Chuyên đề: “Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm”.

Người báo cáo: Nguyễn Văn Hoà

Chánh án TAND huyện Mường La.

Để giải quyết một vụ án hình sự thì tùy từng giai đoạn tố tụng, cán bộ Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng ở các Tòa án đều phải thực hiện nhiều công việc như: nhận và thụ lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ, các công việc cần làm trong thời hạn chuẩn bị xét xử, chuẩn bị các công việc để mở phiên tòa hình sự sơ thẩm, các công việc cần làm sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm… Ở mỗi giai đoạn tố tụng đều có những quy định, đặc điểm và tầm quan trọng riêng. Cụ thể như trong giai đoạn nhận và thụ lý hồ sơ vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng bởi lẽ quá trình nhận và thụ lý vụ án hình sự được đầy đủ, chính xác, đảm bảo tuân thủ các điều kiện mà pháp luật quy định sẽ là tiền đề để thực hiện tốt các hoạt động tố tụng ở giai đoạn tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bên cạnh đó, một yếu tố tác động không nhỏ vào kết quả xét xử được chính xác, thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật đó là việc nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa và các vị Hội thẩm nhân dân; chỉ thông qua việc nghiên cứu hồ sơ mới biết được hồ sơ vụ án đã đầy đủ các tài liệu hay chưa, nếu phạm tội thì phạm tội gì được quy định trong Bộ luật Hình sự, các quyết định của cấp có thẩm quyền có đúng pháp luật hay không, trên cơ sở nghiên cứu mới có căn cứ để có quyết định đưa vụ án ra xét xử không hay giải quyết bằng quyết định khác và có căn cứ trả lời đơn khiếu nại, tố cáo…

I. NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu, nội dung nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

1.1 Khái niệm: Điều 131 BLTTHS quy định:

1. Khi tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra, Cơ quan điều tra phải lập hồ sơ vụ án.

2. Hồ sơ vụ án gồm:

a) Lệnh, quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;

b) Các biên bản tố tụng do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát lập;

c) Các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án.

3. Các chứng cứ, tài liệu do Viện kiểm sát, Tòa án thu thập trong giai đoạn truy tố, xét xử phải đưa vào hồ sơ vụ án.

4. Hồ sơ vụ án phải có thống kê tài liệu kèm theo. Thống kê tài liệu ghi rõ tên tài liệu, số bút lục và đặc điểm của tài liệu (nếu có). Trường hợp có bổ sung tài liệu vào hồ sơ vụ án thì phải có thống kê tài liệu bổ sung. Hồ sơ vụ án phải được quản lý, lưu giữ, sử dụng theo quy định của pháp luật.”

Căn cứ theo quy định trên thì chưa có khái niệm cụ thể thế nào là hồ sơ vụ án mà chỉ có nêu những văn bản có trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, qua Điều 131 BLTTHS năm 2015 có thể khái quát khái niệm hồ sơ vụ án hình sự như sau: Hồ sơ vụ án hình sự là tổng hợp các văn bản, tài liệu được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập hoặc lập ra trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, được sắp xếp theo một trình tự nhất định phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án và lưu trữ lâu dài.

Như vậy, hồ sơ vụ án hình sự theo quy định được lập bởi Cơ quan điều tra bắt đầu từ giai đoạn khởi tố, điều tra. Những văn bản, tài liệu, chứng cứ do Viện kiểm sát, Tòa án thu thập được phải được bổ sung vào hồ sơ vụ án tùy vào từng giai đoạn và phải có bảng kê chi tiết.

Cũng xuất phát từ hoạt động của những người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án ta cũng có khái niệm về nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự như sau:
Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là hoạt động của người tiến hành tố tụng, người bào chữa sử dụng nhiều phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp nhằm đánh giá các tài liệu, chứng cứ để xác định sự thật khách quan vụ án.

1.2 Mục đích: Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nhằm giúp cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nắm vững được nội dung vụ án, để từ đó có hướng giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn và chính xác nhất.

1.3 Yêu cầu: Trong hoạt động tố tụng hình sự thì các tình tiết trong vụ án luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để nắm được nội dung vụ án một cách chắc chắn cũng như chủ động trong quá trình xét xử đòi hỏi người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có hệ thống và khoa học toàn bộ các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra đã có trong hồ sơ. Trước hết, Thẩm phán cần nghiên cứu từng tài liệu riêng lẻ kết hợp so sánh chúng với các tài liệu, chứng cứ khác để tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Từ đó, tổng hợp lại để phát hiện sự hợp lý hoặc những điểm mâu thuẫn giữa các tài liệu, chứng cứ nhằm đánh giá sự tin cậy của các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập. Đây chính là cơ sở để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể ra một trong các quyết định được quy định tại Điều 277 BLTTHS như: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

1.4 Nội dung nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự: Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phải làm sáng tỏ những vấn đề sau:

+ Vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp mình xét xử hay không?

+ Có cần xử lý vật chứng hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm việc bồi thường thiệt hại trước khi xét xử không?

+ Các thủ tục trong điều tra, truy tố đã đảm bảo đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật hay không?

+ Có cần thiết áp dụng, thay đổi, hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo (các bị cáo) hay không?

+ Hành vi của bị cáo (các bị cáo) có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm không; tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố có phù hợp không?

