I. Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của Thẩm phán
1. Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
1.1. Phiên tòa sơ thẩm về hình sự
Trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng, Tòa án giữ vai trò là trung tâm. Có thể nói, hoạt động xét xử tại phiên tòa được xem là hoạt động quan trọng nhất. Thông qua phiên tòa, các chức năng cơ bản của tố tụng được bảo đảm thực hiện một cách rõ nét, công khai, dân chủ và bình đẳng. Hoạt động xét xử cũng chính là việc kiểm tra công khai tính đúng đắn của các hoạt động tố tụng trước đó của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, mà ở đó mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm kỹ năng điều khiển phần tranh tụng là hết sức quan trọng đòi hỏi Hội đồng xét xử mà ở đây là vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật.
1.2. Khái niệm, đặc điểm kỹ năng điều hành tranh tụng của Thẩm phán
Điều 26 Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm của Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015 đã quy định :
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Từ nguyên tắc trên theo chúng tôi, có thể hiểu tranh tụng trong tố tụng hình sự “là sự tranh luận giữa các bên một cách bình đẳng (bên buộc tội và bên gỡ tội) dựa trên những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án tại phiên tòa xét xử, đồng thời làm cơ sở cho việc ra Bản án, quyết định của Tòa án”.
Vậy tranh tụng trong tố tụng hình sự được bắt đầu từ giai đoạn nào của hoạt động tố tụng? Về vấn đề này cũng có những quan điểm khác nhau đó là:
Có quan điểm cho rằng, quá trình tranh tụng bắt đầu không chỉ từ giai đoạn khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước khởi tố và quá trình này sẽ kết thúc khi vụ án được xét xử xong (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), thậm chí quá trình này lại còn được tiếp tục trong một số trường hợp khi bản án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại. Những người đồng tình với ý kiến này cho rằng: “Tranh tụng là một quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án đồng thời cũng là phương tiện để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra của TTHS” và chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng bao gồm tất cả những chủ thể tham gia vào quá trình TTHS. Cụ thể là: CQĐT- ĐTV; VKS- KSV; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người bào chữa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
Chúng tôi không đồng tình với quan điểm trên bởi lẽ, trong giai đoạn khởi tố, điều tra là giai đoạn mà ở đó Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng, tiến hành thu thập các tài liệu, chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm và người bào chữa nếu có trong giai đoạn này cũng sẽ chỉ thực hiện nhiệm vụ thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo vệ cho thân chủ của mình mà thôi, chứ không thể gọi là tranh tụng vì giai đoạn này nếu gọi là tranh tụng thì không lẽ chỉ có chủ thể của hai bên buộc tội và bào chữa tham gia, các chức năng buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên thực hiện một cách đơn phương theo ý chí chủ quan của mình là phiến diện, không chính thức và đương nhiên bên nào cũng bảo vệ ý kiến của mình, thậm chí còn không bộc lộ hết những sự thật của các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và đặc biệt giai đoạn này còn thiếu một chủ thể hết sức quan trọng giữ vai trò quyết định đó là Tòa án với chức năng xét xử. Theo quy định tại Điều 26 BLTTHS 2015 thì có thể khẳng định: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, điều đó hoàn toàn phù hợp với phân tích chúng tôi đã nêu ở trên. Quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa án… Chính vì vậy mà quá trình này chỉ có thể được bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm tại phiên tòa. Tại phiên tòa xét xử, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể đó là bị cáo và người bào chữa; kiểm sát viên – đại diện cho VKS và người bị hại ( trong trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại ), quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Hội đồng xét xử với ba chức năng tương ứng xem xét việc buộc tội, bào chữa và xét xử Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết định sau khi đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, quá trình tranh tụng vẫn còn tồn tại song bị hạn chế hơn cả về nội dung, chủ thể tham gia và các chức năng được thực hiện. Tuy nhiên, phạm vi tranh tụng bị giới hạn bởi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Do đó, các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử cũng không được thực hiện đầy đủ như ở phiên tòa sơ thẩm.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh tụng chỉ tồn tại ở giai đoạn mà ở đó có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bào chữa và xét xử… Đặc điểm và nội dung của tranh tụng mà người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần phải hiểu và hướng đến khi điều hành phần tranh tụng là:
– Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng bắt buộc phải tuân theo các qui định của Bộ luật TTHS. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử, có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định của pháp luật theo qui định của BLTTHS để các bên tham gia tranh tụng.
– Chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên (chủ thể buộc tội) và người tham gia tố tụng khác như Luật sư, bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại… (cũng có thể là chủ thể buộc tội hoặc gỡ tội). Các chủ thể này, tuy xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì họ bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có trách nhiệm tranh tụng với người bào chữa, với bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của đối tượng tranh tụng trên cơ sở đối đáp lại toàn bộ các quan điểm của chủ thể gỡ tội với tinh thần trách nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và qui định của pháp luật; với tinh thần tôn trọng lẫn nhau, có văn hoá ứng xử…
– Hoạt động tranh tụng tại phiên toà diễn ra dưới sự điều khiển của chủ toạ phiên tòa. Để làm tốt vấn đề này, phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử. Chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng hoặc chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như phương pháp tranh tụng cho phù hợp với qui định của pháp luật để làm rõ các vấn đề của vụ án thông qua ý kiến của các bên tham gia tranh tụng.
– Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Sự thật khách quan này bao gồm sự thật như nó đã diễn ra trên thực tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ pháp lý, dựa trên đối tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điểm, luận cứ và luận chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án bao gồm chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội để từ đó khẳng định quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên tranh tụng đối lập trong việc buộc tội hoặc gỡ tội, để từ đó làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Tóm lại, chất lượng tranh tụng tại phiên tòa có được nâng cao hay không, phụ thuộc chủ yếu vào kỹ năng điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử cũng như kết quả phiên tòa tốt hay không tốt phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của chủ toạ phiên toà vì:
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì tại phiên toà sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên tòa vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đầy đủ, chính xác các công việc mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định, đồng thời phải chịu trách nhiệm chính về những vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với Hội đồng xét xử, thay mặt Hội đồng xét xử công bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại phòng xử án.
Với vai trò của người điều khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án.
Để điều khiển việc tranh tụng đạt kết quả theo ý muốn, đòi hỏi chủ tọa phiên tòa phải là người nắm chắc các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đọc kỹ hồ sơ vụ án; dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, có kế hoạch xét hỏi chặt chẽ, cụ thể và chủ động tìm biện pháp giải quyết mọi tình huống xảy ra tại phiên tòa.
1.3. Kỹ năng điều hành tranh tụng trong thủ tục bắt đầu phiên toà
Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có ý nghĩa rất quan trọng cho việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng xét xử tại phiên tòa theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phần thủ tục sau khi kiểm tra căn cước của bị cáo, công bố thành phần những người tham gia tố tụng, giải thích quyền, nghĩa vụ của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa thì thực tế cũng cho thấy có nhiều vấn đề mới nảy sinh khác với Cáo trạng của VKS truy tố như vấn đề về họ tên, nhân thân người phạm tội trong quá trình điều tra đã không có sự xác minh đầy đủ về nhân thân, tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự của người phạm tội, cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nhiều vụ án, cáo trạng của Viện kiểm sát xác định bị cáo có tiền án, nhưng người bào chữa lại có chứng cứ, chứng minh bị cáo đã được đương nhiên xóa án và ngược lại bị cáo có tiền án nhưng cáo trạng lại xác định bị cáo không có tiền án… Theo quy định tại Chương IV từ Điều 55 đến Điều 71 về người tham gia tố tụng cũng đã có những bổ sung cơ bản về diện người tham gia tố tụng và quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo đó: So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 bổ sung thêm 08 NTGTT gồm: Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Người bị bắt; Người chứng kiến; Người định giá tài sản; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của Bộ luật này. Người tham gia tố tụng theo BLTTHS 2015 cũng được bổ sung thêm nhiều quyền và nghĩa vụ ví dụ như đối với bị cáo có những quyền và nghĩa vụ như sau “Nhận quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; Được thông báo về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Đề nghị giám định, định giá tài sản; Đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; Đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa; Đưa ra chứng cứ; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; Các quyền khác theo quy định của pháp luật; Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án” (Điều 61 BLTTHS)..
