TUYỂN TẬP ĐỀ THI THẨM PHÁN (VIẾT CÓ ĐÁP ÁN THAM KHẢO) – PHẦN HÌNH SỰ
Xem thêm:
- Tuyển tập đề thi Thẩm phán (viết có đáp án tham khảo) – Phần Hành chính
- Tuyển tập đề thi Thẩm phán (viết có đáp án tham khảo) – Phần Dân sự
- Tuyển tập đề thi Thẩm phán (viết có đáp án tham khảo) – Phần Kinh doanh thương mại
Tình huống 1:
(Trích: Đề thi Thẩm phán Trung cấp đợt 3 năm 2019)
Từ ngày 31/7/2017 đến ngày 02/8/2017, báo Phụ nữ thành phố H đăng liên tiếp hai bài báo trên trang điện tử với tiêu đề: “Lần theo đường dây huy động 600 tỷ cho dự án ma” và “Ve sầu thoát xác” có nội dung phản ánh Công ty cổ phần bất động sản CT (sau đây viết tắt là Công ty CT) và Công ty cổ phần V (sau đây gọi là Công ty V) do ông Võ Thành L làm Tổng giám đốc hoạt động kinh doanh, huy động vốn không minh bạch, có dấu hiệu lừa đảo.. .Nhận thấy các bài báo có nội dung bất lợi, ảnh hưởng uy tín Công ty nên ông L điện thoại cho Phạm Lê Hoàng U (ông L và U có mối quan hệ quen biết từ trước) nhờ tìm hiểu xem phóng viên nào đăng bài viết này và hỏi U có cách nào gỡ các bài báo xuống được không.
Đến ngày 04/8/2017, Báo Phụ nữ Thành phố H tiếp tục đăng bài thứ 3 phản ánh Công ty CT với tiêu đề: “Vẽ khu du lịch 1.000 tỷ bằng miệng”, ông L tiếp tục điện thoại nhờ U lo gỡ 03 bài báo. U có điện thoại nhắn tin cho Nguyễn Lê Yen Th (phóng viên Báo NTD) tìm cách lo tiền để giúp ông L gỡ 03 bài báo đã đăng. Sau đó, Th báo cho U giá gỡ 03 bài báo là 600.000.000 đồng, U báo giá lại cho ông L là 700.000.000 đồng, ông L giả vờ đồng ý rồi trình báo Công an. Ông L yêu cầu U xuống Thành phố C nhận tiền nên U yêu cầu ông L thanh toán chi phí đi lại là 30.000.000 đồng và ông L đồng ý. U yêu cầu ông L thanh toán đủ và để hợp thức số tiền này thì ông L phải ký hợp đồng với Công ty truyền thông. Ông L đồng ý về số tiền nhưng không đồng ý ký hợp đồng với Công ty truyền thông và không chịu tiền thuế VAT khi xuất hóa đơn.
U có nhắn tin, điện thoại cho Võ Hoàng H biết toàn bộ nội dung thỏa thuận giữa U và ông L. U nhờ H tìm cách hợp thức hóa việc nhận tiền từ ông L. H nói U nói với ông L ký hợp đồng mua bán cây cảnh hoặc hợp đồng phun thuốc với công ty của H thì không cần xuất hóa đơn. U đồng ý và nói H soạn sẵn họp đồng mua bán cây cảnh. H đã thực hiện việc soạn thảo họp đồng và lưu trong máy tính.
Ngày 06/8/2017, ông L hẹn U xuống Thành phố c nhận trước số tiền 280.000.000 đồng, trong đó 250.000.000 đồng để gỡ bài và 30.000.000 đồng chi phí đi lại cho U, số tiền còn lại ông L sẽ giao đủ khi Báo Phụ nữ Thành phố H gỡ các bài báo. U điện thoại cho H biết và nhờ H chở xuống thành phố C nhận tiền. H thuê anh Nguyễn Nhựt D điều khiển xe ô tô của H chở H và U xuống thành phố C. Đốn điểm hẹn là quán cà phê Hoa Cau, sau khi thỏa thuận về việc giao nhận tiền, ông L đồng ý giao tiền cho u tại xe ô tô của H, khi U đang nhận tiền thì bị bắt quả tang.
Qua xác minh xác định đuợc: Nguyễn Lê Yến Th là Trưởng ban kinh tế Cơ quan đại diện phía Nam của Báo NTD. Theo cơ quan cung cấp: Ngày 08/8/2017, Yến Th xuất cảnh sang Mỹ, kết họp đi công tác theo lịch của Báo NTD và thăm con gái đang học tại Mỹ. Theo kế hoạch ngày 10/9/2017, Yến Th sẽ trở về Việt Nam nhưng đến nay vẫn chưa về nước.
Ngày 18/10/2017, Báo NTD có văn bản phúc đáp về việc Nguyễn Lê Yến Th có đơn xin nghỉ về việc riêng. Ngày 24/4/2018, xác minh tại địa chỉ thường trú của Yến Th: Th đã bán nhà đi khỏi địa phương từ năm 2016 đến nay, không rõ đi đâu.
Từ lời khai của U, qua điều tra xác minh làm rõ các tin nhắn giữa Yến Th và U có liên quan đến việc Yến Th ra giá việc gỡ các bài báo đã đăng. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào triệu tập và làm việc được với Yến Th có căn cứ sẽ xử lý sau.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 11/01/2019, Tòa án nhân dân quận N áp dụng khoản 3 Điều 365, kết án Phạm Lê Hoàng U và Võ Hoàng H về tội “Môi giới hối lộ”.
Câu hỏi:
Câu 1: Anh (chị) hãy nhận xét về quyết định của Bản án sơ thẩm. (1,5 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Tình tiết bổ sung
Ngày 31/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố c kháng nghị phúc thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm kết án các bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tịch thu 280.000.000 đồng mà ông Võ Thanh L đưa cho Phạm Lê Hoàng U để sung quỹ nhà nước.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 46/2019/HSPT ngày 16/4/2019, Tòa án nhân dân thành phố C kết án Lê Hoàng U và Võ Hoàng H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngoài ra, Bản án phúc thẩm không tịch thu số tiền 280.000.000 đồng.
Câu 2: Anh (chị) hãy nhận xét về quyết định của Tòa án cấp phúc thấm và soạn thảo phần quyết định của bản án phúc thẩm theo quan điểm của mình. (2,0 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...
Tình huống 2:
(Trích: Đề thi Thẩm phán Trung cấp đợt 1 năm 2020 ngày 24/10/2020)
Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 05/8/2018, Hà Duy Hường trên đường đi làm về thì thấy có ánh đèn pin trên đồi thông của gia đình Lành Văn Trọng. Nghi ngờ có người ăn trộm nhựa thông nhà Trọng, Hà Duy Hường về nhà cất đồ rồi sang nhà Lành Văn Trọng, gọi Trọng và bảo “Có người trộm nhựa thông nhà mày đấy, có đi không?”. Trọng hỏi lại Hường “Anh đi không?”. Hường trả lời “Có”.
Hà Duy Hường đi về nhà cầm 01 đèn pin và 01 khúc cây (dài 1,1 mét; đường kính 04 cm). Lành Văn Trọng mang theo 01 đèn pin, trên đường đi, Trọng nhặt 01 cành cây (dài 1,2 mét; một đầu đường kính 03 cm; một đầu có 03 chạc) cả hai người đi đến khu vực đồi thông nhà Trọng thì không thấy ánh đèn nữa nên đi về nấp ở đường mòn hướng đi lên đồi thông. Chờ khoảng 15 phút sau, thì thấy ánh đèn pin từ đồi thông đi đến. Khi ánh đèn đến cách chỗ Hường và Trọng nấp khoảng 03 mét, Hường và Trọng lao ra soi đèn pin vào mặt người đang đi đến thì nhận ra là Nguyễn Văn Trìu đang 01 tay cầm đèn pin, 01 tay xách túi ni lông màu xanh bên trong đựng 03 kg nhựa thông. Hường và Trọng hô “Đứng lại”. Nguyễn Văn Trìu quay đầu bỏ chạy, Trọng lao đến vụt 02 phát vào vùng đầu và vai của Trìu, Trìu ngồi xổm xuống, hai tay che đầu, Trọng bỏ cành cây và cầm 02 tay của Trìu vặn ra phía sau lưng để giữ không cho Trìu chạy. Sau đó Trọng bảo Hường ra giữ tay Trìu để Trọng gọi điện báo trưởng thôn đến giải quyết nhưng không gọi được. Hường giữ tay Trìu khoảng 05 phút, khi không thấy Trìu chống cự thì bỏ tay Trìu ra.
Khoảng 19 giờ 50 phút cùng ngày, Hà Đức Cưong đang ở nhà thì nghe thấy tiếng ồn ào ở đường mòn vào đồi thông, cách nhà Cương khoảng 200 mét. Cương bật đèn pin điện thoại đi về phía ánh đèn và tiếng ồn ào. Khi Hà Đức Cương đến gần thì thấy Nguyễn Văn Trìu đang ngồi bệt dưới đất, chân trái duỗi thẳng, chân phải co, đầu mũi chân trái có một túi ni lông màu xanh đựng 03 kg nhựa thông. Mặt Trìu hướng về phía đường quốc lộ. Nhìn thấy Trìu như vậy, nhưng khi đó Cương chưa biết Trìu đã bị đánh và nghe có người nói “suốt ngày trộm cắp, không chịu làm ăn, không có đi xin người ta còn cho” thì Hà Đức Cương biết là Trìu ăn cắp nhựa thông, Cương liền tiến về phía Trìu đang ngồi dùng chân phải (đang đi dép tông, loại tông có dây bằng cao su, đế bằng xốp, cỡ 38) đá một phát trúng mạng sườn trái của Nguyễn Văn Trìu. Trìu kêu “ự”, hai tay ôm bụng nằm ngửa ra đất. Trìu nằm dưới đất khoảng 01 phút thì ngồi dậy, vẫn ngồi bệt dưới đất, chân trái duỗi, chân phải co, mọi người cầm đèn pin soi vào người Trìu thì Cương thấy trên đỉnh đầu của Trìu chảy máu, trước mặt Trìu có một vũng máu nhỏ trên nền đất, Cương hỏi Trìu “Bị ngã hay bị đánh”, Trìu trả lời là “Thằng Trọng đập”.
Lành Văn Trọng thấy Nguyễn Vãn Trìu như vậy nên đi gọi trưởng thôn đến giải quyết, Trọng đi đến nhà văn hóa thôn thì gặp Lý Thị Thư là trưởng thôn và ông Vi Phương Tiện là công an viên. Trọng nói lại sự việc cho những người này nghe. Khi bà Thư và ông Tiện đến nơi xảy ra vụ việc, thấy Trìu vẫn ngồi bệt dưới đất, nhưng không nói gì. Sau đó 15 phút thì Trìu nằm ngửa ra đất, lúc xoay sang trái, lúc xoay sang phải rồi nằm bất động, mọi người soi vào mắt Trìu không thấy phản ứng, xác định là Trìu đã chết. Trưởng thôn Lý Thị Thư gọi điện báo công an xã và Công an huyện.
Tại Bản kết luận giám định về pháp y về tử thi kết luận: “Nguyên nhân Nguyễn Văn Trìu chết là trụy tim mạch do mất máu hậu quả của vỡ lách do ngoại lực tác động”.
Câu hỏi:
Câu 1: Theo anh (chị), trong tình huống trên có nhũng đối tượng nào phạm tội? Phạm tội gì? Theo điều khoản nào của BLHS? Giải thích vì sao? (2,5 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...
Câu 2 : Anh (chị) hãy xác định những người cần triệu tập đến phiên tòa và tư cách tham gia tố tụng của họ? (0,5 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...
Xem thêm:
- Phần 1: Các câu hỏi trắc nghiệm về hình sự và Tố tụng hình sự
- Phần 2: Các câu hỏi trắc nghiệm về hình sự và Tố tụng hình sự (tiếp theo)
- Phần 3: Các câu hỏi trắc nghiệm về Dân sự và Tố tụng dân sự
- Phần 4: Các câu hỏi trắc nghiệm về Dân sự và Tố tụng dân sự (tiếp theo)
- Phần 5: Các câu hỏi trắc nghiệm về hành chính và Tố tụng hành chính
- Phần 6: Các câu hỏi trắc nghiệm về hành chính và Tố tụng hành chính (tiếp theo)
- Phần 7: Các câu hỏi trắc nghiệm về kinh doanh thương mại
Tình huống 3:
(Trích: Đề thi Thẩm phán sơ cấp dân sự đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)
Đầu tháng 11/2018, do không có tiền tiêu xài nên Huỳnh Văn Đông đã cầm cố chiếc xe máy để lấy tiền tiêu. Đến thời hạn chuộc xe nhưng không có tiền, nên chiều ngày 05/11/2018 khi chơi bóng chuyền với anh Bùi Văn Lâm là người cùng ấp, thấy anh Lâm có đeo sợi dây chuyền, Đông đã nảy sinh ý định chiếm đoạt để bán lấy tiền chuộc xe. Đông lấy túi hót ít cát rồi đem về nhà đồng thời theo dõi và biết anh Lâm ngủ chỉ có một mình. Khoảng 2h ngày 06/11/2018, Đông cầm túi cát đi đến chỗ anh Lâm đang ngũ. Đông mờ cửa phòng (cửa không khóa) đến giường anh Lâm, tay trái cầm túi cát, tay phảỉ Đông giật sợi dây chuyền 3 chỉ bảy phân 06 ly vàng 18K của anh Lâm đang đeo ở cổ đồng thời ném luôn túi cát vào mặt anh Lâm và bỏ chạy. Anh Lâm đuổi theo và nhận ra Đông, gọi Đông trả đây chuyền nhưng Đông không trả và bỏ trốn. Đến 17h05 cùng ngày thi Đông bị bắt, sợi dây chuyền đã được thu hồi trả lại cho anh Lâm nhưng thiếu 3 phân vàng 18K do bị đứt mất, anh Lâm yêu cầu Đông phải bồi thường.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 12/HSST ngày 11/3/2019 TAND huyện T., tỉnh C. áp dụng khoản 1 Điều 171; Điều 38 Điều 42; Điều 48; 51 BLHS, xử phạt Đông 4 năm tù về tội cướp giật tài sản.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 104/2019/HSPT ngày 14/8/2019, TAND tỉnh C. quyết định huỷ bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để truy tố lại với lý do hành vi của Đông chỉ cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Tại bản án sơ thẩm số 25/HSST ngày 18/10/2019 TAND huyện T. tỉnh C. áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm p, g khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 2 Điều 48 BLHS xử phạt Đông 36 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, buộc bị cáo Đông phải bồi thường tiếp cho anh Lâm 3 phân vàng 18K. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 60/2020/HSPT ngày 27/3/2020 TAND tỉnh C. giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm nêu trên.
Câu hỏi:
Câu 1. Theo anh, (chị) việc bản án phúc thẩm số 104/2019/HSPT ngày 14/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh C quyết định hủy bản án sơ thẩm nêu trên để truy tố lại với lý do hành vi của bị cáo Đông chỉ cấu thành tội trộm cắp tài sản có đúng không, tại sao? (1,5 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Câu 2. Theo anh, chị thì hành vi của bị cáo Đông đã phạm tội gì tại sao? Hãy nêu rõ điểm, khoản của điều luật. (02 điểm).
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...
Tình huống 4:
(Trích: Đề thi Thẩm phán Trung cấp dân sự đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)
Tối ngày 06-9-2018, Nguyễn Văn Hòa lấy một con dao nhọn Thái Lan bỏ vào túi quần đến nhà ông Lai cùng thôn để xem ti vi. Đến khoảng 24 giờ cùng ngày Hòa đi về nhà, trên đường đi về Hòa nảy sinh ý định trộm cắp tiền của bà Sở để trả nợ, nên Hòa đến quán bán hàng của bà Sở để trộm cắp tiền. Khi đến cách quán của bà Sở khoảng 100 mét, thì Hòa bỏ xe đạp ven đường rồi đi bộ đến quán (lúc này khoảng 01 giờ ngày 07-9-2018), Hòa quan sát xung quanh thấy không có động tĩnh gì và đèn điện trong quán bà Sở đã tắt nên Hòa vén tấm bạt che cửa quán đi vào bên trong và đi đến chỗ ngăn kéo đựng tiền của bà Sở lấy 100.000 đồng cất vào túi áo trước ngực trái của mình.
Khi đó, Hòa nghe thấy tiếng võng nơi bà Sở đang nằm ngủ phát ra tiếng kêu cọt kẹt, Hòa nghĩ rằng bà Sở phát hiện ra mình đang trộm cắp tài sản sẽ kêu la người tới bắt giữ, nên Hòa lấy dao nhọn đâm liên tiếp nhiều nhát vào người bà Sở. Do bị đâm bất ngờ nên bà Sở vùng vẫy và bị rơi từ trên vông xuống đất, Hòa đâm thêm một nhát nữa vào người bà Sở rồi chạy ra khỏi quán, vứt con dao sang bên đường.
Đến khoảng 8 giờ ngày 07-9-2018, Hòa đem 100.000 đồng đến trả nợ cho ông Lai, sau đó bỏ trốn, đến ngày 09-9-2018 thì Hòa bị bắt.
Giám định pháp y KL Bà Nguyễn Thị Sở bị đa thương, vỡ lách, cắt bỏ lách. Tổn hại 35% sức khỏe.
Câu hỏi:
Câu 1. Anh, chị Hãy cho biết hành vi của Nguyễn Văn Hòa phạm mấy tội và là những tội nào? Tại sao? (2 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Câu 2. Hãy viết phần quyết định của bản án theo quan điểm về tội danh mà anh, chị đã chọn (01 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...
Tình huống 5:
(Trích: Đề thi Thẩm phán cao cấp dân sự đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)
Tháng 7/2009, Nguyễn Thị H và chồng là Phạm Ngọc Q thành lập Công ty TNHH QH. Để có tiền kinh doanh và thanh toán các khoản nợ, H đã thế chấp tài sản của gia đình, mượn tài sản của người khác với lãi suất cao để thế chấp vay tiền tại Ngân hàng N (là Ngân hàng thương mại Nhà nước) dẫn đến không còn khả năng trả nợ, cụ thể như sau:
Sau khi thành lập Công ty QH, H đã mang 06 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây gọi tất là Giấy CNQSD đất), trong đó có 03 Giấy CNQSD đất đứng tên vợ chồng QH, 03 Giấy CNQSD đất đứng tên bố mẹ và anh chị em của H đứng ra ký bảo lãnh Ngân hàng để H vay tiền. Tổng số tiền H vay Ngân hàng là 3.100.000.000 đồng.
Ngoài ra, để có thể vay được nhiều tiền hơn, H còn nhờ một số cá nhân khác dùng Giấy CNQSD đất của gia đình mình đứng ra thế chấp tài sản, vay tiền của Ngân hàng N để cho H vay lại, cụ thể:
– Ông bà Đỗ Văn N và Nguyễn Thị Minh T thế chấp Giấy CNQSD đất của gia đình để vay Ngân hàng N số tiền 1.500.000.000 đồng, sau đó cho H vay lại toàn bộ số tiền này;
– Ông bà Nguyễn Khắc L và Ngô Thị H thế chấp Giấy CNQSD đất của gia đình để vay Ngân hàng N số tiền 2.000.000.000 đồng, sau đó cho H vay lại toàn bộ số tiền này;
– Ông bà Nguyễn Kim O và Vũ Thị Thanh H thế chấp Giấy CNQSD đất để vay Ngân hàng N 900.000.000 đồng, sau đó cho H vay lại 450.000.000 đồng.
Từ cuối năm 2009 đến năm 2010, do nợ tiền nhiều nên H nảy sinh ý định lấy các Giấy CNQSD đất đang thế chấp ở Ngân hàng N của Công ty QH và của một số cá nhân nêu trên để mang ra ngoài cầm cố, vay tiền. Để làm việc này, H đến gặp Bùi Thị A là nhân viên Ngân hàng N đang quản lý các Giấy CNQSD đất đã thế chấp của Công ty QH, đặt vấn đề mượn lại toàn bộ 06 Giấy CNQSD đất trên với lý do mang đi photo công chúng và chứng minh tài sản để có thể vay tiền ở Ngân hàng khác được nhiều hơn, nếu vay được sẽ thanh toán số tiền vay của Ngân hàng N, số tiền còn lại sẽ trả cho Bùi Thị A. Do tin H nên A đã cho H mượn các Giấy CNQSD đất nói trên. Sau khi mượn được 06 Giấy CNQSD đất, H đã mang đến hiệu cầm đồ để cầm cố cho chủ hiệụ là Ninh Thị H 05 Giấy CNQSD đất để vay 3.450.000.000 đồng, 01 Giấy CNQSD đất còn lại đi cầm cố vay của bà Phạm Thị V 300.000.000 đồng.