+ Bị can, bị cáo bị truy tố về khung hình phạt như thế nào? Có là người dưới 18 tuổi không? Có nhược điểm về tâm thần hay thể chất không? để khi ra Quyết định xét xử chú ý về thành phần Hội đồng xét xử, người bào chữa, người đại diện…

+ Có căn cứ để đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án không?

2. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là cách thức xem xét, đọc, ghi chép, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhằm nắm vững bản chất vụ án, diễn biến của hành vi phạm tội, qua đó xác định sự thật khách quan của vụ án.

Trong thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, tùy từng giai đoạn tố tụng thì những người tiến hành tố tụng tiếp cận hồ sơ để nghiên cứu theo nhiều phương pháp khác nhau, có nhiều đánh giá khác nhau. Về cơ bản thì những người tiến hành tố tụng đều nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có hiệu quả, chất lượng góp phần vào việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, có lúc lựa chọn phương pháp nghiên cứu không phù hợp dẫn đến khó khăn trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án; đôi lúc vẫn còn xảy ra tình trạng nghiên cứu hồ sơ không đầy đủ, không khách quan, không phân tích, đánh giá sự liên quan giữa các tài liệu. Thậm chí một số vụ án do không nghiên cứu hồ sơ kỹ nên không phát hiện được vi phạm tố tụng, không nghiên cứu hết các chứng cứ. Ví dụ như chỉ chú trọng đến chứng cứ lời khai nhưng không chú trọng đến những chứng cứ vật chất hoặc ngược lại. Chú trọng vật chứng nhưng không chú trọng hiện trường, đặc biệt những vụ án hiện trường có ý nghĩa rất nhiều đối với việc định tội, gỡ tội như: Tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260 BLHS)…

Trên thực tế có nhiều phương pháp để nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự; việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu nào phụ thuộc vào từng vụ án cụ thể và kinh nghiệm thực tiễn của từng Thẩm phán. Thông thường Thẩm phán thường thực hiện hai phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phổ biến nhất đó là:

Phương pháp thứ nhất: Nghiên cứu hồ sơ vụ án theo trình tự tố tụng tức là bắt đầu nghiên cứu từ các tài liệu tố tụng gồm:

+ Quyết định khởi tố vụ án;

+ Quyết định khởi tố bị can;

+ Các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát;

+ Các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn;

+ Kết luận điều tra;

+ Bản Cáo trạng…

Nghiên cứu theo phương pháp này có ưu điểm là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thái độ khách quan hơn, không bị chi phối và phụ thuộc vào quan điểm của cơ quan Điều tra tại kết luận điều tra và Cáo trạng của Viện kiểm sát, song lại có nhược điểm mất nhiều thời gian mới nắm vững được các tình tiết của vụ án cũng như quan điểm của cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát.

Phương pháp thứ hai: Là nghiên cứu hồ sơ không theo trình tự tố tụng, bắt đầu từ bản Cáo trạng rồi đến các tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án theo trình tự ngược lại về mặt thời gian để kiểm tra tính xác thực và đúng đắn của quyết định truy tố. Phương pháp này có ưu điểm về mặt thời gian song cũng có nhược điểm là nếu không cẩn thận Thẩm phán dễ bị ảnh hưởng bởi quan điểm của cơ quan Điều tra cũng như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát dẫn đến có định kiến và hay áp đặt ý thức chủ quan vào việc giải quyết vụ án, kể cả việc định tội danh và quyết định hình phạt.

II. KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Sau khi nhận hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án hình sự và các Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử cần phải kiểm tra xem hồ sơ đã đảm bảo về thủ tục tố tụng và đủ số lượng bút lục theo danh mục thống kê tài liệu có trong hồ sơ không, nếu phát hiện thiếu tài liệu nào thì phải kiểm tra để giải quyết ngay (kiểm tra số lượng bút lục theo danh mục thống kê trước hết là nhiệm vụ của thư ký khi tiếp nhận hồ sơ, tuy nhiên việc đó chưa hẳn đã tuyệt đối nên đòi hỏi phải kiểm tra lại một lần nữa nhất là việc giao nhận cáo trạng, vật chứng…); thực tế trước khi thực hiện BLTTHS năm 2015 có rất nhiều trường hợp khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhưng chưa có biên bản giao nhận Cáo trạng, biên bản giao nhận vật chứng thì trong trường hợp này, Tòa án vẫn nhận hồ sơ vụ án nhưng chưa vào sổ thụ lý mà chỉ vào sổ để theo dõi và cần thông báo cho Viện kiểm sát biết trong thời hạn bao nhiêu ngày thì Viện kiểm sát phải hoàn thành việc giao bản Cáo trạng cho bị can, nếu hết thời hạn đã định mà Viện kiểm sát vẫn chưa chuyển biên bản giao nhận Cáo trạng thì trả lại hồ sơ. Nhưng đến nay theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 276 BLTTHS: Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) không đủ so với bảng kê tài liệu, vật chứng hoặc bản cáo trạng chưa được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ án và yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, vật chứng; yêu cầu giao bản cáo trạng cho bị can hoặc người đại diện của bị can.

Khi nghiên cứu bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có trong hồ sơ cũng phải kiểm tra để đánh giá về tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của chúng. Việc đánh giá tổng hợp các chứng cứ về vụ án chỉ được tiến hành sau khi đã nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ.

Lưu ý, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự đối với các chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội của một người nào đó, cần phải chứng minh rõ những vấn đề quy định tại Điều 85 BLTTHS đó là:

Thứ nhất: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

Thứ hai: Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không (chú ý tuổi, năng lực thể chất); mục đích, động cơ phạm tội;

Thứ ba: Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

Thứ tư: Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Thứ năm: Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

Thứ sáu: Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt theo quy định tại các điểm khoản điều của BLHS như:

+ Về loại trừ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 8; khoản 2 Điều 12: tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Điều 14: Chuẩn bị phạm tội; Điều 20: Sự kiện bất ngờ; Điều 21: Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự; Điều 22: Phòng vệ chính đáng; Điều 23: Tình thế cấp thiết.

+ Về miễn trách nhiệm hình sự: Điều 16:Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; Điều 29: Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự; khoản 2 Điều 91: Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Khoản 7 Điều 364: Tội Đưa hối lộ; khoản 6 Điều 365: Tội môi giới hối lộ; khoản 2 Điều 390: Tội không tố giác tội phạm.

Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS thì: “chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo một trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn: vật chứng; lời khai, lời trình bày của bị hại, những người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, bị can, bị cáo; kết luận giám định, định giá tài sản; biên bản về hoạt động điều tra và các tài liệu, đồ vật khác…

Chính vì vậy khi nghiên cứu các chứng cứ này cần phải nghiên cứu hết sức cẩn thận, tỷ mỉ từng chi tiết và theo một trình tự nhất định để có đánh giá đúng, khách quan về vụ án.

Thông thường khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự theo phương pháp nghiên cứu thứ hai “nghiên cứu hồ sơ không theo trình tự tố tụng” cần tiến hành theo trình tự các nhóm tài liệu sau:

1. Nghiên cứu bản Cáo trạng và biên bản giao nhận Cáo trạng

Như chúng ta biết Bản Cáo trạng là cơ sở pháp lý để Tòa án xét xử vụ án; Bản cáo trạng ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật Hình sự được áp dụng. Vì vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm nhân dân cần nghiên cứu kỹ bản Cáo trạng để ghi chép, nắm vững nội dung vụ án và xác định rõ giới hạn xét xử cụ thể là:

+ Các hành vi phạm tội cụ thể của từng bị cáo mà Viện kiểm sát đã xác định trong Cáo trạng (kể cả hành vi không truy tố).

+ Các chứng cứ mà Viện kiểm sát dùng làm căn cứ xác định tội phạm và người phạm tội.

+ Tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố các bị can.

+ Những tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị can.

+ Mức độ thiệt hại và yêu cầu cụ thể về bồi thường thiệt hại (nếu có).

Cùng với việc nghiên cứu cáo trạng, cần đọc biên bản giao nhận cáo trạng để tìm hiểu xem bị can có đồng ý với nội dung bản cáo trạng hay không? nếu không đồng ý thì ý kiến của bị can như thế nào, bị can có đưa ra được những chứng cứ để bác bỏ một phần hay toàn bộ nội dung quyết định truy tố hay không? và từ đó dự kiến tình huống có thể phát sinh như: phản cung, thay đổi lời khai.

2. Nghiên cứu kết luận điều tra

Sau khi nghiên cứu Bản cáo trạng, cần nghiên cứu Kết luận điều tra. Việc nghiên cứu kết luận điều tra và đối chiếu, so sánh với bản Cáo trạng giúp Thẩm phán nắm được diễn biến của hành vi phạm tội, các chứng cứ mà Cơ quan điều tra sử dụng để chứng minh tội phạm và người phạm tội, kết luận và đề nghị của cơ quan điều tra về hướng giải quyết vụ án. Cần so sánh những điểm khác nhau giữa Kết luận điều tra và bản Cáo trạng (về các hành vi phạm tội, diện truy tố, các tội danh, điều khoản áp dụng của Bộ luật hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị áp dụng đối với từng bị can và lý do của sự khác nhau đó trong các vụ án có đồng phạm) để có hướng giải quyết các mâu thuẫn khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu khác.

3. Nghiên cứu các tài liệu về lời khai của những người tham gia tố tụng

Sau khi nghiên cứu bản Cáo trạng và Kết luận điều tra thì nghiên cứu đến các tài liệu về lời khai của những người tham gia tố tụng như: Biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người đại diện hợp pháp của bị can, bị hại (nếu có), biên bản đối chất và các tài liệu khác.

3.1 Nghiên cứu lời khai của bị can

Cần xác định lời khai của bị can là một trong những chứng cứ trực tiếp để xác định sự thật về vụ án, chứa đựng các yếu tố cấu thành tội phạm thể hiện hành vi, ý chí, mong muốn hậu quả xảy ra, cố ý hay vô ý… Việc nghiên cứu lời khai, bản tường trình của bị can cần tiến hành theo trình tự thời gian lấy lời khai và cần xác định rõ những hành vi phạm tội nào nêu trong Cáo trạng mà bị can thừa nhận, hành vi nào mà bị can không thừa nhận và lý do của việc thừa nhận hay không thừa nhận hoặc thay đổi lời khai là gì; động cơ, mục đích thực hiện hành vi phạm tội; mức độ ăn năn hối cải và thái độ khai báo của bị can trong quá trình điều tra. Các lý lẽ, chứng cứ mà bị can đưa ra để bào chữa cho mình cũng như những điểm mâu thuẫn trong các lời khai của bị can.