Bị hại cũng có những quyền và nghĩa vụ cụ thể như “Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Đưa ra chứng cứ; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; Được thông báo về kết quả giải quyết vụ án; Đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; Đề nghị mức hình phạt; Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; Xem biên bản phiên tòa; Tự bảo vệ, nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; Yêu cầu có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; Các quyền khác theo quy định của pháp luật; Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” (Điều 62 BLTTHS)… Nếu trong quá trình giải thích quyền và nghĩa vụ cho họ nếu không đầy đủ cũng sẽ phát sinh tranh tụng giữa họ với Hội đồng xét xử hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ cũng sẽ có ý kiến tranh tụng với Hội đồng xét xử về vấn đề này.
Và như vậy, Hội đồng xét xử cũng phải có trách nhiệm phổ biến đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo yêu cầu của họ. Về phía đại diện VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa cũng phải có trách nhiệm làm rõ những điểm mới phát sinh để giải quyết những tình huống phát sinh trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Thực tiễn xét xử cho thấy, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 58 Bộ luật tố tụng hiện hành và khoản 2 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi bổ sung năm 2015, thì nếu như Điều 58 Bộ luật tố tụng hiện hành quy định là “… Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này” thì Điều 81 Bộ luật tố tụng 2015 quy định là “…Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc giao, nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này”. Quy định tại Điều 81 nêu trên so với quy định tại Điều 58 BLTTHS hiện hành đã mang tính “mềm” chứ không còn mang tính quy định cứng như trước. Tại Điều 58 quy định “khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án”, thì việc giao nộp tài liệu, chứng cứ mà người bào chữa thu thập được là trách nhiệm, thì quy định tại Điều 81 BLTTHS 2015 chỉ quy định “phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án”. Quy định như vậy, theo tôi là không hợp lý và không khả thi và cũng là căn cứ để phát sinh tranh luận bởi lẽ: Trong thực tiễn xét xử có rất nhiều trường hợp, các Luật sư sẽ tìm mọi cách né tránh để không giao nộp các tài liệu, chứng cứ có tính chất gỡ tội hoặc có lợi cho thân chủ của họ mà chỉ tới khi ra Tòa luật sư mới giao nộp các tài liệu chứng cứ và học trình bày lý do là “Mới nhận được” và đây cũng chính là những vấn đề phát sinh mới tại phiên tòa cần phải có ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa để Hội đồng xét xử xem xét quyết định hoãn phiên tòa hay tiếp tục xét xử.
Sau khi kết thúc phần thủ tục thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi KSV và những người tham gia tố tụng xem có ai đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét và quyết định…
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phải bảo đảm quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ và yêu cầu triệu tập người làm chứng, đồ vật, tài liệu ra xem xét hoặc việc xác định tư cách tham gia tố tụng. Các tài liệu, chứng cứ được cung cấp, triệu tập thêm người làm chứng hoặc ý kiến khác nhau về xác định tư cách tham gia tố tụng của một người đều phải được Hội đồng xét xử thẩm tra công khai làm rõ để từ đó có hướng xử lý đúng đắn. Như vậy, việc các bên đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa ra vật chứng, tài liệu mới để HĐXX xem xét chính là những đảm bảo cho việc xét hỏi và là cơ sở tranh luận ở phần tiếp theo của phiên tòa.
1.4. Kỹ năng điều hành tranh tụng trong thủ tục xét hỏi tại phiên toà
Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và xét xử liên tục là các nguyên tắc quan trọng của hoạt động xét xử tại phiên tòa. Điều này cũng đã được quy định rõ tại Điều 250 Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục của Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi 2015 là:
“1. Việc xét xử được tiến hành bằng lời nói.
Hội đồng xét xử phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi, nghe ý kiến của bị cáo, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng, người giám định, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập; công bố biên bản, tài liệu và tiến hành hoạt động tố tụng khác để kiểm tra chứng cứ; nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự…”
Giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa được coi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất các bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa từ hỏi người khác, xem xét vật chứng, tài liệu để trên cơ sở đó Hội đồng xét xử cùng Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng như người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có điều kiện kiểm tra các chứng cứ, Kết luận điều tra, bản Cáo trạng một cách công khai về những tình tiết của vụ án, thông qua các câu hỏi và những câu trả lời tại phiên tòa luôn được đặt ra và trả lời một cách công khai, tự nguyện mang tính kiểm nghiệm kết quả, cho dù các câu hỏi hoặc câu trả lời ở giai đoạn xét hỏi có nội dung không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở giai đoạn điều tra, nhưng nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng ở chỗ: Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của Cơ quan điều tra cũng như các căn cứ để Viện kiểm sát ra bản Cáo trạng truy tố. Cũng tại giai đoạn xét hỏi, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự còn có điều kiện để xem xét vật chứng, xem xét hiện trường xảy ra vụ án và những nơi khác, công bố các tài liệu v.v… Vì vậy, để xét xử chính xác, khách quan vụ án, Bộ luật tố tụng hình sự quy định Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng trong những trường hợp pháp luật quy định và việc vắng mặt đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, không trở ngại cho việc xét xử.
Việc xét xử phải được tiến hành liên tục từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi tuyên án, trừ thời gian nghỉ theo quy định. Thời gian nghị án cũng là thời gian Tòa án làm việc. Khi chưa kết thúc phiên tòa, thì Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên không được phép tiến hành tố tụng đối với vụ án khác. Chính vì vậy, đối với vụ án phải xét xử nhiều ngày Tòa án thường phải cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết để có thể thay thế trong trường hợp cần thiết, tránh việc phải hoãn phiên tòa không cần thiết.
Để điều hành tốt và nâng cao chất lượng tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử không được lệ thuộc vào các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập trong quá trình điều tra và truy tố, mà phải xác định và làm rõ thêm các tài liệu, chứng cứ này bằng cách lắng nghe, phân tích chính xác các ý kiến trình bày của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, đặc biệt là sự tham gia xét hỏi cũng như các tình tiết, chứng cứ của người bào chữa đề cập tại phiên tòa.
Về trình tự xét hỏi tại phiên tòa, Tại Điều 307 “Trình tự xét hỏi” của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng đã quy định cụ thể như:
“1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.
2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.
3. Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét vật chứng có liên quan trong vụ án”.
Theo quy định tại Điều 307 nêu trên, trong giai đoạn xét hỏi chủ tọa phiên tòa được toàn quyền điều hành và đóng vai trò chính trong việc xét hỏi. Để điều hành tốt phần xét hỏi cũng như việc bảo đảm tranh tụng trong xét hỏi, chủ tọa phiên tòa cần chú ý những vấn đề sau:
Thứ nhất: Chủ tọa phiên tòa phải căn cứ vào đề cương, kế hoạch xét hỏi để khi xét hỏi phải xác định được đầy đủ các tình tiết về từng sự việc, từng hành vi phạm tội và các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý.