Sau khi mượn 06 Giấy CNQSD đất đang thế chấp của Công ty mình, H tiếp tục mượn A thêm 03 Giấy CNQSD đất của các khách hàng khác là vợ chồng ổng Nguyễn Kim Q và bà Vũ Thị Thanh H; vợ chồng bà Ngô Thị H và ông Vũ Khắc L; vợ chồng anh Nguyễn Văn N và chị Nguyễn Thị Minh T đang thế chấp tại Ngân hàng N để vay tiền bên ngoài. H nói với các gia đình trên là đã trả hết nợ Ngân hàng nhưng chưa kịp làm thủ tục xóa thế chấp. Do đó, 03 gia đình trên đồng ý cho H mang Giấy CNQSD đất đi cầm cố để vay tiền. Cụ thể: H mượn Giấy CNQSD đất của ông bà Nguyễn Kim Q và Vũ Thị Thanh H, H đưa bà Vũ Thị Thanh H mang đi cầm cố cho chị Vũ Thị L để vay 1.000.000.000 đồng; mượn Giấy CNQSD đất của ông bà Ngô Thị H và Vũ Khắc L, mang đi cầm cố cho chị Ninh Thị Hồng C vay 1.650.000.000 đồng; mượn Giấy CNQSD đất của ông bà Đỗ Văn N và Nguyễn Thị Minh T, mang đi cầm cố cho chị Ninh Thị Hồng C để vay 800.000.000 đồng.
Ngoài ra, Nguyễn Thị H còn vay nợ của một số nhân viên Ngân hàng N cụ thế như sau:
Cuối năm 2009, H vay của Trương Thị C (Phó Giám đốc Ngân hàng N) 900.000.000 đồng. Khi vay tiền H nói dối là cần tiền để giải ngân mua hàng, H sẽ trả ngay trong ngày. Do tin lời H nên C đã lấy tiền ở quỹ Phòng giao dịch cho H vay không giấy tờ và tài sản thế chấp.
Từ cuối năm 2009 đến tháng 11/2011, H nhiều lần vay tiền của Nguyễn Thị B, nhân viên Phòng giao dịch Ngân hàng N với tổng số tiền 20.000.000.000 đồng, số tiền này B rút trái phép từ quỹ Phòng giao dịch.
Từ cuối năm 2009 đến khi bị bắt giữ, H nhiều lần vay tiền của Bùi Thị A, nhân viên Ngân hàng N với tổng số tiền là 8.000.000.000 đồng, số tiền này A cũng rút trái phép từ quỹ Phòng giao dịch.
Tổng số tiền H đã vay của các nhân viên Ngân hàng N là 28.900.000.000 đồng.
Với các hành vi nêu trên, Nguyễn Thị H bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Câu hỏi:
Câu 1. Anh (chị) hãy xác định tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể sau? Căn cứ pháp lý? (1,0 điểm)
– Những người đã dùng Giấy CNQSD đất của gia đình mình thế chấp cho Ngân hàng N để vay tiền và cho Nguyễn Thị H vay lại.
– Những người đã cho Nguyễn Thị H mượn Giấy CNQSD đất để đi vay tiền các cá nhân?
– Ngân hàng N
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Tình tiết bổ sung
Tòa án cấp Sơ thẩm đã kết án Nguyễn Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; kết án Bùi Thị A, Trương Thị C, Nguyễn Thị B về tội “Tham ô tài sản”. Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo đối với các bị cáo.
Sau phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thị H kháng cáo xin giảm hình phạt; ông Nguyễn Kim Q và bà Vũ Thị Thanh H; ông Vũ Khắc L và bà Ngô Thị H; anh Nguyễn Văn N và chị Nguyễn Thị Minh T kháng cáo đề nghị xem xét lại phần trách nhiệm dân sự.
Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã gửi giấy triệu tập tham gia phiên tòa cho ông Nguyễn Kim Q và bà Vũ Thị Thanh H; ông Vũ Khắc L và bà Ngô Thị H; anh Nguyễn Văn N và chị Nguyễn Thị Minh T. Các giấy triệu tập ghi tham gia phiên tòa vào ngày 22/4/2014. Tuy nhiên, ngày 21/4/2014, Tòa án cấp phúc thẩm đã mở phiên tòa phúc thẩm, xét kháng cáo của ông Nguyễn Kim Q và bà Vũ Thị Thanh H; ông Vũ Khắc L và bà Ngô Thị H; anh Nguyễn Văn N và chị Nguyễn Thị Minh T. Tại phiên tòa phúc thẩm, chỉ có bị cáo Nguyễn Thị H có mặt, các ông bà nêu trên vắng mặt không rõ lý do.
Câu 2. Anh (chị) hãy cho biết việc Tòa án cấp phúc thầm mở phiên tòa phúc thẩm vắng mặt những người nêu trên có đúng không? Vì sao? Nếu việc xét xử phúc thẩm vắng mặt như đã nêu trên là không đúng thì hướng giải quyết vấn đề này như thế nào? (1,0 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Câu 3. Theo anh (chị), việc giải quyết phần trách nhiệm dân sự của vụ án như thế nào? Vì sao? (1,0 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...
Tình huống 6:
(Trích: Đề thi Thẩm phán sơ cấp Quân sự đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)
Khoảng 14 giờ ngày 16/2/2018 Nguyễn Trọng Hùng, Nguyễn Mạnh Hùng và Trần Bảo Ngọc đứng xem Nguyễn Hồng Quảng và Nguyễn Văn Thắng cùng đồng bọn đánh bạc tại bờ suối khu V, thị trấn M. Khoảng 30 phút khi thấy Nguyễn Văn Thắng lấy số tiền 2.300.000 đồng (là tiền của mẹ Thắng đưa cho Thắng đi trả nợ và mua xe đạp cho em gái) ra đánh tiếp. Thấy vậy, Trần Bảo Ngọc nói với Nguyễn Trọng Hùng “mày giật tiền tao cản, tí nữa chia đôi”. Ngay sau đó Nguyễn Trọng Hùng giật số tiền trên tay Thắng và bỏ chạy. Thắng hô “cướp cướp” và đuổi theo được khoảng 10 mét thì túm được Nguyễn Trọng Hùng. Trong lúc Nguyễn Trọng Hùng và Nguyễn Văn Thắng đang giằng co thì Nguyễn Mạnh Hùng, Trần Ngọc Bảo lao vào ôm Thắng làm Thắng ngã xuống đất để Nguyễn Trọng Hùng cầm tiền chạy thoát. Sau đó, Nguyễn Trọng Hùng đã đưa toàn bộ số tiền cho Trần Bảo Ngọc, Ngọc đưa lại cho Nguyễn Trọng Hùng 500.000 đồng, đưa cho Nguyễn Mạnh Hùng 400.000 đồng, số còn lại Ngọc cầm. Ngày 23/2/2005 Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Trọng Hùng đến Công an huyện D đầu thú, còn Trần Bảo Ngọc đã bỏ trổn. Bản án hình sự sơ thẩm số 162/2018/HSST ngày 15/8/2018, Tòa án tỉnh Q áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm p khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt Nguyễn Trọng Hùng 4 năm tù; Nguyễn Mạnh Hùng 3 năm tù đều về tội “Cướp tài sản”.
Câu hỏi:
Câu 1: Anh, chị hãy xác định đầy đủ tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án? (1,5 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Câu 2: Anh, chị có nhận xét gì về tội danh mà cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với các bị cáo đúng hay sai? Tại sao? (2,5 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Tình tiết bổ sung
Do có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo nên tại Bản án hình sự phúc thẩm số 1324/2005/HSPT ngày 28/12/2018, Tòa cấp cao áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt Nguyễn Trọng Hùng 02 năm tù giam; Nguyễn Manh Hùng 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 3 năm đều về tội “Cướp giật tài sản”.
Câu 3: Theo anh, chị quyết định của Bản án phúc thẩm về tội danh và áp dụng điểm, khoản của điều luật và hình phạt như vậy có đúng không? Tại sao? (3,5 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Câu 4: Anh, chị hãy viết phần quyết định của Bản án theo quan điểm của anh chị về quyết định tội danh và hình phạt? (2,5 điểm)
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...
Tình huống 7:
(Trích: Đề thi Thẩm phán Trung cấp Quân sự đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)
Ngày 05/01/2018, Nguyễn Đình Hải ghi số đề tại bảng đề của chị Nguyễn Thị Nguyệt Hải trúng đề. Khi thanh toán Nguyệt trừ tiền Hải nợ 30.000 đồng, dẫn đến 2 bên cãi nhau; Hải dùng tay tát vào mặt Nguyệt.
Khoảng 19g30 cùng ngày, Nguyệt nói lại với Hoàng Duy Lân (chồng Nguyệt) việc bị Hải đánh. Lúc này Lâm đang ngồi uống rượu tại nhà anh Hanh. Nghe Nguyệt nói, Lâm mượn xe máy của anh Hanh và đem theo một con dao nhọn đi tìm Hải. Trên đường đi Lâm gặp Hoàng Duy Sỹ và Nguyễn Tiến Giáp. Lâm rủ Sỹ và Giáp cùng đi nhưng không nói cho Sỹ, Giáp biết là Lâm đi đâu, làm gì.
Lúc này Hải đang ở nhà Nguyễn Đình Hà (anh trai Hải). Giáp và Sỹ đến trước gặp Hải đang nói chuyện. Lâm đến sau, tay cầm con dao nhọn xông vào nhà Hải nói “thằng Hải là thằng sỏ lá” rồi dùng dao chém Hải, Hải tránh được Lâm liền chém 01 nhát vào ấm nước trên bàn, nhát thứ hai vào cạnh ghế, nhát thứ 3 trúng vào đầu Hải.
Hải bị Lâm chém liền hô: “Đem dao ra đây”. Ngay lúc đó Hà chạy xuống bếp cầm dao chạy đuổi chém vào đầu và lưng Lâm nhiều nhát, Lâm cầm dao đâm lại vào bụng Hà, Lâm và Hà đều bị gục ngã tại chỗ. Hải dùng dao chém vào tay Sỹ làm đứt dây đeo và vỡ mặt đồng hồ. Do Hà cũng bị thương nên không bị bắt giữ.
Hoàng Duy Lâm nằm viện điều trị 13 ngày. Kết quả giám định tỷ lệ thương tật của Lâm là 54%. Hải 5% và tỷ lệ thương tật của Hà là 53% .
Tại cáo trạng số 20/2018/HSST ngày 18/4/2018, VKSND tỉnh T đã truy tố Hà về tội “cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 BLHS.
Câu hỏi:
Câu 1: (2,5 điểm) Theo Anh (chị) trong vụ án này Lâm có phạm tội không? Nếu có phạm tội thì là tội gì? Quy định tại điểm khoản nào của BLHS 2015? Tội danh mà VKSND tỉnh T đã truy tố đối với Nguyễn Đình Hà đúng hay sai? Giải thích tại sao?.
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Tình tiết bổ sung: Vụ án được Toà án có thẩm quyền thụ lý theo như Cáo trạng của VKS và thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà đã quyết định đưa vụ án ra xét xử vào hồi 7h30 ngày 25/7/2018.
Câu 2: (1 điểm) Anh (chị) hãy xác định tư cách tố tụng của những người cần triệu tập tham gia phiên tòa Hình sự sơ thẩm.
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Câu 3: (2,5 điểm) Anh (chị) hãy lập kế hoạch xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo?
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Tình tiết bổ sung: Qua xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa đã làm rõ được nội dung vụ án như phần dữ kiện chung của đề bài. Nhưng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 điều 134 Bộ luật hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thường phần thuốc men cho bị hại.
Câu 4: (4 điểm) Anh (chị) hãy viết phần nhận định và quyết định của bản án, theo quan điểm của anh, chị về tội danh và hình phạt đối với Hà.
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...
Tình huống 8:
(Trích: Đề thi Thẩm phán Cao cấp Quân sự đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)
Do mâu thuẫn với nhau từ trước giữa hai nhóm học sinh thị trấn Đức Phổ với nhóm học sinh Phổ Văn, nên vào khoảng 11 giờ 20 phút ngày 8/4/2018 khi tan học về tại khu vực hiệu Phôtocopy trước cửa trường Phổ thông trung học Đức Phổ 1, phía đường quốc lộ 1a nhóm thị trấn Đức Phổ gồm: Lê Chính Trình,Võ Đình Huy, Huỳnh Quang Quý, Nguyễn Hân, Nguyễn Lê Minh Pháp và Lê Hải Nam phát hiện nhóm Phổ Văn gồm: Nguyên Đức Huy, Nguyễn Tấn Pháp, Nguyên Quốc Công đang đứng ở quán cháo nhà anh Thanh đối diện với hiệu Phôtôcopy nên nhóm của Trình đứng lại và đi sang nơi nhóm của Nguyễn Đốc Huy đứng. Tại đây, Võ Đình Huy hỏi Nguyễn Đức Huy “tại sao hôm qua mày đánh tao và Tin thì Nguyễn Đức Huy nói: “tao không đánh mày mà bạn tao đánh. Nguyên Đức Huy với Võ Đình Huy cãi nhau và Nguyễn Đức Huy nói “có gì tao xin lỗi, hôm nay có mẹ tao, hôm khác hãy giải quyết”. Võ Đinh Huy nói “không có bữa nào hết có gì giải quyết luôn bữa nay”. Khi Võ Đình Huy vừa nói xong thì Hân cầm dây nịt đánh nhóm của Nguyễn Đức Huy nhưng không trúng; Trinh cầm dao (loại dao gọt bút chì dài khoảng 15 cm có mũi nhọn hình mũi mác) đánh Nguyễn Tấn Pháp, Pháp né được nên không trúng. Lúc này anh Thanh chủ quán nói: “có đánh nhau thì ra ngoài đánh chứ không được đánh trong quán” nên cả hai nhóm giãn ra ngoài. Lúc này có người nói “Phổ Văn đông hơn sợ gì bay” thì nhóm của Nguyễn Đức Huy đuổi đánh nhóm của Trình theo hai hướng. Hướng thứ nhất: Nguyên Tấn Pháp cầm sợi dây xích dài 0,7 m cùng Nguyễn Quốc Công đánh nhau với Quý và Nam, Pháp dùng xích sắt đánh trúng Nam 2-3 cái vào mặt, vào vai của Nam, Công dùng thất lưng đánh Nam và Nam dùng dao chém Công thương tích hai bên cổ, cẳng tay phải. Khi chém lưỡi dao rơi xuống đất và Nam bỏ luôn cán dao tại đây.
Hướng thứ hai: Nguyên Đức Huy cùng một số thanh niên đuổi đánh Trình và Nguyễn Lê Minh Pháp. Khi nhóm của Nguyễn Đức Huy đuổi đến trước tiệm sửa xe của gia đình ông Nhàn thì gặp Hân, Hân dùng dây nịt đánh nhau với hai thanh niên chạy phía sau trong nhóm của Nguyễn Đức Huy, hai thanh niên này đánh Hân ngã rồi bỏ đi còn Nguyễn Đức Huy đuổi theo Trình. Khi đuổi Trình đến khu vực ngõ chính nhà ông Hoài thì Nguyễn Đức Huy dùng bút nịt đánh vào sau lưng Trình một cái. Bị Huy đánh trúng, Trình quay lại đánh trả, hai bên đánh lộn nhau, Nguyễn Đức Huy dùng bút nịt đánh Trình, Trình dùng tay trái đỡ gạt bút nịt, tay phải cầm con dao gọt bút chì trong nắm tay, đấm thẳng vào mặt trúng mắt trái của Huy gây thương tích, Nguyễn Đức Huy được đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện từ ngày 8/4/2018 đến ngày 18/4/2018.
Theo bản tóm tắt bệnh án số 466 ngày 21/5/2018 của Bệnh viện Đà Năng chuẩn đoán mắt (T) đau nhức, giảm thị lực, mi mắt sưng nề, kết mạc cương tụ, giác mạc hơi mờ; Thị lực mắt (T) bóng bàn tay. Siêu âm B kết quả: “thủy tinh thể rơi vào buồng dịch kính” (BL144). Theo giấy ra viện do khoa mắt Bệnh viện Đà Nẵng cấp cho Nguyễn Đức Huy ngày 15/4/2018 chẩn đoán mắt trái chẩn thương đụng dập nhãn cầu (BL143). Theo bệnh án của Viện mắt thành phố Hồ Chí Minh, thì Huy vào viện ngày 12/4/2018, chẩn đoán mắt trái chấn thương đụng dập, theo dõi vỡ nhãn cầu (BL146). Theo bản kết luận giám định số 183/08/GĐPY ngày 23/7/2018 của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi chẩn đoán giám định: 03 sẹo phần mềm vùng mặt có thể do vật sắc tác động: 04%; thị lực mắt (T): Sáng tối (+): 37% (BL131).
Theo bản kết luận giám định số 183/GĐPY ngày 23/7/2018 của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi tổn thương của Nguyễn Đức Huy: có 03 vết sẹo phần mềm vùng mặt có thể do vật sắc nhọn tác động tỷ lệ thương tích là 4%, thị lực mắt trái sáng tối (+) tỷ lệ thương tích là 37. Tổng cộng tỷ lệ thương tật của Nguyễn Đức Huy là 41%. Thành phần giám định gồm có bác sỹ Phạm Ngọc Phượng trưởng phòng, Bác sỹ Nguyễn Thanh Quang Vũ giám định viên pháp y tâm thần, bác sỹ Lý Trường Tuấn giám định viên pháp y, nhưng chỉ có chữ ký cùa Trưởng phòng bác sỹ Phạm Ngọc Phượng và đóng dấu Phòng giám định pháp y, không có chữ ký của các giám định viên Nguyễn Thanh Quang Vũ và Lý Trường Tuấn. Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đều xác định: vết thương ở vùng mắt trái của Nguyễn Đức Huy là do Lê Chính Trình dùng hung khí nguy hiểm (dao gọt bút chì) đấm vào mắt trái gây ra nên kết án bị cáo theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HSST ngày 25/11/2019 , Toa án nhân dân huyện Đức Phổ áp dụng khoản 3 Điều 134; khoản 1 Điều 330; điểm đ khoản 1 Điều 51 ; Điều 101; Điều 55 Bộ luật hình sự xử phạt Lê Chính Trình 3 năm 9 tháng tù về tội “cố ý gây thương tích”, 06 tháng tù về tội “gây trối trật tự công cộng”; tổng hợp hình phạt, buộc Lê Chính Trình phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 4 năm 3 tháng tù; áp dụng Điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự buộc Lê Chính Trình phải bồi thường cho Nguyễn Đức Huy các khoản thiệt hại gồm: chi phí thuốc, cấp cứu, đi lại điều trị khám và tiền công chăm sóc lúc nằm viện, tổn thất tinh thần tổng cộng là 32.309.227 đồng.
(Ngoài ra bản án sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo Lê Hải Nam, Nguyễn Tấn Pháp mỗi bị cáo bị xử 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và các bị cáo Nguyễn Quốc Công, Nguyễn Hân mỗi bị cáo 12 tháng cải tạo không giam giữ đều về tội “gây rối trật tự công cộng”.
Ngày 18/11/2019 Lê Chính Trình kháng cáo xin xem xét lại tội “gây rối trật tự công cộng” và thương tích ở mắt của Nguyễn Đức Huy không do Trình gây ra. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 58/2020/HSPT ngày 28/7/2020, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi áp dụng khoản 3 Điều 134; khoản 1 Điều 330; điểm đ khoản 1 Điều 51; Điều 91; Điều 101; Điều 55 Bộ luật hình sự xử phạt Lê Chính Trình 3 năm tù về tội “cố ý gây thương tích”, 06 tháng tù về tội “gây rối trật tự công cộng”.Tổng hợp hình phạt, buộc Lê Chính Trình phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 3 năm 6 tháng tù.
Về dân sự: áp dụng Điều 590 Bộ luật dân sự buộc Lê Chính Trình phải bồi thường cho Nguyễn Đức Huy các khoản chi phí họp lý để điều trị vết thương, tổng số tiền là 32.309.227 đồng.
Câu hỏi;
Câu 1 (2,5 điểm): Theo anh, chị bản kết luận giám định số 183/GĐPY ngày 23/7/2018 của Phòng giám định pháp y Bệnh vỉện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi có hợp pháp không? Tại sao? Căn cứ pháp lý? Bản kết luận đó có mâu thuẫn gì với nhân định của cấp sơ thẩm và phúc thẩm về vết thương ở mắt của người bị hại không?
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Câu 2 (3,5 điểm): Anh, chị có nhận xét gì về tính đúng, sai đối với 02 tội danh mà cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã tuyên đối với bị cáo Lê Chính Trình? Tại sao?
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Câu 3 (2 điểm): Theo anh chị hành vi của Nguyễn Đức Huy, có phạm tội không? Nếu có thì sẽ phậm tội gì?
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...Cân 4 (2 điểm): Theo anh, chị cả cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều buộc Lê Chính Trình phải bồi thương cho Nguyễn Đức Huy các khoản chi phí hợp lý để điều trị vết thương, tổng số tiền là 32.309.227 đồng có đúng không? Tại sao?
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...