 Lưu ý: Trong quá trình nghiên cứu lời khai của bị can, cần kiểm tra việc tuân thủ tố tụng của cơ quan điều tra khi lấy lời khai để bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ như: Bị can có được giải thích đầy đủ về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 60 BLTTHS hay không (đặc biệt là quyền bào chữa của bị can trong trường hợp phạm tội bị truy tố theo khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 76 BLTTHS)? Việc ký xác nhận của bị can có đúng quy định không? Việc sửa chữa, tẩy xóa biên bản hỏi cung bị can có chữ ký xác nhận của bị can hay không? Trong trường hợp biên bản hỏi cung ghi cả thái độ, cử chỉ của bị can trong lúc trả lời như: bị can cúi đầu, im lặng, không trả lời, lý do bị can không ký vào biên bản…thì Thẩm phán cần ghi lại và lưu ý làm rõ nguyên nhân, trong nhiều trường hợp những cử chỉ, hành vi này thể hiện diễn biến tâm lý, đấu tranh tư tưởng của bị can khi khai báo.

Qua thực tiễn xét xử nhận thấy, trong biên bản ghi lời khai, có ghi việc giải thích quyền cho bị can biết theo Điều 60 BLTTHS, nhưng thực chất việc giải thích của Điều tra viên như thế nào, có đầy đủ, để cho bị can hiểu và thực hiện quyền của mình hay không? việc ghi tại biên bản ghi lời khai đã giải thích về quyền và nghĩa vụ như vậy có bảo đảm tính khách quan hay không? thì chưa có cơ sở để đánh giá. Tuy nhiên, BLTTHS quy định việc giải thích quyền và nghĩa vụ của họ phải được ghi vào biên bản.

3.2 Nghiên cứu lời khai của người làm chứng

Cũng giống như nghiên cứu lời khai của bị can, khi nghiên cứu lời khai của người làm chứng cũng cần tiến hành nghiên cứu theo trình tự thời gian để xác định:

– Độ tin cậy, tính chính xác trong lời khai của người làm chứng và cần xác định họ khai về những tình tiết cụ thể nào trong vụ án và tại sao họ biết;

– Họ trực tiếp chứng kiến sự việc hay gián tiếp biết về vụ việc thông qua nguồn tin nào khác;

– Mối quan hệ giữa người làm chứng với người phạm tội và bị hại;

– Điều kiện khách quan (không gian, thời gian, địa điểm) và điều kiện chủ quan (tinh thần, tuổi tác, nghề nghiệp, khả năng tiếp thu thông tin và nhận thức…) của người làm chứng khi tiếp nhận thông tin. Các điểm mâu thuẫn giữa các lời khai trước và lời khai sau của người làm chứng (để đối chiếu với các chứng cứ khác có trong vụ án). Nếu cần thiết, phải cho đối chất giữa người làm chứng và bị can, bị cáo hoặc thực nghiệm điều tra.

Ví dụ: Trong thực tiễn có nhiều vụ tai nạn giao thông, khi khám nghiệm hiện trường chữ ký trong biên bản không phải là của người có mặt từ đầu khi xảy ra tai nạn mà chỉ là những người ra sau, nhìn thấy hiện trường như vậy chứ không phải là người chứng kiến việc va chạm dẫn đến tai nạn, do vậy việc trình bày của họ với cơ quan Điều tra chỉ là theo cảm tính.

3.3 Nghiên cứu biên bản đối chất

Trong hồ sơ vụ án có thể có nhiều biên bản đối chất giữa các bị can với nhau, giữa bị can và bị hại, giữa bị can và người làm chứng, giữa bị hại và người làm chứng … Thông thường trong vụ án đối chất là biện pháp cuối cùng khi đã thực hiện hết các biện pháp khác mà không có kết quả. Khi nghiên cứu phải chú ý đến cách đặt vấn đề của người hỏi và trả lời của người được hỏi (tất cả các bên), ghi chép, đối chiếu cũng hết sức quan trọng, giúp cho Thẩm phán có thêm cơ sở để đánh giá độ tin cậy trong các lời khai còn mâu thuẫn để từ đó xác định được chứng cứ nào là khách quan, chứng cứ nào là không khách quan. Trên cơ sở đó rút ra được những điểm đã thống nhất giữa những người đối chất và những điểm còn mâu thuẫn cần tiếp tục khắc phục bằng các chứng cứ tài liệu khác.

3.4 Nghiên cứu lời khai của bị hại

Trong các vụ án hình sự, bị hại thường là người trực tiếp chứng kiến hành vi phạm tội; Lời khai của bị hại chứa đựng nhiều tình tiết chứng minh như trị giá tài sản (vụ án xâm phạm sở hữu), vị trí bị đâm, đanh, đá… (những vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe…) là cơ sở chứng minh hậu quả đã xảy ra do hành vi phạm tội xâm hại. Do vậy, việc nghiên cứu lời khai của họ sẽ giúp cho Thẩm phán nắm vững được diễn biến của vụ án cũng như các hành vi phạm tội mà bị can đã thực hiện, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, quan điểm của người bị hại hoặc nhân thân của họ và yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Khi nghiên cứu lời khai của bị hại, Thẩm phán cần nghiên cứu theo trình tự thời gian mà họ trình bày, cần chú ý so sánh, đối chiếu các lời khai của bị hại trong các lần khác nhau xem có phù hợp hay mâu thuẫn với nhau, thái độ tâm lý, mối quan hệ của họ đối với người phạm tội như thế nào; đối chiếu giữa lời khai của bị hại với lời khai của bị can và làm rõ mâu thuẫn trong lời khai so với thực tế khách quan và với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án để có hướng giải quyết đúng đắn vụ án, tránh để lọt tội phạm hoặc gây oan sai.