Xét hỏi theo một thứ tự hợp lý là một yêu cầu mà chủ tọa phiên tòa phải dự kiến trước, căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, nhất là đối với vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về nhiều tội khác nhau.
Thứ hai: Không nên cho rằng, quy định về trình tự xét hỏi tại Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự là do Chủ tọa phiên tòa chủ động toàn bộ, còn việc xét hỏi của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là thụ động và chỉ tham gia xét hỏi khi chủ toạ phiên tòa nhắc mới hỏi và cũng chỉ hỏi có tính chất bổ sung còn việc hỏi để chứng minh tội phạm và làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết của vụ án vẫn do chủ tọa phiên tòa thực hiện! Chính cách hiểu như vậy, đã dẫn đến nhiều trường hợp Hội đồng xét xử vẫn còn giải thích Bộ luật hình sự hoặc giáo dục bị cáo về thái độ khai báo hoặc kết luận trước về lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, làm cho bị cáo và những người tham gia phiên tòa cho rằng Hội đồng xét xử đã không khách quan, bản án đã được chuẩn bị sẵn, việc xét xử tại phiên tòa chỉ còn là thủ tục hình thức. Để khắc phục những nhược điểm trên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu và thực hiện đúng tinh thần quy định của BLTTHS là đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phải bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên tòa; chứng minh mọi luận điểm trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra những chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết từng sự việc của vụ án.
Hơn nữa, theo quy định tại khoản 1 Điều 307 BLHS 2015 thì “Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.”
Để vừa thể hiện đúng quy định của pháp luật vừa bảo đảm tính tranh tụng tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa vẫn phải hỏi trước, nhưng chỉ nên đặt câu hỏi có tính chất nêu vấn đề, gợi mở chứ không được kết luận. Còn lại những câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội, nên dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Nếu trong quá trình điều hành phần xét hỏi, khi thấy câu hỏi có tính chất mớm cung, ép cung hoặc những câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, bí mật điều tra; xúc phạm nhân phẩm, danh dự con người thì chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu cầu người trả lời không trả lời câu hỏi đó.
Đối với người Bào chữa khi tham gia xét hỏi để bào chữa cho bị cáo hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, thông thường hay đặt câu hỏi nhằm có lợi cho thân chủ mà mình bảo vệ, đôi khi có tính mớm cung hoặc tạo điều kiện để thân chủ của mình phản cung tại phiên tòa. Do vậy, Chủ tọa phiên tòa cần chú ý về việc xét hỏi của người bào chữa để có biện pháp chấn chỉnh người bào chữa hỏi cho đúng trọng tâm và cần thiết có thể cắt phần xét hỏi của người bào chữa nếu cố tình không chấp hành sự điều hành của Chủ tọa phiên tòa.
Thứ ba: Về xét hỏi đối với bị cáo tại phiên tòa:
Việc xét hỏi đối với bị cáo tại phiên tòa, cần phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công minh, không thể hiện ý thức chủ quan của người hỏi là một yêu cầu của tố tụng thẩm vấn. Do vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần tập trung làm rõ các tình tiết là yếu tố định tội mà Viện kiểm sát truy tố; các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm dân sự; đến xử lý vật chứng.v.v… Tuy nhiên, việc đặt câu hỏi phải mang tính gợi mở, tạo điều kiện cho bị cáo được khai báo một cách thoải mái nhất, không được hỏi mang tính truy chụp đối với bị cáo. Trong quá trình xét hỏi, không chỉ xét hỏi về các tình tiết buộc tội mà phải xét hỏi cả các tình tiết gỡ tội đối với bị cáo, kể cả trường hợp bị cáo không thừa nhận lời khai nhận tội tại Cơ quan điều tra thì cũng không được có thái độ mang tính áp đặt, dọa nạt, ép buộc mà cần phân tích hỏi và lắng nghe sự lý giải của bị cáo tại phiên tòa vì sao tại Cơ quan điều tra nhận tội mà tới phiên tòa lại phủ nhận lời khai nhận tội. Thực tế có nhiều vụ án, nhiều trường hợp khi xét hỏi bị cáo thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã bộc lộ ngay định kiến xét hỏi theo hướng buộc tội hoặc theo hướng gỡ tội, thông qua việc xét hỏi như vậy những người dự phiên toà đã biết được hoặc bàn tán nói trước Hội đồng xét xử sẽ ra bản án như thế nào đối với bị cáo. Việc xét hỏi tại phiên tòa là một nghệ thuật, đòi hỏi người hỏi phải khách quan, không thành kiến hoặc định kiến trước, không truy trụp hoặc đặt câu hỏi theo kiểu bức cung hoặc mớm cung, không giải thích hoặc giáo dục bị cáo theo kiểu mớm cung như: Nếu nhận tội thì được giảm nhẹ hình phạt, khi thấy bị cáo không thừa nhận lời khai của mình tại giai đoạn điều tra thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa luôn có thái độ dồn ép và công bố các bút lục ghi lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra để gây áp lực nên bị cáo. Theo chúng tôi việc làm như vậy là không phù hợp với nguyên tắc tranh tụng vì theo quy định tại Điều 308 “Công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố” có quy định:
“1. Nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên không được công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố.
2. Chỉ được công bố những lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;
b) Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa hoặc không nhớ những lời khai của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố;
c) Người được xét hỏi đề nghị công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;
d) Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.
3. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu của người tham gia tố tụng hoặc tự xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử không công bố tài liệu có trong hồ sơ vụ án”.
Nếu chỉ mới thấy bị cáo không thừa nhận lời khai mà đã vội công bố các lời khai của họ tại giai đoạn điều tra, truy tố là quá phụ thuộc vào hồ sơ vụ án mà không tôn trọng diễn biến của phiên tòa, như vậy dễ dẫn đến tình trạng oan sai. Cũng theo quy định tại Điều 309 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì:
“…Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án”. Do vậy, việc xét hỏi những vấn đề liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội thì Chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi mang tính gợi mở còn lại yêu cầu đại diện Viện kiểm sát chủ động hỏi làm rõ để bảo vệ bản Cáo trạng của Viện kiểm sát. Việc điều luật quy định, Kiểm sát viên không chỉ hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội mà còn phải hỏi cả những tình tiết liên quan đến việc gỡ tội là thể hiện bản chất tố tụng hình sự của nước ta là tố tụng “thẩm vấn” và nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” là mục đích tối thượng của tố tụng Nhà nước. Bởi vì, Kiểm sát viên tại phiên tòa có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Trong lời luận tội của Kiểm sát viên cũng không chỉ nêu các nội dung chứa đựng các tình tiết buộc tội bị cáo mà còn phải nêu các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Trong trường hợp bị cáo đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa cũng cần xem xét ý kiến của bị cáo, nếu phù hợp và cần thiết cũng nên chấp nhận ý kiến đề nghị của bị cáo để làm sang tỏ thêm các tình tiết của vụ án. Nếu sau khi xét hỏi mà chứng minh bị cáo không phạm tội thì Kiểm sát viên còn phải rút quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án.
Thứ tư: Xét hỏi những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Điều 310 Bộ luật tố tụng 2015 “Hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ” có quy định:
“Bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ trình bày những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”.
Vấn đề xét hỏi đối với người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ như quy định trên cho thấy, khi xét hỏi nên nêu vấn đề để họ trình bày về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó Kiểm sát viên, người bào chữa hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đủ hoặc có mâu thuẫn. Đối với người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng quan trọng của vụ án thì cần phải hỏi kỹ các tình tiết có liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị cáo. Như vậy, tại phiên toà những người này trình bày là chính, còn chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi khi thấy cần thiết phải làm rõ thêm những tình tiết của vụ án bao gồm cả buộc tội và gỡ tội. Nếu bị cáo, thấy có những vấn đề mà những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày chưa rõ thì họ có quyền đề nghị Hội đồng xét xử cho phép được hỏi bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ thì cũng nên để cho họ được phép hỏi để làm sáng tỏ thêm các tình tiết của vụ án.
Đối với nguyên đơn dân sự, cần chú ý hỏi xem họ có yêu cầu bồi thường thiệt hại không, nếu việc yêu cầu đó không được thực hiện bằng văn bản thì Hội đồng xét xử phải yêu cầu họ cung cấp văn bản, vì theo quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Đối với người làm chứng: thì Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định:
“1. Việc hỏi phải được tiến hành riêng đối với từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó.
2. Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ đã biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi người làm chứng về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.
3. Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
4. Trường hợp có căn cứ xác định người làm chứng, người thân thích của họ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm thì Hội đồng xét xử phải quyết định biện pháp bảo vệ họ theo quy định của Bộ luật này và pháp luật khác có liên quan.
5. Trường hợp cần thiết, Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông”.
Theo quy định thì khi hỏi người làm chứng phải hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó. Thực tiễn xét xử cho thấy hầu như các Toà án thực hiện không đúng quy định tại khoản 1 Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về việc cách ly người làm chứng mà thường để những người làm chứng ngồi luôn trong phòng xử án, người làm chứng này nghe được lời khai của người làm chứng khác, thậm chí khi lời khai của người làm chứng này mâu thuẫn với lời khai của người làm chứng khác còn phải tiến hành đối chất giữa những người làm chứng. Hiện nay các hội trường xét xử của Tòa án cũng không có đủ điều kiện để bảo đảm yêu cầu “không để những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi trước đó”. Đây cũng là vấn đề khó khăn khi xét hỏi đối với người làm chứng, đòi hỏi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải chủ động, linh hoạt trong từng vụ án cụ thể, nếu thấy cần thiết phải cách ly người làm chứng thì cũng cần phải áp dụng biện pháp cánh ly người làm chứng để bảo đảm khách quan trong xét hỏi.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì khi hỏi người làm chứng, phải hỏi rõ quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc Kiểm sát viên yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết vụ án mà họ biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Cũng như đối với việc hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, nếu người làm chứng không trả lời hoặc không khai tại phiên toà thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể tự mình hoặc yêu cầu Kiểm sát viên công bố lời khai của họ tại Cơ quan điều tra. Khác với quy định tại khoản 3 Điều 211 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì tại Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không còn quy định “người làm chứng là người chưa thành niên”. Khi hỏi người làm chứng, Thẩm phán hoặc Kiểm sát viên cần chú ý vấn đề hỏi để làm rõ vì sao họ lại biết được tình tiết đó, nếu họ không trả lời được vì sao lại biết thì lời khai của người làm chứng đó không được dùng làm chứng cứ.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự thì, trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng và những người thân thích của họ, Hội đồng xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật. Đây là quy định cần thiết, nhằm bảo đảm an toàn cho người làm chứng trong những trường hợp cần thiết. Với quy định này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc Kiểm sát viên cần đề nghị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn cho người làm chứng trong những trường hợp cần thiết.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì “Trường hợp cần thiết, Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông”. Đây là quy định hoàn toàn mới, trường hợp này có thể hiểu, vì một lý do bất khả kháng mà người làm chứng không thể đến phiên tòa được và cam đoan sẽ trả lời đúng sự thật những điều họ biết về tình tiết của vụ án qua điện thoại hoặc mạng viễn thông hoặc mạng máy tính và phải bảo đảm việc hỏi và trả lời là công khai mọi người có thể được nghe thấy. Để thực hiện được điều này, thì các phòng xét xử hiện nay cần được nâng cấp hiện đại cho phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hiện hành.
Đối với người giám định, người định giá tài sản: Theo quy định tại Điều 316 thì:
“1. Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa yêu cầu người giám định, người định giá tài sản trình bày kết luận của mình về vấn đề được giám định, định giá tài sản. Khi trình bày, người giám định, người định giá tài sản có quyền giải thích bổ sung về kết luận giám định, định giá tài sản, căn cứ để đưa ra kết luận giám định, định giá tài sản.
2. Kiểm sát viên, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, định giá tài sản, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án.
3. Trường hợp người giám định, người định giá tài sản không có mặt tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định, định giá tài sản.
4. Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại, định giá lại tài sản”.
Theo quy định thì người giám định, người định giá không bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa mà tùy từng trường hợp nếu xét thấy sự có mặt của người giám định, người định giá tại phiên tòa là cần thiết thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tự mình hoặc Kiểm sát viên đề nghị chủ tọa phiên tòa cho triệu tập người giám định, người định giá đến để xét hỏi. Việc hỏi người giám định tại phiên tòa chỉ được tiến hành sau khi người giám định, người định giá trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám định, định giá giải thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám định hoặc kết quả của Hội đồng định giá tài sản và cũng chỉ được hỏi những gì còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định. Nếu người giám định, người định giá vắng mặt và sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án thì chủ tọa phiên tòa tự mình hoặc yêu cầu Kiểm sát viên công bố kết luận giám định hoặc kết quả định giá. Việc công bố kết luận giám định hoặc kết quả định giá trong trường hợp người giám định, người định giá không có mặt tại phiên tòa là bắt buộc.
Tại phiên tòa, sau khi nghe người giám định, người định giá trình bày kết luận giám định, kết quả định giá; nghe người giám định, người định giá giải thích bổ sung, nghe những người khác có ý kiến về kết luận giám định, kết quả định giá; nếu xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Trong trường hợp này thì phải hoãn phiên tòa để giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Thực tiễn xét xử cho thấy, có nhiều vụ án đã có kết luận giám định và định giá sai gây bất lợi cho bị cáo hoặc thiệt hại cho người bị hại nên sau khi xét hỏi cặn kẽ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phải hoãn phiên tòa cho đi giám định, định giá lại, như vụ:
Nguyễn Thị H “trộm cắp tài sản” tại khu Công nghiệp Samsung huyện Yên Phong Bắc Ninh. Cấp sơ thẩm đã căn cứ vào kết quả định giá của Hội đồng định giá huyện Yên phong định giá tài sản bị cáo trộm cắp trên 200 triệu nên đã áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138 BLHS xử phạt bị cáo 05 năm tù. Tại phiên tòa bị cáo trình bày giá trị tài sản bị cáo trộm cắp chưa đến 50 triệu chứ không phải trên 200 triệu như kết quả định giá. Hội đồng xét xử đã xem xét và cho hoãn phiên tòa yêu cầu định giá lại, kết quả là số tài sản bị cáo trộm cắp chỉ có 44 triệu đồng nên đã áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS để xét xử đối với bị cáo.
Hay vụ án Nguyễn Văn Đ phạm tội “cố ý gây thương tích”, Kết luận giám định pháp y thương tích đã giám định cả vết mổ lại để gỡ dính của người bị hại để xác định thương tật của người bị hại bị mất là 72%. Cũng tại phiên tòa, sau khi yêu cầu giám định viên giải thích về vết mổ lại để gỡ dính là như thế nào? Thì Giám định viên đã thừa nhận vết mổ này không phải là thương tích do bị cáo gây ra nên đã đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để giảm định lại. Kết quả giám định lại thì tỷ lệ thương tật của người bị hại chỉ là 31%.
Tùy theo tính chất của từng vụ án, thì ngoài việc xét hỏi những người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử có thể quyết định xem xét những vật chứng có liên quan đến vụ án. Theo quy định tại Điều 312 Bộ luật tố tụng 2015 thì vật chứng có thể được xem xét tại phiên tòa nếu mang được đến phiên tòa, đối với vật chứng cồng kềnh không thể mang được đến phiên tòa thì Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được. Việc xem xét vật chứng tại chỗ được lập biên bản theo quy định tại Điều 133. Trong quá trình xem xét vật chứng thì Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét của mình về vật chứng. Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến vật chứng.
Bên cạnh việc xem xét vật chứng, thì thực tiễn cho thấy có nhiều vụ án người bào chữa hoặc những người tham gia tố tụng khác còn cung cấp những nội dung ghi âm, ghi hình có âm thanh hay bị cáo tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình… Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử nên quyết định việc cho nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại phiên tòa.
Cũng qua xét hỏi, đôi khi các lời khai về địa điểm, hiện trường nơi gây án có những điểm mâu thuẫn hoặc chưa rõ ràng thì Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đến xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét của mình về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến nơi đó.
Việc xem xét tại chỗ được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Trong thời gian qua, một số vụ án oan xảy ra như vụ Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, vụ Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận mà nguyên nhân gây ra oan sai chính là việc các Điều tra viên đã có hành vi ép cung, dùng nhục hình, việc tranh tụng tại phiên tòa không được bảo đảm dẫn đến Nguyễn Thanh Chấn phải ngồi tù oan 10 năm còn Huỳnh Văn Nén phải ngồi tù oan tới 17 năm và như một phản ứng dây chuyền dẫn đến rất nhiều vụ án hình sự khi ra Tòa xét xử các bị cáo đều phản cung và cho rằng bản thân bị ép cung, dùng nhục hình, gây rất nhiều khó khăn cho Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ khi xét xử. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng 2015 đã quy định một điều mới là Điều 317 “Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến” quy định như sau:
“Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến để làm rõ những quyết định, hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử”. Quy định này là hết sức cần thiết thể hiện sự công khai, bình đẳng trong tranh tụng, giúp cho Hội đồng xét xử đánh giá và sử dụng đúng các chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa làm cơ sở cho việc ra Bản án hoặc các Quyết định của Hội đồng xét xử. Chỉ khi xét thấy những tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu không có yêu cầu xét hỏi thì kết thúc việc xét hỏi; nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi.
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có những quy định hết sức quan trọng dành cho Tòa án đó là quy định tại Điều 251. Tạm ngừng phiên tòa theo đó:
“1. Việc xét xử có thể tạm ngừng khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa;
b) Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa…”
Theo quy định trên, nếu trong quá trình xét hỏi căn cứ lời khai của các bên nếu thấy cần thiết phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì Tòa án có quyền ngừng phiên tòa để tiến hành các hoạt động nêu trên theo quy định tại Điều 252. Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ.
“Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ bằng các hoạt động:
1. Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp;
2. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án;
3. Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa;
4. Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án;
5. Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 215 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản;
6. Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án”.
Đây là quy định mới, xong hết sức quan trọng và cần thiết, mà theo đó tại giai đoạn xét hỏi nếu thấy cần Tòa án có quyền tự mình thu thập chứng cứ để xem xét, đánh giá, sử dụng chứng cứ một cách khánh quan, kịp thời, tiết kiệm thời gian xét xử, bảo đảm được tính khách quan cũng như bảo đảm nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tóm lại: Để làm đúng vai trò của Chủ tọa phiên tòa là người điều hành xét hỏi và bảo đảm cho việc tranh luận được diễn ra tại giai đoạn xét hỏi thì trong việc xét hỏi tại phiên toà, chủ tọa phiên tòa không nên hỏi nhiều mà chỉ nêu vấn đề bảo đảm tính bao trùm, đầy đủ, toàn diện để Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa hỏi. Trong quá trình xét hỏi chủ tọa phiên toà là người điều hành. Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa có quyền đưa ra những bằng chứng mới để chứng minh có tội cũng như chứng minh vô tội. Trong quá trình xét hỏi cũng là quá trình tranh luận. Những người tham gia tố tụng có thể trình bày quan điểm của mình về vụ án, tranh luận với Kiểm sát viên về những vấn đề gỡ tội hoặc buộc tội.
1.5. Kỹ năng điều hành tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa.
Để làm tốt chức năng điều hành phần tranh luận tại phiên tòa thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần chú ý, quan tâm đến một số vấn đề như:
– Nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa có căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa cũng như ý kiến của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa hay không? Hay vẫn luận tội theo nội dung của bản Cáo trạng! Trong trường hợp này cần phải đối chiếu theo quy định tại Điều 321. Luận tội của Kiểm sát viên để xem xét luận tội của Kiểm sát viên có tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 321 không đó là:
“1. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
2. Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
3. Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng.
4. Kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật”.
– Trong trường hợp luận tội của đại diện Viện kiểm sát xuất phát từ diễn biến tại phiên tòa mà có những thay đổi so với bản cáo trạng thì phải nêu lý do của việc thay đổi đó; nếu Kiểm sát viên chưa nêu lý do về việc thay đổi, thì chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu Kiểm sát viên trình bày lý do của việc thay đổi đó. Bởi lẽ, Điều luật quy định Kiểm sát viên phải trình bày lời luận tội, chứ không phải đọc lời luận tội chuẩn bị trước. Quy định này, bắt buộc lời luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào diễn biến của phiên tòa để có quan điểm luận tội một cách khách quan, trung thực. Còn việc đọc bản luận tội chuẩn bị trước thì không bao giờ có thể đúng với diễn biến thực tiễn của phiên tòa và chỉ thể hiện ý chí áp đặt chủ quan của Kiểm sát viên đối với bị cáo và các đương sự khác. Tuy nhiên, khi trình bày lời luận tội trong trường hợp giữ nguyên hay thay đổi khác với bản Cáo trạng thì nội dung luận tội cũng phải thể hiện được đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Đề nghị kết tội theo toàn bộ Cáo trạng hay một phần của bản Cáo trạng hoặc đề nghị xét xử bị cáo theo một tội nhẹ hơn hoặc khung hình phạt nhẹ hơn thì cũng cần phải phân tích rõ các lý do trong phần luận tội…
– Sau khi đại diện Viện kiểm sát kết thúc việc trình bày lời luận tội, Chủ tọa phiên tòa chủ động trong việc quyết định người bào chữa nào phát biểu trước, người bào chữa nào phát biểu sau (nếu vụ án có đông bị cáo và nhiều người bào chữa hoặc có một bị cáo nhưng có nhiều người bào chữa). Sau khi người bào chữa phát biểu xong thì chủ tọa cần hỏi bị cáo có đồng ý với quan điểm của người bào chữa đã phát biểu hay không, có cần bổ sung gì thêm để tự bào chữa cho mình. Nếu bị cáo có ý kiến phát biểu bổ xung thì để bị cáo được phát biểu, xong cần lưu ý bị cáo những gì mà người bào chữa đã phát biểu rồi thì không cần nói lại để tránh mất thời gian. Sau đó sẽ yêu cầu những người tham gia tố tụng khác phát biểu quan điểm của mình đối với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Về vấn đề này, đòi hỏi Chủ tọa phiên tòa phải nắm chắc các tình tiết đã được xét hỏi để điều khiển việc tranh luận không kéo dài mà vẫn bảo đảm tính chất tranh tụng khi xét xử.
– Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Thực tiễn cho thấy cũng có những luật sư lạm dụng quá trình tranh luận để phê phán các văn bản hướng dẫn về pháp luật, các quyết định hành chính của các cấp chính quyền hoặc bào chữa mang tính gây bất lợi cho bị cáo khác. Trong trường hợp này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần nghiêm khắc cắt những ý kiến không liên quan đó. Nếu vụ án có nhiều vấn đề, nhiều tình tiết của vụ án có quan điểm đánh giá khác nhau, thì chủ toạ phiên tòa phải chú ý xem những vấn đề được tranh luận có bao nhiêu ý kiến khác nhau, để việc tranh luận đúng trọng tâm của vụ án, chủ tọa phiên tòa cần yêu cầu những người tham gia tranh luận nêu những vấn đề không đồng ý và tranh luận từng vấn đề một.
– Trong phần đối đáp, Chủ tọa phiên tòa cần hết sức chú ý đến phần đối đáp của đại diện Viện kiểm sát. Theo quy định tại Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì khi đối đáp mà những người tham gia tố tụng có ý kiến khác với mình thì Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận, chứng cứ, tài liệu để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Nếu người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự đưa ra những ý kiến đề nghị Kiểm sát viên tranh luận nhưng Kiểm sát viên không tranh luận thì chủ tọa phiên tòa phải phải yêu cầu Kiểm sát viên đối đáp lại toàn bộ những ý kiến của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Nếu đại diện Viện kiểm sát không đối đáp thì yêu cầu Kiểm sát viên nói rõ lý do và việc này phải được ghi vào biên bản phiên toà.
Chủ tọa phiên tòa phải tạo điều kiện để những người tham gia phiên tòa thực hiện quyền đối đáp lại những ý kiến của người khác. Điều luật không quy định người tham gia tranh luận chỉ có quyền phát biểu một lần với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Tuy nhiên, Chủ tọa phiên tòa cũng có quyền cắt ý kiến đối đáp khi thấy những ý kiến đối đáp không liên quan đến vụ án hoặc người tham gia tố tụng phát biểu nhiều lần về một vấn đề nhưng lời phát biểu đó trùng lặp nhau hoặc trùng lặp với ý kiến của người khác đã phát biểu, tránh kéo dài phiên tòa một cách không cần thiết.
Trong quá trình tranh luận, chủ tọa phiên tòa không được có ý kiến mang tính kết luận, bình luận, nhận định những luận điểm của các bên đối đáp hay có tính chất bênh vực Kiểm sát viên hay người tham gia tranh luận với Kiểm sát viên mà phải luôn giữ thái độ khách quan.
Nếu trong khi tranh luận, theo yêu cầu của Kiểm sát viên hoặc người tham gia tranh luận hoặc chủ tọa phiên tòa thấy có những vấn đề cần phải làm rõ hơn hoặc phát hiện có tình tiết mới cần phải trở lại giai đoạn xét hỏi thì Hội đồng xét xử có thể quyết định việc trở lại xét hỏi, sau đó việc tranh luận được thực hiện lại bình thường. Tuy nhiên, để tránh kéo dài thời gian không cần thiết, chủ tọa phiên tòa có thể lưu ý đối với Kiểm sát viên và người tham gia tranh luận chỉ tranh luận những vẫn đề mới phát sinh sau khi xét hỏi thêm.
2. Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm
2.1. Về xét xử phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 330 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”.
Về thẩm quyền xét xử phúc thẩm:
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì:
– Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp quận, huyện đã xét xử mà bản án, hoặc quyết định chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử phúc thẩm những vụ án do các Tòa án quân sự cấp khu vực đã xét xử sơ thẩm mà bản án hoặc quyết định đó chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị.
– Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo, kháng nghị thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị.
– Việc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, là để Tòa án cấp phúc thẩm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm trong phạm vi quyền hạn của mình nhằm khắc phục những sai sót của cấp sơ thẩm. Thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm, còn tạo điều kiện để các Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng thống nhất pháp luật và là căn cứ để tổng kết thực tiễn xét xử và kiến nghị với cấp trên ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn áp dụng pháp luật đồng thời cũng là căn cứ để kiến nghị với người có thẩm quyền kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm nếu thấy cần thiết.
Sự khác nhau giữa xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm thể hiện ở một số điểm như sau:
– Tòa phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, có nhiệm vụ xét xử lại các vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Còn giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt để xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị khi phát hiện có sai lầm hoặc có tình tiết mới.
– Đối tượng xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm chỉ là những bản án hoặc quyết định của cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Còn đối tượng xem xét của giám đốc thẩm, tái thẩm là tất cả những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cả Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của các Tòa án cấp cao bị kháng cáo kháng nghị. Đối với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì chỉ những người có thẩm quyền theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao trở lên) mới có quyền kháng nghị.
2.2. Những người có quyền kháng cáo, kháng nghị, thủ tục, thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về những người có quyền kháng cáo:
Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, quy định về quyền kháng cáo của bị cáo và các đương sự trong vụ án khi họ không nhất trí với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Theo quy định tại Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì người có quyền kháng cáo là:
“1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.
3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội”.
Đối với những người có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 nói trên thì đối với bị cáo, người bị hại, những người đại diện hợp pháp của họ hoặc người bào chữa của người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần và thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm bao gồm cả về trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp không có quyền kháng cáo toàn bộ bản án mà chỉ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến bồi thường thiệt hại, hoặc phần có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ không được quyền kháng cáo về phần trách nhiệm hình sự… Đặc biệt đối với người được Tòa án tuyên không có tội thì vẫn có quyền kháng cáo để cấp phúc thẩm xem xét làm rõ các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.
Về thủ tục kháng cáo:
Theo quy định tại Điều 332 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì:
– Đối với bị cáo đang tại ngoại hoặc những người tham gia tố tụng khác trong vụ án, có yêu cầu kháng cáo thì phải trực tiếp gửi đơn kháng cáo đến Tòa án đã xử sơ thẩm, nhiều trường hợp đơn kháng cáo gửi về Tòa án cấp trên, sau đó Tòa án cấp phúc thẩm lại phải gửi đơn về cấp sơ thẩm để lập hồ sơ kháng cáo. Người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
– Đối với các bị cáo đang bị tạm giam thì Giám thị Trại tạm giam, Trưởng nhà tạm giữ phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, nhận đơn kháng cáo theo đúng mẫu quy định và chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo.
– Khi tiếp nhận đơn kháng cáo, Thư ký được giao nhiệm vụ tiếp nhận đơn kháng cáo cần phải kiểm tra, hướng dẫn người kháng cáo viết đơn kháng cáo phải đầy đủ các nội dung như: Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo; Lý do và yêu cầu của người kháng cáo; Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. Kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo.
Đối với thủ tục kháng nghị:
Theo quy định tại Điều 336, kháng nghị của Viện kiểm sát được thể hiện bằng một quyết định kháng nghị với đầy đủ nội dung như:
Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng nghị; Tên của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị; Kháng nghị đối với toàn bộ hay một phần bản án, quyết định sơ thẩm; Lý do, căn cứ kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát; Họ tên, chức vụ của người ký quyết định kháng nghị.
Về thời hạn kháng cáo:
Thời hạn kháng cáo, là thời hạn do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để các chủ thể có quyền kháng cáo thực hiện quyền của mình trong trường hợp họ không đồng ý với bản án hoặc quyết định của cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu quá thời hạn đó thì họ không còn quyền kháng cáo theo quy định nữa nếu không có lý do chính đáng. Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định rõ là:
“1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
3. Ngày kháng cáo được xác định như sau:
a) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo là ngày theo dấu bưu chính nơi gửi;
b) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ thì ngày kháng cáo là ngày Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ nhận được đơn. Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận vào đơn;
c) Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo”.
Đối với thời hạn kháng nghị:
Theo quy định tại Điều 337 thì thời hạn kháng cáo của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày và của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.
Về thủ tục tiếp nhận và xử lý kháng cáo, kháng nghị, theo quy định tại Điều 334 Bộ luật tố tụng 2015 thì:
– Sau khi nhận được đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị hoặc biên bản về việc kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải vào sổ tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo quy định của Bộ luật này.
– Trường hợp đơn kháng cáo hợp lệ thì Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 338 của Bộ luật này. Trường hợp đơn kháng cáo hợp lệ nhưng nội dung kháng cáo chưa rõ thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay cho người kháng cáo để làm rõ.
– Trường hợp nội dung đơn kháng cáo đúng quy định của Bộ luật này nhưng quá thời hạn kháng cáo thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày lý do và xuất trình chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng.
– Trường hợp người làm đơn kháng cáo không có quyền kháng cáo thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận đơn, Tòa án trả lại đơn và thông báo bằng văn bản cho người làm đơn, Viện kiểm sát cùng cấp. Văn bản thông báo phải ghi rõ lý do của việc trả lại đơn. Việc trả lại đơn có thể bị khiếu nại trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Việc giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Về việc giải quyết kháng cáo quá hạn, theo quy định tại Điều 335 thì:
– Việc kháng cáo quá hạn được chấp nhận nếu có lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn do Bộ luật này quy định.
– Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm.
– Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có), Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét kháng cáo quá hạn có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định.
– Phiên họp xét kháng cáo quá hạn phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày trước ngày xét đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp phúc thẩm gửi bản sao đơn kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu kèm theo (nếu có) cho Viện kiểm sát cùng cấp. Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc xét kháng cáo quá hạn.
– Quyết định của Hội đồng xét kháng cáo quá hạn được gửi cho người kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp phúc thẩm. Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp phúc thẩm. Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định kháng nghị quá hạn vì như trên đã phân tích, việc kháng nghị của Viện kiểm sát không chỉ là quyền hạn mà còn là trách nhiệm của Viện kiểm sát. Do vậy, việc Viện kiểm sát phát hiện có sai sót của bản án hoặc quyết định sơ thẩm mà không kháng nghị là không làm tròn trách nhiệm của Viện kiểm sát chứ không phải có lý do bất khả kháng nào khác.
Về hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị:
Theo quy định tại Điều 339 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì: Đối với bản án sơ thẩm hoặc phần bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì toàn bộ bản án hoặc phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị đó chưa có hiệu lực pháp luật và chưa được đưa ra thi hành mà phải chờ Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án. Tuy nhiên, để bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thì trong các trường hợp quy định tại Điều 336 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, mặc dù bản án hoặc một phần bản án chưa có hiệu lực pháp luật vẫn được thi hành ngay sau khi tuyên án sơ thẩm.
Khi nhận được hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có), Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, phiên họp.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 15 ngày đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, 20 ngày đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Tòa án. Trường hợp vụ án thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 25 ngày đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, 30 ngày đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
2. Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm nhận được chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung trước khi xét xử thì phải chuyển chứng cứ, tài liệu, đồ vật này cho Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung thì Viện kiểm sát phải trả lại cho Tòa án.
2.3. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
Về phạm vi xét xử phúc thẩm:
Về nguyên tắc, theo quy định tại Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, thì Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử lại vụ án có kháng cáo, kháng nghị trong phạm vi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu nội dung kháng cáo, kháng nghị đề cập đến toàn bộ nội dung vụ của bản án sơ thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét lại toàn bộ nội dung của vụ án. Nếu nội dung kháng cáo, kháng nghị chỉ đề cập đến một phần bản án sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần đó của bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, trong trường hợp xét thấy cần thiết như phần bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có liên quan đến phần bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị ví dụ như: Khi xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị về giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nếu thấy chấp nhận được kháng cáo, kháng nghị mà thấy rằng việc giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo khác không có kháng cáo hoặc kháng nghị phù hợp với quy định của pháp luật thì Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng có thể giảm nhẹ hình phạt cho cả các bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị.
Về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
Theo quy định tại Điều 346 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, thì đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
Thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại điều luật kể trên, bao gồm cả thời gian Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa phúc thẩm.
Khác với quy định tại Điều 242 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, thì Điều 346 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định rõ, trong thời hạn 45 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, 75 ngày đối với vụ án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa phải ra một trong các quyết định:
Đình chỉ xét xử phúc thẩm;
Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm.
Chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Theo quy định tại Điều 346 nêu trên, thì Tòa án cấp phúc thẩm phải có quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm và chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng, chứ không phải là thông báo bằng văn bản như quy định tại Điều 242 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành. Quy định này nhằm mục đích bảo đảm cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng có điều kiện chuẩn bị tốt cho việc tham gia phiên tòa phúc thẩm.
Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm mà người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút toàn bộ kháng nghị, thì Tòa án cấp phúc thẩm phải đình chỉ việc xét xử vụ án. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trước khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút.
2.4. Kỹ năng điều khiển phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm:
Phiên tòa phúc thẩm cũng được tiến hành tương tự như phiên tòa sơ thẩm, khi kháng cáo, kháng nghị hợp lệ hoặc tuy kháng cáo quá hạn có lý do chính đáng. Phiên tòa phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án sơ thẩm thông qua việc xét xử phúc thẩm. Phiên tòa phúc thẩm cũng bao gồm, phần thủ tục, phần xét hỏi, phần tranh luận.
Để điều hành tốt phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm thì chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử, cần lưu ý sự khác nhau giữa phiên tòa phúc thẩm với phiên tòa sơ thẩm ở một số điểm như sau:
Thứ nhất: Ở phần thủ tục, thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ kiểm tra căn cước của các bị cáo có kháng cáo hoặc kháng nghị (đối với các vụ án ở cấp sơ thẩm có đông bị cáo mà không phải tất cả đều kháng cáo hoặc bị kháng nghị) hoặc những người tham gia tố tụng có kháng cáo như người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Phần tranh luận tại phần thủ tục cũng như đã phân tích ở phần thủ tục của cấp sơ thẩm.
Thứ hai: Trước khi tiến hành xét hỏi, thì một thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm (thường là chủ tọa phiên tòa) trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm. Sau khi trình bày xong tóm tắt nội dung vụ án thì chủ tọa phiên tòa hỏi người kháng cáo có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo hay không; nếu có thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên trình bày ý kiến về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo. Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị thì Chủ toạ phiên tòa hỏi Kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị hay không; nếu có thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị cáo và những người liên quan đến kháng nghị trình bày ý kiến về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị.
Thứ ba: Việc xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, cũng chủ yếu tập trung vào làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, đối với Chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu kỹ nội dung kháng cáo, kháng nghị để có kế hoạch xét hỏi cũng như điều hành phần tranh luận tại giai đoạn xét hỏi, tùy theo từng nội dung kháng cáo mà có kế hoạch xét hỏi khác nhau, cần phải xem xét cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, chú ý các tình tiết, các chứng cứ đã được chứng minh tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà sơ thẩm. Đồng thời cũng phải chú ý đến các tình tiết mà bị cáo, người bào chữa đưa ra để chứng minh sự ngoại phạm của bị cáo. Xét hỏi để làm rõ những tình tiết, chứng cứ còn mâu thuẫn, làm rõ tính hợp pháp của các chứng cứ, nguồn chứng cứ, giá trị pháp lý của các chứng cứ.
Ví dụ: Nếu bị cáo kháng cáo kêu oan thì Chủ tọa phiên tòa cần phải hết sức thận trọng trong việc xét hỏi nhằm đánh giá và sử dụng chứng cứ một cách khách quan và đúng đắn nhất. Để làm tốt vai trò, vị trí của Chủ tọa phiên tòa trong việc điều hành việc xét hỏi và tranh luận, Chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu xem cấp sơ thẩm sử dụng chứng cứ buộc tội là dựa vào lời khai của người bị hại hay người làm chứng hay dựa vào kết luận của Cơ quan giám định để có kế hoạch xét hỏi tập trung vào những người đó trước rồi mới đến xét hỏi những người tham gia tố tụng khác… Cần xét hỏi để làm rõ lý do những vấn đề kháng cáo kêu oan của bị cáo. Xét hỏi để kiểm tra các chứng cứ xác định sự vô tội của bị cáo đưa ra; kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án sơ thẩm khi tuyên bố bị cáo phạm tội.
Thứ tư: Ở phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm có thuận lợi hơn so với giai đoạn xét xử sơ thẩm là toàn bộ nội dung tranh luận, các luận cứ của luật sư đưa ra để bảo vệ thân chủ của mình cũng ít nhiều được thể hiện. Do vậy, trên cơ sở đánh giá chứng cứ cũ và chứng cứ mới phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm, thì kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm đánh giá về tính hợp pháp và có căn cứ hay không của bản án sơ thẩm để thể hiện quan điểm giải quyết vụ án. Cũng như ở cấp sơ thẩm, sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án thì Chủ tọa phiên tòa cũng phải làm tròn trách nhiệm trong việc điều hành phần tranh luận như đã phân tích ở phần xét xử sơ thẩm. Nếu qua tranh luận, thấy có đủ căn cứ khẳng định cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo là có cơ sở thì sẽ là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo. Nếu qua thẩm vấn thấy các chứng cứ chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có nhiều mâu thuẫn mà tại phiên toà phúc thẩm không có điều kiện khắc phục được thì Hội đồng xét xử sẽ lấy đó làm căn cứ để huỷ án sơ thẩm để điều tra xét xử lại.
Tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Để đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố tụng nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng chúng tôi có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất: Cần có các quy định đầy đủ, hợp lý và khả thi về địa vị tố tụng của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa để họ có đầy đủ điều kiện, khả năng thực hiện các nội dung tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình: được chủ động thu thập vật chứng, được xét hỏi những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng trong giai đoạn điều tra, được yêu cầu cung cấp tài liệu;
Thứ hai: Cần có các quy định thủ tục tố tụng thể hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể buộc tội và gỡ tội, nhất là tại phiên tòa; đảm bảo để các bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh luận một cách khách quan, công bằng và bình đẳng; mở rộng thêm phạm vi các vụ án có sự tham gia bắt buộc của luật sư, không nên quy định bắt buộc người bào chữa phải giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Cơ quan tiến hành tố tụng như hiện nay mà để họ tự công bố tại phiên tòa, có như vậy mới đúng tính chất của tranh tụng;
Thứ ba: Tăng cường các tổ chức luật sư, mở rộng phạm vi bào chữa để đảm bảo các phiên tòa có sự tham gia của người bào chữa ngày càng nhiều, không nên quy định người đại diện hợp pháp cũng là người bào chữa; nâng cao văn hoá pháp lý trong tố tụng nói chung và tại phiên tòa nói riêng;
Thứ tư: Nâng cao trình độ, nhận thức của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, đảm bảo cho họ có đủ năng lực về chuyên môn, về phong cách, về khả năng diễn đạt để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ năm: Bảo đảm cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng. Cần bố trí vị trí của các bên buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa là bằng nhau để đảm bảo không khí tố tụng bình đẳng, khách quan không nên để như hiện nay chủ thể buộc tội thì ngồi trên ngang hàng với Hội đồng xét xử, còn chủ thể gỡ tội thì ngồi dưới; tạo điều kiện cho các bên dễ dàng tiếp xúc trong quá trình tố tụng; hệ thống âm thanh, hình ảnh thuận tiện cho việc theo dõi tiến trình tố tụng là những điều kiện rất cần thiết cho tranh tụng cần được nghiên cứu v.v.
Thứ sáu: Các quy định về trình tự, thủ tục xét xử tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm,… cần được thiết kế lại theo hướng xác định vai trò trọng tài của Toà án; trách nhiệm chứng minh được phân đều cho các bên buộc tội và bào chữa; trình tự, thủ tục xem xét chứng cứ, tài liệu về vụ án và tranh luận tại phiên toà cần được thay đổi;…
Thứ bảy: Cần trang bị cho đội ngũ Thẩm phán các cấp đầy đủ về kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu cải cách tư pháp, kịp thời đổi mới tư duy và phương pháp công tác. Thẩm phán chủ tọa cần được rèn luyện nâng cao bản lĩnh để không còn bị lúng túng trong xử lý tình huống, dẫn đến không chủ động điều khiển quá trình tranh luận, đối đáp của các bên, nhất là đối với các vụ án có đông bị cáo và nhiều luật sư tham gia nên mặc dù thời gian tranh luận kéo dài nhưng chất luợng luận tội và bào chữa không cao, việc tranh luận, đối đáp của các bên không đi vào trọng tâm các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.
Thứ tám: Kiên quyết không để việc thực hiện chức năng xét xử tại phiên toà vẫn theo “nếp cũ”. Tạo điều kiện tốt nhất để Hội đồng xét xử thực hiện triệt để nguyên tắc “Khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Việc xét hỏi tại phiên toà cần thực sự đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW tránh tình trạng khi xét hỏi chỉ do HĐXX (chủ toạ phiên toà) thực hiện mà cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của Kiểm sát viên, luật sư và những nguời tham gia tố tụng khác trong xét hỏi và tranh luận tại phiên toà để làm sáng tỏ các tình tiết, các chứng cứ, tài liệu về vụ án.
Tóm lại
Tranh tụng là hình thức tố tụng trong giải quyết các vụ án nói chung và các vụ án hình sự nói riêng. Phạm vi và nội dung tranh tụng có khác nhau trong các hệ thống pháp luật của các nước và các loại án. Thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa và Tòa án ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa là đảm bảo quan trọng cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án, để từ đó giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan.
Tranh tụng tồn tại trong tất cả thủ tục tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính. Tuy nhiên, mỗi loại án có những đặc trưng khác nhau về yếu tố tranh tụng. Việc tranh tụng được thực hiện tại phiên tòa, cả trong giai đoạn bắt đầu, trong xét hỏi và trong tranh luận. Tùy theo địa vị tố tụng mà người tham gia tố tụng thực hiện nội dung tranh luận khác nhau.
TS. Phạm Minh Tuyên
Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh