Yếu tố tổ chức nếu được tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc cộng với sự thông minh, linh hoạt trong ứng xử và điều hành công việc của điều ưa viên sẽ tạo ra những nhân tố quyết định cho sự thắng lợi của cuộc điều ưa. Giai đoạn này được tiến hành theo các bước sau đây:

Kinh phí nhiều hay ít luôn có vai trò kích thích sự hứng thú, hăng hái hay ngược lại, gây ra không khí chán nản, kém phấn khởi đối với các điều tra viên. Kinh phí chậm có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tiến độ thu thập thông tin tại địa phương. Kinh phí nhiều quá có thể gây lãng phí, tốn kém cho ngân sách nhà nước hoặc tổ chức tài trợ. Vì vậy, người tổ chức cuộc điều tra phải quan tâm đúng mức và quyết định một cách kịp thời, thỏa đáng những kinh phí cần thiết cho cuộc điều tra. Thông thường, kinh phí cần cho cuộc điều tra bao gồm:

– Tiền chi xây dựng chương trình, đề cương nghiên cứu, bảng câu hỏi;

– Tiền chi cho công tác đánh máy, in ấn văn bản, giấy tờ, phiếu điều tra;

– Tiền chi mua văn phòng phẩm, các công cụ, phương tiện cần thiết hỗ trợ cho cuộc điều tra;

– Tiền chi cho sinh hoạt phí, công tác phí trong những ngày thu thập thông tin tại địa bàn;

– Tiền chi trả thù lao cho các cộng tác viên, điều tra viên, báo cáo viên;

– Tiền chi tổ chức hội thảo khoa học, nghiệm thu đề tài…

1. Công tác tiền trạm

Tạo được một bầu không khí thân thiện, cởi mở, tin cậy với các sở, ban, ngành, địa phương – nơi tiến hành công tác thu thập thông tin về các vấn đề pháp luật cần khảo sát – là một trong những điều kiện quan trọng để cuộc điều tra diễn ra thuận lợi kế hoạch của mình và thuận tiện cho việc theo dõi, điều phối công việc chung của người chỉ đạo cuộc điều tra.

2. Lựa chọn và tập huấn điều tra viên

Điều tra viên là người sẽ trực tiếp tiếp xúc với các cá nhân, các đối tượng xã hội để thu thập các thông tin liên quan đến đề tài pháp luật cần nghiên cứu. Vì vậy, họ phải đáp ứng được một số yêu cầu (tiêu chuẩn) nhất định khi được lựa chọn. Tuỳ theo từng đề tài pháp luật cần nghiên cứu mà chuẩn bị lực lượng điều tra viên nhiều hay ít, chất lượng và các yêu cầu về năng lực, phẩm chất cao hay trung bình.

– Điều tra viên phải là người có một trình độ học vấn nhất định, có kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật. Đồ tài pháp luật được nghiên cứu càng phức tạp thì đòi hỏi trình độ kiến thức chuyên ngành pháp luật càng phải cao. Trong những cuộc điều tra bằng phương pháp ankét, trình độ của điều tra viên không đòi hỏi cao. Song, trong các cuộc điều tra bằng phương pháp phỏng vấn hay quan sát đầy đủ thì điều tra viên phải có nhiều kinh nghiệm thực tiễn pháp lý và trình độ chuyên môn cao về pháp luật.

– Điều tra viên phải là người có một trình độ hiểu biết xã hội, am hiểu nhất định về tâm lý xã hội của các đối tượng cung cấp thông tin, nắm được phong tục, tập quán, văn hóa, lối sống và ngôn ngữ của địa phương nơi diễn ra cuộc điều tra.

– Điều tra viên cần có khả năng làm tốt công tác quần chúng (công tác dân vận), biết cách tiếp cận các đối tượng khác nhau, có khả năng linh hoạt trong giải quyết những tình huống phức tạp có thể xảy ra trong quá trình thu thập thông tin.

– Giao công việc cụ thể cho từng điều tra viên với tiến độ triển khai thực hiện một cách chi tiết.

3. Tiến hành thu thập thông tin

Sau khi hoàn tất các bước nói trên, việc thu thập thông tin về các mặt, các khía cạnh xã hội – pháp lý của đề tài mới được phép tiến hành. Công tác thu thập thông tin chỉ chiếm một khoảng thời gian tương đối ngắn so với toàn bộ cuộc điều tra xã hội học pháp luật. Song, cho dù công tác chuẩn bị có tốt đến đâu thì chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến kết quả cuộc điều tra. Do vậy, phải coi đây là công việc thật sự nghiêm túc thì mới đảm bảo tiến trình điều tra diễn ra được nhanh gọn và mang lại hiệu quả cao.

Khi thu thập thông tin, các điều tra viên sẽ tiến hành thu thập trên chính mẫu điều tra đã được lựa chọn sẵn theo tiến độ công việc được giao. Họ sẽ tiển hành phát ra – thu về các phiếu ankét (đối với phương pháp ankét) hoặc tiến hành thực hiện các cuộc phỏng vấn (đối với phương pháp phỏng vấn). Chỉ đạo viên tiến hành kiểm tra số lượng phiếu thu được và tổ chức họp rút kinh nghiệm ngay từ những phiếu đầu tiên với các điều tra viên và cộng tác viên, cần chú ý, vì quen với khả năng trả lời theo từng câu hỏi của người cung cấp thông tin mà điều tra viên dễ tự mình trả lời thay cho mẫu điều tra, dẫn tới kết quả thu được thiếu chính xác, phản ánh sai thực tế.

4. Giai đoạn xử lý và phân tích thông tin

Xử lý và phân tích thông tin là giai đoạn không thể thiếu đối với một cuộc điều tra xã hội học pháp luật, bởi vì, nếu không có giai đoạn này thì toàn bộ các công việc của các giai đoạn trước

– Lập biểu đồ phân tích kết quả thu được và các hướng phân tích chính;

– Lập trình để xử lý thông tin trên máy vi tính (thông thường, công việc này do chuyên gia vi tính đảm nhiệm bằng chương trình SPSS).

Người tổ chức cuộc điều tra phải đưa ra những yêu cầu cụ thể để các chuyên gia vi tính lập trình theo phương án tối ưu, đáp ứng được tối đa yêu cầu của giả thuyết nghiên cứu.

Chuẩn bị tài liệu để nhập thông tin vào máy vi tính (thường là các phiếu ankét) gồm các việc: đánh số, làm sạch số liệu (xử lý thô); đóng các câu hỏi mở, mã hoá các nhóm dấu hiệu. Khâu này thường phải làm trước khi lập trình, hoặc nếu đã lập trình thì phải xử lý, bổ sung vào các số liệu. Công việc tiếp theo do chuyên gia vi tính đảm nhiệm.

Như vậy, nhiệm vụ của bước này là chuyển các thông tin từ cá biệt thành các thông tin tập hợp. Trên cơ sở của các thông tin tập hợp, chúng ta mới có thể tiếp tục phân tích hoặc áp dụng các phương pháp thống kê cao hơn.

Sau khi đã tiến hành xử lý, sàng lọc thông tin, bước tiếp theo là phân tích thông tin theo hai cách: miêu tả và giải thích.

+ Miêu tả: Miêu tả là sự ghi lại những kết quả nghiên cứu xã hội học kinh nghiệm bằng hệ thống các kí hiệu đã được lựa chọn và biểu đạt những kết quả đó trong các khái niệm khoa học. Nó là

+ Giải thích: Giải thích là sự phát hiện ra bản chất của vấn đề, sự kiện, hiện tượng pháp luật được nghiên cứu trên cơ sở những tài liệu kinh nghiệm và lý thuyết xã hội học bằng cách chỉ ra những khía cạnh mà giả thuyết của cuộc nghiên cứu đã đặt ra. Nó xác nhận hoặc loại bỏ một giả thuyết nào đó hay toàn bộ hệ thống giả thuyết.

Ví dụ: Với bảng số liệu trên có thể giải thích như sau: Quan sát các số liệu trong bảng trên, dễ dàng nhận thấy, phần lớn cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay khẳng định rằng, những kiến thức pháp luật mà các cơ sở đào tạo luật trang bị cho họ đã đáp ứng ở mức độ tốt và khá đối với yêu cầu thực hành công vụ của họ, chiếm 79,2%; có 14,0% cho rằng mức độ đáp ứng trung bình và chỉ 6,8% cho rằng chưa đáp ứng được yêu cầu công vụ. Điều đó cho thấy, công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính ở nước ta trong những năm qua, về cơ bản, đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác cho đội ngũ này.

4. Kiểm tra giả thuyết nghiên cứu

Theo quan điểm xã hội học, kiểm tra là quá trình xác nhận bằng kinh nghiệm những kết quả rút ra từ giả thuyết được đưa ra ban đầu. Có thể tiến hành kiểm tra giả thuyết bằng thực nghiệm xã hội học, phương pháp thống kê hoặc biện pháp áp dụng các biến số kiểm tra.

Theo quan điểm duy vật khoa học, hoạt động thực tiễn xã hội của con người là tiêu chuẩn cao nhất để kiểm tra tính chân thực của một kết quả nghiên cứu nào đó. Bởi vậy, việc kiểm tra

Khi viết báo cáo khoa học trình bày kết quả nghiên cứu về một vấn đề, sự kiện hay hiện tượng pháp luật, cần chú ý các yêu cầu sau:

– Phải chỉ ra được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của cuộc điều tra (tương quan giữa mục đích lý luận và mục đích thực tiễn).

– Làm sáng tỏ được thực trạng nghiên cứu thông qua phân tích, bình luận các thông tin, số liệu thực nghiệm thu được (vấn đề hiện nay và những quan điểm hiện có đối với đề tài). Tránh tình trạng bình luận suông, suy diễn, võ đoán khi nói về thực trạng của một vấn đề pháp luật thực tiễn.

– Phần đặc biệt của bản báo cáo cần trình bày, phân tích được những vấn đề có tính chất phương pháp luận cho việc lựa chọn và luận chứng cho bộ công cụ của cuộc nghiên cứu, phân loại việc lựa chọn, các phương pháp thu thập thông tin.

– Trình bày một cách đầy đủ các giai đoạn nghiên cứu đã được tiến hành với đối tượng, sự liên kết lẫn nhau giữa tất cả các khâu của nó và logic của bản thân sự tìm kiếm thông tin khoa học pháp lý cả trên phương diện lý luận và thực nghiệm, chỉ ra được vị trí và vai trò của thể thức nghiên cứu.

– Chỉ ra mức độ thích ứng của kế hoạch nghiên cứu so với nhiệm vụ và sự phù hợp của giả thuyết nghiên cứu so với các kết quả mà cuộc điều tra mang lại, độ tin cậy của hệ thống mã hoá thông tin và sự tái hiện của nó trong bản báo cáo.

– Bản báo cáo cũng cần chỉ ra được mức độ của việc giải quyết các nhiệm vụ, nội dung khoa học và khả năng có thể suy rộng các kết luận từ cuộc nghiên cứu này sang lìhh vực khác có hoàn cảnh tương đồng.

phạm pháp luật khác; các giáo trình, sách tham khảo, sách bình luận khoa học các bộ luật; các bài nghiên cứu đăng trên các sách, báo, tạp chí, thông tin trên mạng Internet; hồ sơ các vụ li hôn, tranh chấp đất đai, thừa kế, hợp đồng lao động, thương mại; hồ sơ các vụ án hình sự, các báo cáo thống kê hình sự, thống kê về các vụ việc vi phạm pháp luật, thống kê dân số và kinh tế – xã hội; các bức thư, nhật kí của đối tượng phạm tội, các báo cáo về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, về động cơ, mục đích phạm tội…

Tuỳ cách phân chia theo các dấu hiệu khác nhau mà mỗi loại tài liệu có thể bao gồm nhiều tiểu loại khác nhau:

– Theo chuyên ngành luật: có các tài liệu về luật hình sự, luật dân sự, luật kinh tế, luật lao động, luật hành chính…

– Theo tiêu chỉ tài liệu xã hội hóa và tài liệu của các cá nhân: có các tài liệu xã hội hoá như Hiến pháp, các văn bản luật, nghị quyết, sách chuyên khảo về các vấn đề pháp luật, tạp chí luật học, các bài báo về đề tài pháp luật được đăng tải trên các báo… Tài liệu của các cá nhân có luận án tiến sĩ luật học, luận văn thạc sĩ; hồi kí của các luật gia; nhật kí, thư từ của các phạm nhân…

– Theo nguồn gốc của tài liệu: có các tài liệu loại một là những tài liệu được thiết lập trên cơ sở phát vấn hoặc quan sát trực tiếp…; còn tài liệu loại hai là những tài liệu được tóm tắt, khái quát hay mô tả trên cơ sở tài liệu loại một.

5. Đánh giá giá trị của tài liệu

Đối với nhà nghiên cứu xã hội học pháp luật, giá trị của tài liệu trước hết là những thông tin về bản thân đối tượng. Việc thông tin trong tài liệu được đánh giá đầy đủ chưa? V.V..

Trong số các khía cạnh nêu trên, một vấn đề có ý nghĩa quan trọng nổi lên là phải chú ý phân biệt tính xác thực của bản thân tài liệu và độ tin cậy của những thông tin chứa đựng trong tài liệu, bởi vì tài liệu có thể xác thực nhưng thông tin chưa hẳn đã đủ độ tin cậy. Độ tin cậy của thông tin trước hết phụ thuộc vào nguồn gốc của tài liệu có được. Nguồn gốc mà khác nhau thì đến lượt mức độ tin cậy của thông tin cũng khác nhau. Trong mọi trường hợp, các loại tài liệu loại một đáng tin cậy hơn so với tài liệu loại hai. Chẳng hạn, muốn phân tích, trích dẫn một điều luật nào đó thì nên xuất phát từ văn bản gốc của bộ luật, luật, chứ không nên dẫn lại từ các tài liệu khác nhằm tránh tình trạng “tam sao thất bản”. Khi tiếp xúc với các loại tài liệu về pháp luật cần phân biệt rõ ràng việc mô tả vấn đề, sự kiện pháp luật và sự đánh giá các vấn đề, sự kiện pháp luật. Các quan điểm, ý kiến, sự đánh giá thường có độ tin cậy thấp hơn so với các thông tin thực tế vì trong đó ít nhiều đã chứa đựng ý chí chủ quan của cá nhân người đánh giá.

+ Khái niệm phương pháp phân tích tài liệu

Phương pháp phân tích tài liệu là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong các công trình nghiên cứu khoa học nói chung, trong luật học, xã hội học cũng như trong thu thập thông tin xã hội học pháp luật nói riêng.

Phương pháp phân tích tài liệu là dựa vào các số liệu, tài liệu pháp luật, thông tin pháp lỉ hay các kết quả nghiên cứu pháp luật có sẵn, nhà xã hội học pháp luật tiến hành xem xét,

+ Phân loại phương pháp phân tích tài liệu

Để phân tích các loại tài liệu pháp luật hoặc có liên quan ở mức độ khác nhau đến lĩnh vực pháp luật, có thể sử dụng hai phương pháp phân tích tài liệu:

– Phương pháp phân tích định tỉnh được sử dụng nhằm tìm hiểu các đặc điểm, tính chất xã hội của vấn đề pháp luật được nghiên cứu, rút ra những giá trị khoa học, ý nghĩa thực tiễn, nội dung tư tưởng cơ bản của tài liệu pháp luật, tìm ra các thông tin có liên quan đến vấn đề pháp luật cần làm sáng tỏ. Phân tích định tính là sự phân tích rất có hiệu quả, trong đó các yếu tố kinh nghiệm, sự nhạy cảm và chiều sâu kiến thức của nhà nghiên cứu đóng vai trò rất lớn. Tuy nhiên, phương pháp này có điểm hạn chế là nhà nghiên cứu rất dễ rơi vào sự phân tích chủ quan.

– Phương pháp phân tích định lượng gắn liền với việc phân tích các số liệu, chỉ báo, các nhóm dấu hiệu thu thập được từ các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học pháp luật, tìm ra những mối liên hệ nhân quả giữa các thông số, các chỉ báo về pháp luật (máy tính điện tử có vai trò rất quan trọng trong việc sử dụng phương pháp này). Nó thường được sử dụng trong những trường hợp phải xử lý một lượng thông tin lớn.

Đối với phương pháp phân tích định lượng đòi hỏi phải phân tích có hệ thống, từ đó rút ra những thông tin cần thiết đáp ứng được mục đích nghiên cứu. Phải tiến hành phân loại, lựa chọn, khái quát hoá các dữ kiện, so sánh các kết luận với giả thuyết, cho phép rút ra những thông tin cần thiết từ tài liệu; những kết luận rút ra phải có giá trị thiết thực về mặt lý luận và chuyên môn sâu đòi hỏi phải có các chuyên gia pháp lý có trình độ cao mới phân tích được.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.