3.5 Nghiên cứu lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị can, bị hại.

Việc nghiên cứu lời khai của những người tham gia tố tụng này cũng tương tự như nghiên cứu lời khai của bị hại, song Thẩm phán cần chú ý đến những yêu cầu của họ đối với vụ án để đối chiếu, so sánh với những chứng cứ khác; xác định rõ quyền lợi và trách nhiệm của họ trong vụ án, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của họ, để có cơ sở giải quyết các vấn đề liên quan đến việc bồi thường trách nhiệm dân sự trong vụ án. Đặc biệt là chú ý những trường hợp người không bị khởi tố do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc người dưới 18 tuổi.

4. Nghiên cứu về tài liệu về nhân thân bị can, bị hại

Nhân thân của người phạm tội được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt (như là tuổi, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự…) của người phạm tội;

Hồ sơ vụ án có nhiều tài liệu chứa đựng thông tin về nhân thân của bị can như:

– Lý lịch bị can; Danh chỉ bản

– Thông báo kết quả tra cứu (tàng thư);

– Các tài liệu về tiền án, tiền sự, giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt… (nếu có);

– Tài liệu xác minh độ tuổi nếu bị can là người dưới 18 tuổi: theo khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH thì việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau: Giấy chứng sinh; Chứng minh nhân dân; Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu. Kết luận giám định.

– Giấy khai sinh của đứa trẻ hoặc giấy chứng nhận tình trạng thai nghén do cơ quan y tế cấp (nếu bị can là phụ nữ đang trong thời kỳ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi).

Nghiên cứu, ghi chép giúp Thẩm phán hiểu rõ về nhân thân, hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống của bị can, phát hiện nhưng vấn đề còn mâu thuẫn trong các tài liệu, có ý nghĩa đối với việc định tội cũng như mối liên hệ giữa nhân thân người phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm sáng tỏ động cơ, mục đích của người phạm tội.

Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là hết sức quan trọng bởi lẽ vì liên quan đến năng lực trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự nên khi tính tuổi phải tính theo tuổi tròn (Điều 12 BLHS: từ đủ 14 tuổi hoặc từ đủ 16 tuổi) và tính theo ngày sinh (Mục 9 phần I Công văn 64 của TANDTC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến).

Ví dụ: Một người sinh ngày 1/1/2006 thì tới ngày 1/1/2020 mới đủ 14 tuổi và tới 1/1/2022 mới đủ 16 tuổi. Trong trường hợp, không có đủ điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh. Ví dụ chỉ biết sinh tháng 5/2006 mà không biết ngày thì lấy ngày 31/5/2006. Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng làm ngày, tháng, năm sinh (khoản 2 Điều 417 BLTTHS). Ví dụ chỉ biết sinh năm 2006 thì lấy ngày 31/12/2006.

Mặt khác nhân thân của bị can là một trong những căn cứ để xác định thẩm quyền (Toà gia đình và người chưa thành niên theo thông tư số 02/2018 của TANDTC) khung hình phạt và quyết định hình phạt. Do vậy, trong từng vụ án cụ thể, nếu trong hồ sơ không có đủ các tài liệu này hoặc không có tài liệu phản ánh kết quả xác minh của cơ quan điều tra về những đặc điểm nhân thân của bị can thì cần yêu cầu cơ quan điều tra làm rõ.

5. Nghiên cứu các tài liệu về nhân thân bị hại

– Tài liệu chứng minh về độ tuổi của bị hại dưới 18 tuổi: theo khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH thì việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân; Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu. Kết luận giám định.

– Giấy chứng nhận của cơ quan y tế về tình trạng thai nghén nếu bị hại là phụ nữ có thai.

6. Nghiên cứu thủ tục tố tụng (các tài liệu về khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các văn bản về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…).

Khi nghiên cứu đối với thủ tục tố tụng đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm phải nắm vững các bước (trình tự) tố tụng, các cơ quan ban hành, thời hạn ban hành, thẩm quyền ký ban hành (phê chuẩn) để xem xét tính đúng đắn của quyết định, lệnh… Trong trường hợp phát hiện vi phạm phải báo cáo lãnh đạo xem xét đồng thời tự đánh giá tính chất vi phạm để đề xuất phương án xử lý để đảm bảo đúng pháp luật. Lưu ý: trường hợp không trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017 “2. Viện kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; b) Người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng khi thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì họ đã đủ 18 tuổi”.

7. Nghiên cứu các tài liệu về kết quả điều tra

Trong hồ sơ vụ án hình sự, ngoài tài liệu phản ánh về các lời khai còn có nhiều tài liệu phản ánh về kết quả điều tra như: sơ đồ hiện trường; các biên bản khám xét, thu giữ vật chứng, biên bản giao vật chứng, khám nghiệm hiện trường, nhận dạng, thực nghiệm điều tra… Đối với các tài liệu này, trước hết cần phải kiểm tra việc tuân thủ các quy định của BLTTHS về trình tự, thủ tục lập biên bản và tiến hành các hoạt động tố tụng này của cơ quan điều tra như: thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, việc ký xác nhận vào biên bản, đặc biệt là nội dung phản ánh về hiện trường vụ án bởi lẽ: Hiện trường là nơi xảy ra sự việc có dấu hiệu tội phạm vì thế nó chứa đựng nhiều nội dung quan trọng làm cơ sở giải quyết vụ án, nó thể hiện khách quan nhất những chứng cứ hiện có khi xảy ra sự việc nên nghiên cứu hồ sơ phải thật chú ý đến hiện trường và phải đối chiếu với biên bản hiện trường xem có sai sót không? Hiện trường có thể hiện trung thực và có phù hợp với lời khai (bị can, bị hại, người làm chứng) không? Đối với những vụ án như tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, tội Giết người… hiện trường có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội vì thế cần phải nghiên cứu thật kỹ càng.

8. Nghiên cứu kết luận giám định

– Trước hết cần kiểm tra các tài liệu, đồ vật (số lượng, chất lượng các đồ vật, tài liệu Cơ quan điều tra gửi đi) mà cơ quan giám định đã xem xét để đưa ra kết luận giám định;

– Thẩm quyền của tổ chức (Hội đồng) giám định và tính hợp pháp của kết luận giám định. Cần so sánh kết luận giám định với các nội dung yêu cầu giám định và chứng cứ, tài liệu khác của vụ án để xác định độ chính xác, khách quan của kết luận giám định. Trong trường hợp cần thiết phải quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.

Trong các vụ án gây thương tích thì phải xem chứng thương của bệnh viện mô tả thương tích của người bị hại khi vào viện như thế nào để xác định được cơ chế hình thành vết thương có phù hợp với hung khí gây án không? Kết luận giám định đã giám định đầy đủ các vết thương trên người nạn nhân chưa.

9. Nghiên cứu các tài liệu khác

Bên cạnh việc nghiên cứu những tài liệu chính liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự, Thẩm phán cũng cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc các nhóm tài liệu khác như: Thông báo kết quả điều tra cho đương sự; thông báo kết luận định giá tài sản… thống kê tài liệu có trong hồ sơ và biên bản giao nhận hồ sơ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát; Biên bản giao nhận hồ sơ giữa Viện kiểm sát và Tòa án.

III. TRÍCH TIỂU HỒ SƠ, LẬP KẾ HOẠCH ĐIỀU KHIỂN PHIÊN TOÀ

Sau khi nghiên cứu hồ sơ xong, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa cũng như Hội thẩm nhân dân cần trích một tiểu hồ sơ phục vụ cho công tác xét xử tại phiên tòa. Trong tiểu hồ sơ cần thể hiện rõ:

– Tóm tắt nội dung vụ án, tội danh và điều luật mà Cáo trạng đã truy tố, những mâu thuẫn trong lời khai bị cáo với cáo trạng của Viện kiểm sát;

– Tóm tắt lời khai của từng bị cáo phù hợp với nội dung của Cáo trạng và diễn biến của vụ án, được sử dụng như là những chứng cứ buộc tội có các bút lục cụ thể, dùng để đấu tranh kịp thời với bị cáo tại phiên tòa, có thể dùng ngay lời khai của bị cáo này để đấu tranh với các bị cáo khác, nếu vì lý do nào đó mà bị cáo lại chối bỏ lời khai của mình như đã trình bày tại cơ quan điều tra;

– Tóm tắt các bút lục chứa đựng các chứng cứ buộc tội như biên bản quả tang, kết luận giám định, sổ sách, chứng từ…

– Tóm tắt các bút lục ghi lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bao gồm cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.

Cùng với việc trích tiểu hồ sơ, thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán cần thực hiện việc lập kế hoạch điểu khiển phiên toà để chủ động trong việc điều hành phiên tòa, phải phân loại các bị cáo, dự kiến các tình huống có thể xảy ra, kể cả trong trường hợp hồ sơ thể hiện các bị cáo khai rất thành khẩn, cần xác định các tình huống như:

– Các bị cáo có thể sẽ phản cung, chối bỏ lời khai của mình tại cơ quan điều tra …

– Cần phân loại và đánh giá xem bị cáo nào khi ra Tòa sẽ khai thành khẩn thì hỏi trước, đôi khi không nên hỏi bị cáo đầu vụ mà có kế hoạch hỏi tất cả các bị cáo có vai trò thứ yếu trước rồi mới có kế hoạch xét hỏi bị cáo đầu vụ sau.

– Cần phải có những câu hỏi trọng tâm, mở để bị cáo tự khai ra những hành vi phạm tội của mình.

– Khi đặt câu hỏi cũng cần có kế hoạch đưa ra các tài liệu, chứng cứ ra để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nếu bị cáo cố tình ngoan cố không chịu khai báo thành khẩn.

IV. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG PHÁT SINH TRONG NGHIÊN CỨU

1. Về trả hồ sơ điều tra bổ sung và chuyển thẩm quyền giải quyết

Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa được giao nhiệm vụ xét xử vụ án đó nếu xét thấy cần phải điều tra bổ sung mới đủ căn cứ để giải quyết vụ án thì ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung theo quy định tại Điều 280 BLTTHS.

Một số trường hợp phải trả hồ sơ điều tra bổ sung như: thiếu chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” để xác định hành vi đã xảy ra có đủ yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự hay thuộc trường hợp không phải là hành vi phạm tội; thiếu chứng cứ để chứng minh “ thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu, phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào? Chứng cứ để chứng minh” ai là người thực hiện hành vi phạm tội” và “có lỗi hay không có lỗi”; “ có năng lực trách nhiệm hình sự không” như người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa? Có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không; hoặc có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm; Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

Trường hợp khi xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố thì cần lưu ý thẩm quyền cũng như giới hạn của việc xét xử; theo quy định tại khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự thì trường hợp này Toà án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì cần xử lý như sau: Nếu Thẩm phán quyết định xét xử tội danh nặng hơn nhưng vẫn thuộc thẩm quyền của Toà án huyện thì Toà án huyện đã thụ lý xét xử sơ thẩm. Nếu Thẩm phán quyết định xét xử tội danh nặng hơn thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh thì phải báo cáo Chánh án để chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử theo quy định.

  Lưu ý: Việc thực hiện trả hồ sơ điều tra bổ sung là cần thiết để giải quyết vụ án hình sự được chính xác tuy nhiên khi tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung Thẩm phán cũng cần chú ý thực hiện việc phối hợp với Viện kiểm sát trong việc trả hồ sơ theo quy định tại Điều 13 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT – VKSNDTC- TANDTC – BCA – BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

2. Về xử lý vật chứng là dữ liệu điện tử

Thực tiễn trong một số vụ án cơ quan chức năng đã thu thập sao lưu dữ liệu điện tử từ Camara an ninh của hộ gia đình, Camara an ninh giao thông …vào USB, thẻ nhớ…, vấn đề đặt ra là khi giải quyết xét xử thì việc lưu giữ, xử lý các USB, thẻ nhớ như thế nào?

Quan điểm 1 cho rằng USB, thẻ nhớ phải được chuyển theo hồ sơ vụ án và bảo quản theo hồ sơ vụ án.

Quan điểm 2 cho rằng USB, thẻ nhớ là phương tiện điện tử chứa đựng dữ liệu điện tử là chứng cứ được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập hợp pháp theo trình tự thủ tục quy định nên là vật chứng của vụ án (Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự) nên việc bảo quản vật chứng được thực hiện theo quy định tại Điều 90 và 107 Bộ luật Tố tụng hình sự; tuy nhiên việc xử lý vật chứng là phương tiện điện tử chưa được hướng dẫn xử lý theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự nên cơ quan có trách nhiệm (Thi hành án dân sự) có trách nhiệm bảo quản không xác định thời hạn. Cá nhân đồng tình quan điểm 2 đồng thời đề nghị cấp có thẩm quyền hướng dẫn xử lý, thống nhất cách xử lý vật chứng là phương tiện điện tử.

3. Một số sai sót trong thực tiễn nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa đầy đủ

Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là cách thức xem xét, đọc, ghi chép, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhằm nắm vững bản chất vụ án, diễn biến của hành vi phạm tội, qua đó xác định sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, vận dụng trong thực tiễn Hội đồng xét xử nói chung và Thẩm phán – chủ toạ phiên toà nói riêng thực hiện việc nghiên cứu hồ sơ gắn với áp dụng pháp luật có lúc kết quả xét xử còn sai sót qua công tác kiểm tra phát hiện ra, như:

– Áp dụng thiếu tình tiết giảm nhẹ; tình tiết định khung tăng nặng hình phạt.

Ví dụ 1: xét xử bị cáo Lò Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS, ngoài lần bán ma túy trái phép bị bắt quả tang, Lò Văn Q còn tự khai ra lần bán ma túy khác và bị xét xử về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy với tình tiết định khung “Phạm tội 02 lần trở lên”, tuy nhiên bản án không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự thú” theo quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo.

Ví dụ 2: xét xử bị cáo Lò Thị T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy 02 lần cho Quàng Văn T, tàng trữ 9,98 gam heroin nhằm mục đích bán kiếm lời, tuy nhiên bản án chỉ xét xử bị cáo với 01 tình tiết định khung là “Phạm tội 02 lần”, trong vụ án này bị cáo còn phải chịu 01 tình tiết định khung tăng nặng theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự: “Heroin … có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

– Phần nhận định đánh giá về tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo không chính xác.

Ví dụ: xét xử đối với bị cáo Lò Văn T và đồng phạm về tội “Trộm cắp tài sản và Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, bị cáo Lò Văn S phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt cao nhất là 3 năm tù nhưng bản án nhận định các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng là không đúng theo quy định Điều 9 Bộ luật hình sự.

– Xử lý vật chứng:

Ví dụ: Tuyên tịch thu vật chứng là xe máy được xác định là phương tiện phạm tội một số trường hợp chưa đủ căn cứ. Quá trình điều tra các bị cáo khai xe đứng tên bị cáo nhưng nguồn gốc là dùng tiền của gia đình để mua. Tuy nhiên do Thẩm phán chưa nghiên cứu kĩ hồ sơ vụ án nên tại phiên tòa chưa làm rõ được xe máy là của ai, tài sản chung của vợ chồng, hay là tài sản riêng của bị cáo, nguồn gốc, nếu là tài sản chung thì đồng sở hữu có lỗi hay không, mức độ lỗi… đã tuyên thu nộp ngân sách nhà nước là không bảo đảm quyền lợi của những người sở hữu khác.

  – Trong thời hạn chuẩn bị xét xử có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chưa chủ động nghiên cứu hồ sơ, nên không kịp thời phát hiện ra sai sót, vi phạm của cơ quan điều tra, truy tố để thực hiện quyền hạn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 45 BLTTHS là trả hồ sơ điều tra bổ sung. Sau khi quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử mới phát hiện ra sai sót, vi phạm của cơ quan điều tra, truy tố nên quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Theo khoản 2 Điều 174 BLTTHS quy định thì “ Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần”. Như vậy sau khi hội đồng xét xử trả hồ sơ nếu cơ quan điều tra, truy tố vẫn giữ nguyên kết luận điều tra và cáo trạng truy tố thì bắt buộc Tòa án phải xét xử vụ án vì không còn quyền trả hồ sơ lại một lần nữa, Tòa án vẫn phải tiến hành xét xử trong khi các thiếu sót vi phạm của các cơ quan tố tụng chưa được khắc phục dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy vụ án để xét xử lại.

V. KIẾN NGHỊ

Đề nghị liên ngành cấp tỉnh hướng dẫn thống nhất việc lưu giữ, xử lý vật chứng là phương tiện điện tử.

Ví dụ: Nguyễn Văn A, lén lút chiếm đoạt tài sản của nhà B, phát hiện mất tài sản B trình báo cơ quan chức năng; trong quá trình điều tra cơ quan CSĐT đã trích xuất và sao lưu giữ liệu điện tử từ Camara an ninh của hộ gia đình C vào USB, thẻ nhớ và thực hiện công tác giám định hình ảnh, kết luận là Nguyễn Văn A thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Theo Điều 99 BLTTHS thì USB, thẻ nhớ là phương tiện điện tử chứa đựng dữ liệu điện tử là chứng cứ được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập hợp pháp theo trình tự thủ tục quy định nên là vật chứng của vụ án.

Trước khi thực hiện BLTTHS 2015 thì USB, thẻ nhớ thường được chuyển theo hồ sơ vụ án nên khi xét xử Hội đồng xét xử tuyên tiếp tục bảo quản theo hồ sơ vụ án (đã số các Tòa đều thực hiện). Nhưng từ khi thực hiện BLTTHS 2015 thì USB, thẻ nhớ được xác định rõ là vật chứng nên cơ quan Viện kiểm sát căn cứ Điều 90 và 107 BLTTHS ra quyết định chuyển vật chứng (USB, thẻ nhớ) từ cơ quan CSĐT sang bảo quản tại kho của cơ quan Thi hành án dân sự.

Hội đồng xét xử phải xử lý vật chứng như thế nào? Theo khoản 2, 3 Điều 106 BLTTHS thì việc trả lại vật chứng (USB, thẻ nhớ) cho chủ sở hữu hoặc tịch thu nộp ngân sách nhà nước (điểm a, b khoản 2) là không thực tiễn; nếu nhận định tịch thu và tiêu hủy thì sẽ khó khăn về chứng cứ cho công tác giải quyết lại. Nếu tuyên tiếp tục bảo quản thì cơ quan Thi hành án dân sự phản ứng và hỏi sẽ phải bảo quản đến khi nào và việc xử lý vật chứng là chưa triệt để.

Vậy đề nghị cấp có thẩm quyền hướng dẫn xử lý, thống nhất cách xử lý vật chứng là phương tiện điện tử.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là một hoạt động thường xuyên và rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Thực tiễn cho thấy chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự bởi lẽ nếu việc nghiên cứu hồ sơ được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học thì sẽ nâng cao được chất lượng giải quyết vụ án, ngược lại nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án được thực hiện qua loa sơ sài thì chất lượng giải quyết vụ án không cao, có thể dẫn đến án bị hủy, sửa hoặc nghiêm trọng hơn là làm án oan sai người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Thực chất thì chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phụ thuộc vào kỹ năng phương pháp nghiên cứu hồ sơ, theo đó nếu người nghiên cứu hồ sơ có kỹ năng tốt và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu thì chất lượng nghiên cứu sẽ được nâng cao việc nâng cao chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự.

Vậy nên, để hoàn thiện hơn các kỹ năng trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự thì đòi hỏi mỗi cán bộ Tòa án, Thẩm phán một mặt phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn để áp dụng triệt để vào công việc và nhiệm vụ được giao như nhận, thụ lý, nghiên cứu và tiến tới nhằm mục đích xét xử, giải quyết vụ án được chính xác và tuân thủ theo quy định của pháp luật. Mặt khác phải luôn luôn cải tiến phong cách làm việc, không ngừng học tập kinh nghiệm của những người đi trước cùng với việc nắm rõ nội dung quy định của các văn bản quy phạm pháp luật, các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao để giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn, chính xác, đảm bảo tuân theo những quy định của pháp luật, đáp ứng với tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và kết luận 92-KL/TW ngày 12/3/2014, Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW đã đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

Xin cảm ơn./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Tố tụng hình sự;

2. Bộ luật Hình sự;

3. Sổ tay thẩm phán (xuất bản lần thứ hai có sửa đổi bổ sung);

4. Giáo trình Tố tụng hình sự;

5. Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT;

6. Thông tư liên tịch số 02/2017;

7. Công văn 64 của TANDTC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến;

8. Kết luận kiểm tra của TAND tỉnh Sơn La.

Nguồn: sonla.toaan.gov.vn/

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *