫn giữa nguyên quan điểm nêu trên. Như vậy trong trường hợp này bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh do đó án sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 368 Bộ luật dân sự năm 2005 để không buộc Công ty H phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là có căn cứ. Kháng cáo của bà D là bên được bảo lãnh, không có căn cứ chấp nhận.

Từ những nhận định và viện dẫn nêu trên xét thấy đơn kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi là không có căn cứ chấp nhận. Đối với nội dung án sơ thẩm có sai sót về số thửa đất thế chấp, Hội đồng phúc thẩm sẽ điều chỉnh lại cho chính xác.

Án phí: Đương sự kháng cáo phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, Bộ luật Tố tụng dân sự:

Không chấp nhận đơn kháng cáo của Ngân hàng S, đơn kháng cáo của bà Vũ Thị Hồng D và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Giữ nguyên quyết định của bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

Căn cứ Điều 30, Điều 37, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 161, Điều 227, khoản 2 Điều 201, Điều 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 135, Điều 137, khoản 2 Điều 307, khoản 1 Điều 368, Điều 410 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 7 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngàỵ 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; khoản 2 Điều 17 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S.

Tuyên bố Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD, ngày 02/5/2008 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D vô hiệu một phần. Tuyên buộc bà Vũ Thị Hồng D phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền nợ gốc 600.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 23/11/2018 là 1.597.219.440 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn là 1.074.469.440 đồng, nợ lãi quá hạn là 522.750.000 đồng). Tổng cộng: 2.197.219.440 đồng (Hai tỷ, một trăm chín mươi bảy triệu, hai trăm mười chín ngàn, bốn trăm bốn mươi đồng) và số tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008, được tính tiếp kể từ ngày 24/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần S.

2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S về việc yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 08/5/2008 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D vô hiệu; Hủy đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 09/5/2008 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Q đối với thửa đất số 203, tờ bản đồ số 21, tại tổ 14, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần S phải trả lại cho bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AI 771807, số vào sổ H00921 ngày 25/6/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D.

Án phí: Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần S, bà Vũ Thị Hồng D mỗi bên phải chịu 2.000.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Đã nộp tạm ứng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi theo các biên lai thu số 0001018 ngày 17 tháng 01 năm 2019 và 0001017 ngày 16/01/2019. Nay số tiền tạm ứng chuyển thành tiền án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Quý khách cần Đăng nhập/Đăng ký tài khoản Kim cương để sử dụng tính năng này

Quý khách cần Đăng nhập/Đăng ký tài khoản Bạc, Vàng hoặc Kim cương để sử dụng tính năng này

Quý khách cần Đăng nhập/Đăng ký tài khoản Vàng hoặc Kim cương để sử dụng tính năng này

Quý khách cần Đăng nhập/Đăng ký tài khoản Vàng hoặc Kim cương để sử dụng tính năng này

Quý khách cần Đăng nhập/Đăng ký tài khoản Vàng hoặc Kim cương để sử dụng tính năng này

Quý khách cần Đăng nhập/Đăng ký tài khoản Kim cương để sử dụng tính năng này

Bản án, quyết định đang xem

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 12/2019/KDTM-PT NGÀY 16/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 16 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 10/2019/TLPT-KDTM ngày 05 tháng 3 năm 2019 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 25/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo, kháng nghị. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1050/2019/QĐ-PT ngày 26 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng S; Địa chỉ: thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn L – Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Việt A – Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần S, Chi nhánh Đà Nẵng (theo giấy ủy quyền số 52/UQ-TGĐ ngày 17/6/2013).

Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Thu U, bà Trần Thị Ngọc D – Chuyên viên xử lý nợ Ngân hàng thương mại cổ phần S, Chi nhánh Đà Nẵng. Ông T có mặt; bà U, bà D có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng.

2. Bị đơn: Bà Vũ Thị Hồng D, sinh năm 1985 và ông Trần Anh D, sinh năm 1985.

Địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi. Cư trú tại: tỉnh Quảng Ngãi. Đều vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của ông D, bà D: Ông Vũ Ngọc V, sinh năm 1957.

Cư trú tại: tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Công ty cổ phần H. Địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Vũ Thị Thu H – Giám đốc. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1981.

Cư trú tại: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

3.2. Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Địa chỉ: Đường N, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Viết A – Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Người kháng cáoNgười đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng S – ông Đặng Việt A; bị đơn – bà Vũ Thị Hồng D.

5. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các văn bản trình bày, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S và người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Vào ngày 02/5/2008, ông Trần Anh D và bà Vũ Thị Hồng D có ký Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD với Ngân hàng thương mại cổ phần S để vay số tiền 600.000.000 đồng với lãi suất vay 1,8%/tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; thời hạn vay 12 tháng; mục đích vay: Góp vốn kinh doanh vào Công ty cổ phần H. Tài sản thế chấp cho khoản nợ vay trên là quyền sử dụng đất và tài sản hình thành trên đất trong tương lai tại thửa đất số 203, tờ bản đồ số 21, tổ 14, phường L, thành phố Q. Ngày 09/5/2008, bà D, ông D đã nhận nợ theo khế ước nhận nợ số 241/08-01 với số tiền nhận nợ là 600.000.000 đồng.

Khi vay, bà D, ông D được Công ty cổ phần H do bà Vũ Thị Thu H làm giám đốc đã cam kết bảo lãnh trả nợ vay. Trên thực tế, Công ty cổ phần H đã nộp lãi thay cho bà D, ông D được 4 tháng đầu với số tiền 43.690.560 đồng nhưng sau đó không trả nữa. Ngân hàng đã làm việc với vợ chồng bà D, ông D yêu cầu trả nợ nhưng bà D, ông D không đồng ý trả.

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà D, ông D phải trả nợ cho Ngân hàng số tiền nợ gốc 600.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 23/11/2018 là 1.640.910.000 đồng. Tổng cộng: 2.240.910.000 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn là 1.118.160.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 522.750.000 đồng), được trừ số tiền lãi 43.690.560 đồng mà Công ty cổ phần H đã trả, đồng thời ông D, bà D phải trả số tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngay 02/5/2008, được tính tiếp kể từ ngày 24/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng. Trong trường hợp ông D, bà D không trả nợ thì yêu cầu Tòa án buộc ông D, bà D phải xử lý tài sản thế chấp quy định tại khoản 3 Điều 6 Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008.

Trường hợp xác định bà D giả mạo chữ ký của ông D, đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của việc vô hiệu hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 09/5/2008 theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự, theo đó xác định lỗi và trách nhiệm bồi thường của bà D về việc giả chữ ký, xác định rõ lỗi và trách nhiệm bồi thường của Ủy ban nhân dân phường L trong việc vi phạm thủ tục chứng thực chữ ký quy định tại Điều 17 và khoản 1 Điều 22 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ, buộc bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường cho Ngân hàng đối với tài sản thế chấp của Ngân hàng bị mất.

Đối với số tiền 43.690.560 đồng mà Công ty cổ phần H đã nộp thay thì Ngân hàng đã khấu trừ vào số tiền nợ hiện tại của bà D, ông D. Nay Ngân hàng không yêu cầu Công ty cổ phần H thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là trả nợ thay cho ông D, bà D; Ngân hàng chỉ yêu cầu ông D, bà D trả nợ, nếu không trả được nợ thì yêu cầu Tòa án xử lý tài sản thế chấp.

Tại bản tự khai, bản trình bày và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theoủy quyền của bị đơn vợ chồng ông Vũ Thị Hồng D, bà Trần Anh D là ông Vũ Ngọc V trình bày.

Vào tháng 5/2008, bà Vũ Thị Thu H – là giám đốc Công ty cổ phần H có hỏi mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông D, bà D để vay tiền hoàn thiện thủ tục lập Công ty cổ phần H. Lúc đầu bà D không đồng ý nhưng sau vì bố bà D (ông Vũ Ngọc V) nói, nên bà D có cho bà H mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay tiền và bà H hứa trong vòng 01 tháng sẽ trả lại cho vợ chồng bà D. Vào thời điểm đó, chồng bà D là Trần Anh D đang đi tập huấn ở Vũng Tàu nên không biết chuyện này. Sau đó bà H có mang tới nhà bà D một bộ hồ sơ nhờ bà D ký giúp, vì đang chăm sóc con nhỏ nên bà D đã ký vào hồ sơ mà không đọc nội dung trong đó. Hơn một tháng sau, bà H không trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bà D có hỏi nhưng bà H hứa từ từ sẽ trả, nhưng sau bà D không liên lạc với bà H được nữa.

Khi cán bộ Ngân hàng đến nhà làm việc, thì bà D mới biết bà H lấy sổ đỏ của vợ chồng bà vay vốn ở Ngân hàng. Bà D hoàn toàn không biết việc này cũng như không nhận tiền vay vốn của Ngân hàng, không góp vốn vào Công ty cổ phần H. Tại hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008, hợp đồng thế chấp, ủy nhiệm chi…cũng như toàn bộ hồ sơ vay vốn, chữ ký là do bà D ký tên, chữ ký của chồng bà D là ông Trần Anh D là do bà D ký thay, riêng tên “Trần Anh D” dưới chữ ký là ai ghi thì bà D không biết.

Khi vay, Công ty cổ phần H có cam kết bảo lãnh cho hợp đồng vay vốn này, nên nay Ngân hàng yêu cầu vợ chồng ông D, bà D phải trả số tiền gốc 600.000.000 đồng và nợ lãi tính đến 23/11/2018 là 1.640.910.000 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn là 1.118.160.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 522.750.000 đồng) và số tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008, được tính tiếp kể từ ngày 24/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng thì vợ chồng ông D, bà D không đồng ý. Ông D, bà D yêu cầu Công ty cổ phần H phải trả vì đã nhận tiền và cam kết bảo lãnh trả nợ cho hợp đồng tín dụng trên.

Việc vay nợ tại Ngân hàng S ông D không biết vì tại thời điểm vay ông D đang tập huấn tại Vũng Tàu, nhưng Hợp đồng tín dụng ghi lập tại trụ sở Chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần S với sự có mặt của ông là thuộc về trách nhiệm của Ngân hàng chứ không phải là lỗi của vợ ông. Toàn bộ hồ sơ vay nợ tại Ngân hàng do vợ ông D ký thay tên ông D. Khi vay nợ có thế chấp quyền sử dụng đất thửa số 203, tờ bản đồ số 21, tổ 14, phường L do hai vợ chồng ông, bà đứng tên, đây là tài sản chung của vợ chồng, nhưng khi thế chấp không có sự đồng ý của ông D nên chỉ có giá trị 50%. Quyền sử dụng đất của vợ chồng ông ở đường H, nhưng trong biên bản thẩm định tài sản của Ngân hàng ghi quyền sử dụng đất ở đường B là không đúng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần H trình bày:

Ông Trần Anh D, bà Vũ Thị Hồng D vay 600.000.000 đồng tại Ngân hàng thương mại cổ phần S – chi nhánh Đà Nẵng, Công ty cổ phần H có đứng ra bảo lãnh khoản vay này. Bà D không phải là cổ đông của Công ty cổ phần H. Khi vay, bà D có yêu cầu chuyển số tiền vay vào tài khoản của Công ty, sau đó bà D đã đến Công ty yêu cầu rút hết số tiền vay và Công ty đã đưa số tiền đó cho bà D. Việc giúp Công ty cổ phần H đứng ra bảo lãnh cho bà D, ông D chỉ là để giúp vợ chồng bà D hoàn thiện hồ sơ vay vốn tại Ngân hàng. Trong thời gian đầu, Công ty cổ phần H có trả lãi thay cho bà D và ông D 04 tháng số tiền 43.690.560 đồng. Việc trả lãi là do Ngân hàng trích từ tài khoản của Công ty cổ phần H tại Ngân hàng.

Nay Ngân hàng khởi kiện ông Trần Anh D, bà Vũ Thị Hồng D trả nợ số tiền vay nêu trên, Công ty cổ phần H không có trách nhiệm đối với khoản vay này của ông D, bà D.

Ngày 06/9/2018 Công ty cổ phần H có bản trình bày yêu cầu Ngân hàng hoặc bà D, ông D phải có trách nhiệm trả lại cho Công ty cổ phần H số tiền 43.690.560 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi trình bày:

Thời điểm chứng thực Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay với số vào sổ 0209, quyển số 01/2008/TP/CC/SCT/HĐGD ngày 09/05/2008 do ông Vũ Ngọc V (cha ruột của bà Vũ Thị Hồng D) là người trực tiếp đến Ủy ban nhân dân phường yêu cầu chứng thực vào Hợp đồng, công chức Tư pháp hộ tịch Phùng Kim A đã tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra và xác nhận vào hợp đồng theo thẩm quyền trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân phường ký, đóng dấu theo quy định. Tại buổi làm việc trực tiếp vào ngày 28/11/2011 và tại các văn bản giải trình, ông V thừa nhận việc ông thay mặt thành viên gia đình trực tiếp đến Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Q yêu cầu chứng thực hợp đồng thế chấp và chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Liên quan đến việc thực hiện chứng thực hợp đồng theo quy định Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/05/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, Ủy ban nhân dân phường L đã nhiều lần tổ chức họp kiểm điểm trách nhiệm đối với từng cá nhân và đã có báo cáo gửi Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố để theo dõi, chỉ đạo. Quá trình dẫn đến thiếu sót nói trên vì cán bộ, công chức tin tưởng vào uy tín của cá nhân ông Vũ Ngọc V, hoàn toàn không có yếu tố tư lợi cá nhân.

Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 25 tháng 12 năm 2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

Căn cứ Điều 30, Điều 37, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 161, Điều 227, khoản 2 Điều 201, Điều 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 135, Điều 137, khoản 2 Điều 307, khoản 1 Điều 368, Điều 410 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 7 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngàỵ 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; khoản 2 Điều 17 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S.

Tuyên bố Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD, ngày 02/5/2008 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D vô hiệu một phần. Tuyên buộc bà Vũ Thị Hồng D phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền nợ gốc 600.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 23/11/2018 là 1.597.219.440 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn là 1.074.469.440 đồng, nợ lãi quá hạn là 522.750.000 đồng). Tổng cộng: 2.197.219.440 đồng (Hai tỷ, một trăm chín mươi bảy triệu, hai trăm mười chín ngàn, bốn trăm bốn mươi đồng) và số tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008, được tính tiếp kể từ ngày 24/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần S.

2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S về việc yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 08/5/2008 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D vô hiệu; Hủy đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 09/5/2008 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Q đối với thửa đất số 203, tờ bản đồ số 02, tại tổ 14, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần S phải trả lại cho bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AI 771807, số vào sổ H00921 ngày 25/6/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, phần án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/01/2019 và ngày 21/01/2019, ông Đặng Việt A, là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thương mại cổ phần S có Đơn kháng cáo và đơn kháng cáo bổ sung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Hủy bản án sơ thẩm; Công nhận Hợp đồng thế chấp số 185/08/TC/SĐN ngày 09/5/2008 có hiệu lực pháp luật; Xem xét hiệu lực hợp đồng đối với Hợp đồng thế chấp số 185/08/TC/SĐN ngày 09/5/2008 giữa Ngân hàng S với bà Vũ Thị Hồng D. Trường hợp Hợp đồng thế chấp vô hiệu, Ngân hàng S không xử lý được tài sản thế chấp để thu hồi nợ, đề nghị xác định lỗi của bà D trong việc giả mạo chữ ký của ông D, lỗi của UBND phường L trong việc vi phạm quy định pháp luật về chứng thực hợp đồng và tuyên buộc bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho Ngân hàng S số tiền tương ứng với giá trị phần tài sản thế chấp đã bị mất theo đúng quy định của pháp luật tại Điều 137 Bộ luật dân sự, khoản 1 Điều 3 và khoản 3 Điều 6 Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008.

Ngày 09/01/2019 bà Vũ Thị Hồng D kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng: Buộc Công ty cổ phần H có nghĩa vụ thực hiện cam kết bảo lãnh thanh toán khoản vay cho Ngân hàng S thay cho bà; Không tính lãi suất do Ngân hàng S cho vay trái pháp luật dẫn đến Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp vô hiệu theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005.

Ngày 08 tháng 01 năm 2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có Quyết định kháng nghị số 128/2019/KNPT-KDTM kháng nghị một phần đối với Bản án sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 25/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi theo thủ tục phúc thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm theo hướng tuyên bố Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN/HĐTD ngày 02/5/2008 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D bị vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo Điều 137 Bộ luật dân sự. Khi sửa Bản án sơ thẩm phần án phí sẽ được điều chỉnh đúng quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Đồng thời, tuyên sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm tại phần quyết định về số tờ bản đồ của thửa đất số 203, thuộc tổ 14, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay: Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng S ông Nguyễn Minh T, bà Vũ Thị Hồng D và Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và Quyết định kháng nghị. Các đương sự không hòa giải với nhau về việc giải quyết vụ án.

Trong phần phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền nghĩa vụ của mình. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của người kháng cáo và chấp nhận Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, sửa một phần án sơ thẩm.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện và đầy đủ chứng cứ Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Xét hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN/HĐTP ngày 02 tháng 5 năm 2008 giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội với vợ chồng ông Trần Anh D và bà Vũ Thị Hồng D thì thấy: Bà D thừa nhận chữ ký trong hợp đồng tín dụng là do bà ký. Còn chữ ký của ông D thì bà D thừa nhận do bà ký là phù hợp với kết luận giám định số 211/PC54 ngày 09/4/2011 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận “Chữ viết, chữ ký Trần Anh D tại hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN/HĐTP ngày 02 tháng 5 năm 2008 và Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ghi tháng 5/2008 với chữ ký và chữ viết tại các mẫu so sánh là không phải do cùng một người ký, viết ra”. Do đó, có đủ căn cứ để khẳng định ông D hoàn toàn không tham gia giao dịch vay tiền do vậy không làm phát sinh nghĩa vụ của ông D đối với hợp đồng tín dụng nêu trên. Bản án sơ thẩm xác định hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN/HĐTP ngày 02 tháng 5 năm 2008 vô hiệu một phần đối với trách nhiệm của ông D là có cơ sở, ông D và Ngân hàng không phát sinh quyền nghĩa vụ gì đối với khoản tiền bà D vay từ Ngân hàng.

[2] Bà D ký hợp đồng tín dụng và đã ký Khế ước nhận nợ ngày 09/5/2008 (BL 386) rồi ủy nhiệm chi số tiền 600.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty H. Do vậy bà D phải có nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi cho Ngân hàng là hoàn toàn phù hợp với quy định tại các điều 471, 474 và Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 và các điều khoản trong hợp đồng được bà D ký kết. Bản án sơ thẩm buộc bà D phải trả tiền gốc và lãi phát sinh là có căn cứ phù hợp với pháp luật, bảo đảm được quyền lợi chính đáng của Ngân hàng. Do vậy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi là không có cơ sở chấp nhận.

[3] Xét hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 08 tháng 5 năm 2008 thì thấy: Để đảm bảo cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng nêu trên, bà D đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 08 tháng 5 năm 2008 để thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản hình thành trên đất trong tương lai thửa đất số 203, tờ bản đồ số 21, phường L, thị xã Q (nay là thành phố Q) thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông D và bà D. Bà D thừa nhận chữ ký của ông D trong hợp đồng thế chấp là do bà ký thay ông D. Ông Vũ Ngọc V (bố bà D) và Ủy ban nhân dân phường L thừa nhận ông V là người mang hợp đồng thế chấp đến Ủy ban phường chứng thực mà không có mặt đại diện Ngân hàng S cũng như bà D và ông D.

Như vậy, bà D tự ý giả chữ ký của ông D định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Ông D không biết, không ủy quyền và cũng không đồng ý thế chấp nên vi phạm khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Hợp đồng thế chấp nêu trên chứng thực không có mặt của đại diện ngân hàng (người nhận thế chấp), bà D (người thế chấp) là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 về cấp sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Bản án sơ thẩm xác định hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên vô hiệu là có căn cứ đúng pháp luật. Theo trình bày của Ủy ban nhân dân phường L và bà D thì hợp đồng nêu trên do bố bà D là ông Vũ Ngọc V mang đến Ủy ban ký xác nhận.

[4] Xét thấy hậu quả của Hợp đồng thế chấp vô hiệu là không có tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng tín dụng chứ hoàn toàn không phải là tổn thất vật chất thực tế theo quy định tại khoản 2 Điều 307 Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó, chưa có cơ sở để giải quyết hậu quả của hợp đồng thế chấp vô hiệu là buộc chị Diệp và Ủy ban nhân dân phường L liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại phát sinh từ Hợp đồng thế chấp vô hiệu. Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của Ngân hàng là có cơ sở, do vậy kháng cáo của Ngân hàng S không có căn cứ chấp nhận.

[5] Xét kháng cáo về nội dung yêu cầu Công ty H thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 26/4/2008 Công ty H lập bản “cam kết bảo lãnh” để cam kết trả nợ thay cho bà D nếu bà D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trên thực tế Công ty H đã trả lãi thay cho bà D 04 tháng lãi với số tiền là 43.690.560 đồng. Tuy nhiên khi bà D không có khả năng trả nợ nữa thì Ngân hàng khởi kiện và yêu cầu thực hiện việc phát mại tài sản đã thế chấp để thanh toán công nợ chứ không yêu cầu Công ty H phải thực hiện nghĩa vụ cam kết bảo lãnh. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay phía Ngân hàng vẫn giữa nguyên quan điểm nêu trên. Như vậy trong trường hợp này bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh do đó án sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 368 Bộ luật dân sự năm 2005 để không buộc Công ty H phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là có căn cứ. Kháng cáo của bà D là bên được bảo lãnh, không có căn cứ chấp nhận.

Từ những nhận định và viện dẫn nêu trên xét thấy đơn kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi là không có căn cứ chấp nhận. Đối với nội dung án sơ thẩm có sai sót về số thửa đất thế chấp, Hội đồng phúc thẩm sẽ điều chỉnh lại cho chính xác.

Án phí: Đương sự kháng cáo phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, Bộ luật Tố tụng dân sự:

Không chấp nhận đơn kháng cáo của Ngân hàng S, đơn kháng cáo của bà Vũ Thị Hồng D và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Giữ nguyên quyết định của bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

Căn cứ Điều 30, Điều 37, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 161, Điều 227, khoản 2 Điều 201, Điều 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 135, Điều 137, khoản 2 Điều 307, khoản 1 Điều 368, Điều 410 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 7 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngàỵ 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; khoản 2 Điều 17 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S.

Tuyên bố Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD, ngày 02/5/2008 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D vô hiệu một phần. Tuyên buộc bà Vũ Thị Hồng D phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền nợ gốc 600.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 23/11/2018 là 1.597.219.440 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn là 1.074.469.440 đồng, nợ lãi quá hạn là 522.750.000 đồng). Tổng cộng: 2.197.219.440 đồng (Hai tỷ, một trăm chín mươi bảy triệu, hai trăm mười chín ngàn, bốn trăm bốn mươi đồng) và số tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 241/08/SĐN-HĐTD ngày 02/5/2008, được tính tiếp kể từ ngày 24/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần S.

2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S về việc yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay số 185/08/TC.SĐN ngày 08/5/2008 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D vô hiệu; Hủy đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 09/5/2008 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Q đối với thửa đất số 203, tờ bản đồ số 21, tại tổ 14, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần S phải trả lại cho bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AI 771807, số vào sổ H00921 ngày 25/6/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho bà Vũ Thị Hồng D, ông Trần Anh D.

Án phí: Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần S, bà Vũ Thị Hồng D mỗi bên phải chịu 2.000.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Đã nộp tạm ứng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi theo các biên lai thu số 0001018 ngày 17 tháng 01 năm 2019 và 0001017 ngày 16/01/2019. Nay số tiền tạm ứng chuyển thành tiền án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Bản án so sánh

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN 

BẢN ÁN 22/2019/HS-PT NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 9 năm 2019 tại Phòng xét xử số 2 Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 19/2019/TLPT-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Chu Đức T do có kháng cáo của bị cáo Chu Đức T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 87/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Bị cáo có kháng cáo: Chu Đức T (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1986 tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Số nhà X, tổ dân phố Y, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ văn hoá: 10/12 phổ thông; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Ngọc L sinh năm 1942 và bà Vũ Thị N1 sinh năm 1942; có vợ là Khúc Thị T1 và 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Có 01 tiền án về tội Đánh bạc; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/6/2018 bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt số tiền là 10.000.000 đồng và phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm về tội Đánh bạc, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 14/02/2019 đến ngày 23/02/2019 sau đó được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/02/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra trong vụ án còn có 06 bị cáo không kháng cáo và không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 14/02/2019 tại nhà ở của Vũ Xuân T2, trú tại Đội R, xã T3, huyện Đ, trong lúc T2 đang ngồi ăn cơm, uống rượu cùng Chu Đức T, Khương Duy K, Nguyễn Văn T4, Đinh Văn T5, Vũ Duy N2, Nghiêm Trọng N3 và một người đàn ông có tên là M thì Vũ Duy N2 nói với mọi người: “Anh em làm tí khai xuân không”, nghe xong mọi người không nói gì nhưng đều ngầm hiểu là N2 rủ mọi người cùng đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền. Sau khi ăn xong, T lên phòng khách dùng kéo cắt quân bài chắn thành 04 quân vị hình tròn có đường kính 02 cm, một mặt màu trắng – đen, một mặt màu đỏ, rồi cầm bốn quân vị đi vào phòng ngủ của vợ chồng T2 để trên mặt bàn trang điểm, lúc này T2 bảo với mọi người: “Đánh bạc thì vào trong phòng ngủ mà chơi”, nghe xong N2 bảo với mọi người là “chơi xóc đĩa”. Lúc đó, T bảo T2: “Anh T2 mang một bộ bát, đĩa cho các anh chơi”, T2 cầm 01 bát sứ và 01 đĩa sứ lên phòng ngủ đưa cho N2 rồi đi ra phòng khách nằm ở võng, còn N2, T, T4, N3 cùng nhau ngồi xuống chiếu đã được trải sẵn trong phòng ngủ nhà T2 để đánh bạc trái phép bằng hình thức xóc đĩa, sát phạt nhau bằng tiền. Khi chơi, N2 mang theo số tiền 1.800.000 đồng dùng toàn bộ để đánh bạc; N3 mang theo số tiền 3.400.000 đồng dùng toàn bộ để đánh bạc; T mang theo số tiền 16.130.000 đồng và dùng số tiền 300.000 đồng để đánh bạc; T4 mang theo số tiền 11.000.000 đồng và dùng số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc. Lúc đó T5 không chơi mà ngồi trên giường để xem mọi người chơi, khi bắt đầu chơi N2 cầm “cái”, hình thức chơi như sau: 04 người ngồi dưới chiếu thành vòng tròn, sau đó N2 cho 04 quân vị vào trong 01 chiếc đĩa sứ, rồi úp ngược chiếc bát sứ lên phía trên chiếc đĩa và tiến hành xóc lên xuống nhiều lần, làm cho 04 quân vị bên trong đảo lộn, sau đó, mỗi người chơi đặt cược tiền vào một trong hai bên (quy ước) là cửa chẵn và cửa lẻ. Đặt vào cửa chẵn nghĩa là đặt cược bốn quân vị bên trong đĩa, khi mở bát ra sẽ cùng có màu đỏ hoặc cùng màu trắng- đen hoặc hai quân màu trắng – đen và hai quân màu đỏ, còn đặt vào cửa lẻ nghĩa là đặt cược bốn quân vị bên trong đĩa, khi mở bát ra sẽ có 03 quân màu đỏ, 01 quân trắng – đen hoặc 03 quân trắng – đen, 01 quân đỏ, số tiền mỗi người chơi được đặt cược trong một ván tối thiểu là 100.000 đồng và tối đa là 300.000 đồng. Sau khi mọi người đặt cược xong, người cầm “cái” sẽ tiến hành mở chiếc bát đang úp phía trên đĩa để xem màu của 04 quân vị bên trong. Nếu cửa chẵn thắng, cửa lẻ thua, người cầm “cái” sẽ trả tiền cho người chơi đặt cược ở cửa chẵn bằng với số tiền mà người chơi đó đã đặt cược lúc trước, và nhận toàn bộ tiền mà người chơi đặt cược bên cửa lẻ (Nếu cửa lẻ thắng thì ngược lại). Khoảng 05 phút sau thì K ngồi vào đánh bạc cùng mọi người, khi chơi, K mang theo số tiền 31.200.000 đồng và dùng toàn bộ để đánh bạc. Đến khoảng hơn 14 giờ cùng ngày, T2 đi vào phòng khi đó, T4, N2, N3 mỗi người đưa cho T2 100.000 đồng và bảo T2 cầm để trả tiền điện, nước. Khoảng 14 giờ 30 phút T thua hết số tiền 300.000 đồng, nên đứng dậy ra phòng khách ngồi xem tivi, khoảng 15 giờ, N2 có việc nên đi về, T2 ra mở cổng nhà cho N2, sau đó khóa cổng lại và nằm ở võng trong phòng khách để cảnh giới không cho người lạ vào nhà vì mọi người bên trong đang đánh bạc trái phép. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, T5 về nhà T2 lại tiếp tục mở cổng cho T5 và khóa cửa lại như cũ, T5 về nhà lấy tiền và quay lại nhà T2 để đánh bạc, trước khi tham gia đánh bạc T5 có 1.020.000 đồng, T5 sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc. Khoảng 16 giờ cùng ngày, N2 quay trở lại nhà T2 và tiếp tục ngồi đánh bạc trái phép cùng mọi người. Đến 17 giờ 20 phút cùng ngày, khi K, T4, N3, T5 và N2 đang đánh bạc trái phép tại phòng ngủ nhà T2 thì bị tổ công tác Công an huyện Đ vào nhà kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc: 01 bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị hình tròn đường kính 02 cm; thu giữ trên chiếu bạc và trong người của các bị can tổng số tiền 64.250.000 đồng, trong đó số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 38.700.000 đồng.

Quá trình điều tra bị cáo Chu Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, với mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên bị cáo đã thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa. Để che giấu hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã sử dụng phòng ngủ của gia đình bị cáo Vũ Xuân T2 làm nơi đánh bạc, T2 đã khóa cổng nhà và canh gác cho bị cáo đánh bạc.

Tại Bản án số: 87/2019/HSST ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên đã quyết định như sau:

1. Tuyên bố: Bị cáo Chu Đức T phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Chu Đức T 15 (Mười lăm) tháng tù, được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ là 09 ngày (từ ngày 14/02/2019 đến ngày 23/02/2019). Bị cáo còn phải thi hành 14 (Mười bốn) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên án đối với 6 bị cáo khác, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo.

Sau khi tuyên án, ngày 26/7/2019, bị cáo Chu Đức T có đơn kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 87/2019/HS-ST ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên, với nội dung: Xin giảm nhẹ mức hình phạt xuống mức thấp nhất, do Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Chu Đức T 15 tháng từ là nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Chu Đức T giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Tại phiên Tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên cho rằng:

– Về hình thức đơn kháng cáo nằm trong hạn luật định, được coi là hợp lệ.

– Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Chu Đức T: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như quyết định của bản án sơ thẩm, bản thân bị cáo không khiếu nại gì về tội danh do vậy về tội danh Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Chu Đức T phạm tội “Đánh bạc” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan sai.

– Về hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 tháng tù là có căn cứ vì trong vụ án này bị cáo là người chuẩn bị phương tiện dụng cụ, dùng vào việc đánh bạc (dùng kéo cắt quân bài). Về nhân thân năm 2018 bị cáo đã bị kết án về tội “Đánh bạc” nhưng chưa được xóa án tích. Tuy nhiên xét thấy hiện tại bị cáo đang ở cùng bố mẹ già đã trên 70 tuổi nên cần có người chăm sóc, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã cung cấp thêm tài liệu thể hiện bị cáo và mẹ đẻ đang bị bệnh cần phải điều trị tại cơ sở y tế, để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Chu Đức T. Sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên bố bị cáo Chu Đức T phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Chu Đức T 12 (Mười hai) tháng tù.

– Bị cáo Chu Đức T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Chu Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan sai và không có ý kiến tranh luận gì với bản kết luận của Kiểm sát viên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hình thức đơn kháng cáo: Do không đồng ý với Bản án hình sự số 87/2019/HS-ST ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên, ngày 22/7/2019 bị cáo Chu Đức T đã làm đơn kháng cáo đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt. Theo quy định tại Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo đã làm đơn trong hạn luật định nên được coi là hợp lệ .

[2] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Chu Đức T: Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát và lời khai của bị cáo. Sau khi kiểm tra, xem xét toàn bộ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thể hiện: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 14/02/2019 tại nhà ở của Vũ Xuân T2, trú tại Đội R, xã T3, huyện Đ, Chu Đức T và một số bị cáo khác trong vụ án đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa. Đến 17 giờ 20 phút cùng ngày, khi K, T3, N2, T5 và N3 đang đánh bạc trái phép tại phòng ngủ nhà Thiện thì bị tổ công tác Công an huyện Đ vào nhà kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc: 01 bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị hình tròn đường kính 02 cm; thu giữ trên chiếu bạc và trong người của các bị can tổng số tiền 64.250.000 đồng, trong đó số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 38.700.000 đồng, trong đó Chu Đức T mang theo 16.130.000 đồng và dùng số tiền 300.000 đồng để đánh bạc. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội, đúng quy định của pháp luật, bị cáo không bị oan sai. Bị cáo không có khiếu nại gì về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ theo quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 15 tháng tù là phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.Tuy nhiên Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng hiện bị cáo đang ở cùng bố mẹ già đã trên 70 tuổi nên cần có người chăm sóc, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã cung cấp thêm tài liệu thể hiện bị cáo và mẹ đẻ đang bị bệnh cần phải điều trị tại cơ sở y tế. Do vậy để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật cần chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm.

Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên theo hướng giảm một phần hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo còn gặp nhiều khó khăn, hiện vợ bị cáo đang mang thai và nuôi con nhỏ nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân huyện Đ, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án nhân dân huyện Đ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm nên bị cáo Chu Đức T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Chu Đức T, sửa một phần quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số: 87/2019/HSST ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên như sau:

2Tuyên bố: Bị cáo Chu Đức T (tên gọi khác: Không) phạm tội “Đánh bạc”.

3Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Chu Đức T 12 (Mười hai) tháng tù, được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ là 09 ngày (từ ngày 14/02/2019 đến ngày 23/02/2019). Bị cáo còn phải thi hành 11 (Mười một) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

4Về án phí phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Chu Đức T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án Hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày 25/9/2019).