[VPLUDVN] Đề ra yêu cầu điều tra là một quyền năng pháp lý quan trọng và cơ bản của Kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 42, khoản 6 Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự; Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của liên ngành trung ương; Quy chế số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017, Quy chế 169/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 và Quy chế số 170/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thông qua bản yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên thể hiện rõ quan điểm trong việc thu thập, củng cố chứng cứ và hoàn thiện thủ tục tố tụng của một vụ án hình sự. Thực tế cho thấy, nếu Kiểm sát viên có trình độ, năng lực, bám sát tiến độ điều tra, nắm chắc hồ sơ vụ án thì đề ra được bản yêu cầu điều tra có chất lượng, đảm bảo giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và triệt để, góp phần hạn chế oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Một bản yêu cầu điều tra có chất lượng phải đảm bảo cả về hình thức và nội dung.
Về hình thức: Bản yêu cầu điều tra phải được Kiểm sát viên thực hiện đúng theo mẫu số 83/HS ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018; mục 15.1 của Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 26 Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
Về nội dung: Đây là phần rất quan trọng, Kiểm sát viên phải nêu lên được những việc để yêu cầu Điều tra viên tiến hành điều tra, thu thập, củng cố chứng cứ và hoàn thiện thủ tục tố tụng… Bản yêu cầu điều tra đảm bảo chất lượng, sát với tiến độ điều tra và bảo đảm tính khả thi, đặt ra các câu hỏi và câu trả lời về những vấn đề cần chứng minh trong vụ án theo quy định tại Điều 85 và Điều 441 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nêu những vấn đề cần điều tra, định hướng cho hoạt động điều tra, đảm bảo việc điều tra, truy tố được đầy đủ, khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật.
Thứ nhất, cần quán triệt nâng cao nhận thức, tạo sự chuyển biến tích cực cho Kiểm sát viên về chủ trương thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, để Kiểm sát viên hiểu rõ về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc ban hành yêu cầu điều tra; xác định việc ban hành yêu cầu điều tra là nhiệm vụ bắt buộc trong quá trình kiểm sát điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Thứ hai, nắm chắc các bước trong việc xây dựng bản yêu cầu điều tra, cụ thể:
– Bước 1: Nghiên cứu kỹ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xem xét về tội danh mà Cơ quan điều tra đã khởi tố, nắm vững các quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn, cũng như 4 yếu tố cấu thành tội phạm của tội phạm đã được khởi tố, xem xét hành vi phạm tội đúng với tội danh đã khởi tố chưa, để đề ra yêu cầu điều tra thu thập chứng cứ đúng với hành vi tội phạm đã thực hiện, nếu cần thiết có thể báo cáo lãnh đạo đề xuất họp hai ngành để xem xét việc định tội danh.
– Bước 2: Đặt giả thuyết để hình dung toàn bộ diễn biến của vụ án, rồi đặt ra các câu hỏi và câu trả lời về các vấn đề cần chứng minh trong vụ án. Đánh giá chứng cứ để xác định về câu hỏi đó có thể trả lời được không? Nếu không thì phải làm gì để có câu trả lời chính xác nhất.
– Bước 3: Xem xét kỹ những nội dung nào về thủ tục tố tụng chưa thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự để yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục.
Thứ ba, Kiểm sát viên phải tích cực học tập, nghiên cứu và nắm chắc lý luận chung về tội phạm. Đồng thời phải rèn luyện tư duy, cách nhìn nhận vụ án một cách toàn diện, tổng quát, rồi sau đó đề ra yêu cầu điều tra chi tiết với từng nội dung, từng ý nhỏ, để Điều tra viên dễ hiểu và thực hiện. Các nội dung phải rõ ràng, cụ thể không nêu chung chung hoặc nêu không rõ ý. Kiểm sát viên chỉ đề ra những nội dung “cần thiết” để thu thập chứng cứ như: Có hành vi phạm tội hay không? thời gian, địa điểm, công cụ phương tiện thực hiện tội phạm, tính chất lỗi, năng lực, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, động cơ, mục đích phạm tội, đồng phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân (tiền án, tiền sự), tính chất mức độ thiệt hại, trách nhiệm dân sự và các nội dung khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét dấu vết trên thân thể, khám xét, thu giữ đồ vật tài sản, trưng cầu giám định, giám định bổ sung, giám định lại, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thu giữ điện tín, thực nghiệm điều tra và các vấn đề khác có ý nghĩa bảo đảm cho việc giải quyết vụ án.
Thứ tư, Lãnh đạo đơn vị cần thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với Kiểm sát viên trong quá trình đề ra yêu cầu điều tra để xem xét kịp thời điều chỉnh để đề ra yêu cầu điều tra bổ sung cho phù hợp với quá trình điều tra. Có quy định cụ thể về trách nhiệm của Kiểm sát viên không giám sát việc thực hiện yêu cầu điều tra của Điều tra viên, dẫn đến vụ án bị kéo dài hoặc phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, án bị huỷ vì thiếu chứng cứ hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tập hợp những bản yêu cầu điều tra có chất lượng để nhân rộng cho các Kiểm sát viên đồng nghiệp nghiên cứu, học tập. Thường xuyên tiến hành rút kinh nghiệm trong đơn vị; tăng cường công tác bồi dưỡng tại chỗ cho Kiểm sát viên về kỹ năng xây dựng bản yêu cầu điều tra.
Công tác phối hợp: Làm tốt công tác phối hợp giữa Kiểm sát viên với Điều tra viên trong việc thực hiện Bản yêu cầu điều tra là khâu then chốt có tính quyết định nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Sau khi đã đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên phải bám sát tiến độ điều tra, kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra, các biện pháp điều tra của Điều tra viên, bảo đảm cho các yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên được thực hiện đầy đủ. Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ những tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên mới thu thập, chuyển đến để phát hiện những mâu thuẫn trong các lời khai, bản cung, những nội dung (yếu tố cấu thành tội phạm) chưa được làm rõ hoặc còn thiếu chưa được thu thập, để từ đó để trao đổi trực tiếp với Điều tra viên hoặc bổ sung yêu cầu điều tra để Điều tra viên thực hiện. Trong trường hợp cần thiết Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng hoặc trực tiếp xác minh. Trước khi kết thúc điều tra (Điều 31 Thông tư số 04) Kiểm sát viên và Điều tra viên phải phối hợp để đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng của vụ án. Đối với vụ án có tính chất phức tạp, có nhiều bị can tham gia, có bị can không nhận tội thì Kiểm sát viên và Điều tra viên cần phải đánh giá, phân hóa từng vấn đề cần chứng minh, nếu chưa thống nhất quan điểm nhận thức thì báo cáo lãnh đạo đề xuất họp hai ngành cho ý kiến xử lý đối với vụ án. Trường hợp không thống nhất được quan điểm xử lý thì đại diện một trong hai ngành báo cáo thỉnh thị xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên, để đảm bảo việc xử lý vụ án, xử lý bị can đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, từ đó nâng cao hiệu quả giáo dục và công tác phòng ngừa tội phạm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công việc trong công cuộc cải cách tư pháp./.
Hoàng Hữu Sỹ Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng
Nguồn: vienkiemsatlangson.gov.vn