Kỹ năng điều tra của luật sư

1. Điều tra là gì?

Xét về từ nguyên, học giả Đào Duy Anh nhìn nhận “Điều tra” có nghĩa là “Khảo sát sự thực (enquêter, examiner)”[1]. Xét về lý luận luật học, “Điều tra” là “công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Bộ luật Tố tụng hình sự dành cả Chương VIII để quy định về điều tra”[2] (Theo Bộ luật Tố tụng hình sự mới năm 2015 là Chương X Những quy định chung về điều tra trong vụ án hình sự). Theo nhóm tác giả này, hoạt động điều tra cần làm rõ các nội dung sau[3]:

+ Có hành vi phạm tội hay không? Nếu có thì theo khoản nào của Bộ luật Hình sự?

+ Ai là người phạm tội? Cố ý hay vô ý? Ai là đồng phạm, vv… Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của bị can và mọi tình tiết cần thiết khác.

+ Thiệt hại thực tế do tội phạm gây ra.

+ Điều tra xong phải có kết luận. Tùy theo kết luận mà có biện pháp xử lý thích đáng.

Sâu hơn nữa, xét về chuyên môn điều tra, theo Nguyễn Ngọc Anh, “Điều tra” là “hoạt động thu thập thông tin tài liệu, tình hình… phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực phục vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. Điều tra được tiến hành bằng nhiều hình thức, như: điều tra công khai, điều tra bí mật, điều tra trực tiếp hoặc điều tra gián tiếp…Điều tra trong tố tụng hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện (trong một số trường hợp do các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện), trong đó Cơ quan điều tra có nhiệm vụ điều tr ở giai đoạn đầu để làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố, Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động điều tra vụ án của Cơ quan điều tra và khi cần thiết cũng có thể trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra, Tòa án thực hiện nhiệm vụ điều tra thông qua việc thẩm vấn công khai các tài liệu, chứng cứ và những tình tiết của vụ án tại phiên tòa. Điều tra vụ án hình sự được cơ quan điều tra tiến hành theo trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; tổ chức, bộ máy, thẩm quyền cụ thể của các cơ quan điều tra được quy định tại Pháp lệnh Tổ chức Điều tra hình sự năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành”[4]. Trong khi đó, nhóm tác giả Học viện Cảnh sát nhân dân định nghĩa “Điều tra vụ án hình sự là hoạt động điều tra của những cơ quan điều tra và những cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành theo trình tự tố tụng hình sự, nhằm chứng minh sự thật của vụ án theo yêu cầu của pháp luật”[5] và “là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình sự, phục vụ cho việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng hình sự”[6].

Trên thực tế, các tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về điều tra thường do cơ quan công an thực hiện, xuất bản và lưu hành nội bộ. Tại Học viện Tư pháp, hiện nay, các luật sư cũng không được nghiên cứu, học tập kỹ năng điều tra[7].

2. Nhu cầu học tập kỹ năng điều tra của Luật sư

Quy định hiện hành về điều tra vụ án hình sự

Chương X Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) về Những quy định chung về điều tra trong vụ án hình sự gồm 16 Điều từ Điều 163 đến Điều 178. Ngày 26 tháng 11 năm 2015, Quốc hội khóa XIII ban hành Luật số 99/2015/QH13 về tổ chức cơ quan điều tra hình sự (Luật ĐTHS). Theo các quy định này, thẩm quyền, phân cấp điều tra sơ lược như sau:

(1) Hệ thống cơ quan điều tra: gồm Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) (Điều 4, Điều 5, Điều 6 Luật ĐTHS).

Cơ quan Điều tra của

Công an nhân dân

Cơ quan Điều tra của

Quân đội nhân dân

Cơ quan Điều tra của VKSNDTC
Cơ quan An ninh điều tra

Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an;

Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng;Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương

Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương;

Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện) Cơ quan điều tra hình sự khu vực

(2) Bên cạnh đó, Luật ĐTHS cũng quy định các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động Điều tra, gồm có: một số cơ quan của Bộ đội biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Cảnh sát biển; Kiểm ngư; cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động Điều tra (Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Đội An ninh ở Công an huyện….); Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động Điều tra gồm có Trại giam, đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương (Điều 9).

Thực trạng tư pháp Việt Nam với hoạt động điều tra

Giai đoạn điều tra có ý nghĩa quan trọng như LS Lê Minh Đức nhận định “Ở giai đoạn điều tra, giai đoạn có tính quyết định của quá trình tiến hành tố tụng, vì người bị tạm giữ, bị can chỉ là đối tượng bị “tình nghi phạm tội”, nếu thiếu thận trọng thì khoảng cách giữa không phạm tội và phạm tội hoặc giữa lỗi và tội dễ bị xóa nhòa”[8]. Theo đó, mục đích hướng đến của LS phải là “Luật sư đóng vai trò “bác sĩ pháp lý” cho bị can, người được tiếp cận bị can với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, có trách nhiệm giải thích cho bị can về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo, trung thực, khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật và xem xét toàn bộ nội dung điều tra để minh oan cho người bị “tình nghi phạm tội”” [9].

Để được tham gia vào các giai đoạn tố tụng (bao gồm cả điều tra), LS phải thực hiện thủ tục “đăng ký bào chữa” (BLTTHS đã thay thế thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục này). Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký người bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu các giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa trong hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản (Điều 78).

(1) Trong cuốn sách Vụ án vườn điều từ những góc nhìn[10], tác giả LS Phạm Hồng Hải đã miêu tả quá trình tương đối gian khổ, đối mặt với cơ quan tư pháp tỉnh Bình Thuận. Niềm vui bảo vệ công lý cho gia đình bị can Nguyễn Thị Lâm chỉ vỡ òa khi Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an công bố Bản kết luận điều tra số 01/KLĐT (C14-P9) quyết định tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can đối với Nguyễn Thị Lâm, Nguyễn Văn Sơn, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thị Tiến; đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định trả tự do cho bà Nguyễn Thị Lâm. Trong quá trình này, luật sư Phạm Hồng Hải và luật sư Trần Vũ Hải chịu rất nhiều áp lực, ngay từ dư luận và phía cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận/Điều tra viên thụ lý vụ việc[11].

Tổng kết, luật sư Hải đã chỉ ra các vi phạm tố tụng của một số người thuộc cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bình Thuận như sai lầm trong thu thập chứng cứ; bức cung, nhục hình (“đấu tranh”) bị can; năng lực và lương tâm hạn chế của Điều tra viên (Cao Văn Hùng) thụ lý vụ việc…[12]. Trong một bối cảnh khác có liên quan, trước khi có kết luận chính thức về vụ án “Người tù thế kỷ” này (Ông Huỳnh Văn Nén được trả tự do), cựu Điều tra viên Cao Văn Hùng được kết nạp vào Đoàn Luật sư cũng tạo dư luận không tốt trong giới luật sư nước nhà.

(2) Tương tự, việc xét xử 5 công an sử dụng nhục hình gây chết người (Tuy Hòa, Phú Yên) với những mức án nhẹ (trong đó một người lãnh 5 năm tù giam, một người 2 năm tù giam, một người 1 năm 6 tháng tù giam và 2 người còn lại hưởng án treo) cũng tạo nên sự nghi hoặc nhất định đối với hệ thống tư pháp và công cuộc cải cách tư pháp nói chung[13].

Trong cả hai vụ việc nêu trên, sự tham gia của luật sư trong phiên tòa còn gặp nhiều cản trở nhất định. Đặc biệt, trong một diễn biến bất thường, tại vụ việc thứ hai, các cơ quan Công an – Tòa án – Viện kiểm sát tỉnh Phú Yên yêu cầu Liên đoàn Luật sư Việt Nam thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư của luật sư Võ An Đôn (Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại) với lý do có lời lẽ thiếu văn hóa, xúc phạm đến người tham gia tố tụng và nhiều cán bộ lãnh đạo các ngành nội chính của tỉnh Phú Yên/thành phố Tuy Hòa. Mặc dù, cuối cùng, yêu cầu bất hợp pháp và không chính đáng này bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam[14] bác bỏ nhưng vụ việc cũng để lại nhiều dư âm không tốt trong môi trường tư pháp nước nhà[15] [16].

(3) Bên cạnh vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn đã tốn nhiều bút, mực của báo chí Việt Nam, Vụ án ông Trần Văn Thêm (80 tuổi) bị truy tố về tội giết người tại tỉnh Vĩnh Phú (cũ) vào năm 1970 được Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) kết luận là oan sai vào ngày 09/8/2016 mới đây. Đây được xem là vụ án hy hữu trong lịch sử tố tụng hình sự, hầu hết các tài liệu liên quan đến vụ án đều đã bị thất lạc trong một thời gian dài. TANDTC mới đây đã tìm được 2 bản án sơ thẩm, phúc thẩm cùng tài liệu liên quan trong hồ sơ lưu trữ và quyết tâm nhanh chóng xử lý sự việc để chính thức minh oan cho ông Trần Văn Thêm[17]. May mắn cho không chỉ ngành tư pháp nước nhà lẫn công dân, người hàm oan vẫn sống được tiếp tới 46 năm để chờ đợi công lý đến được với mình. Câu hỏi đúng (right question[18]) cần đặt ra là còn bao nhiêu phận người oan sai và sống được đến ngày được giải oan.

Bảng 1. Số liệu án oan, sai

Giai đoạn Số vụ án

oan, sai

Giá trị bồi thường Nguồn
2011-2014 71 30 tỷ đồng Liên đoàn Luật sư Việt Nam (LĐLSVN)[19]

Song song với số liệu nêu trên của LĐLSVN (những vụ việc có sự tham gia của luật sư), theo Đoàn Luật sư Hà Nội, trong 47 vụ án có dấu hiệu oan sai mà luật sư của đoàn từng trợ giúp pháp lý từ 01/10/2011 đến 30/9/2014, tương tự vụ việc (1) và (2) trên đây, oan sai chủ yếu xuất phát từ giai đoạn điều tra[20]. Tác giả cũng không phủ nhận rằng các điều tra viên gây ra oan sai trong thống kê kể trên chỉ là số ít và vẫn có những điều tra viên có lương tâm nghề nghiệp[21].

Từ thực tế hành nghề luật sư trong thời gian qua, LS Nguyễn Huy Thiệp nhận định “người bị tạm giữ, bị can, đặc biệt là những bị can đang bị tạm giam, người nhà của những người này rất mong muốn luật sư tham gia vào từ giai đoạn điều tra, bởi đối với họ, lúc này luật sư – người bào chữa là người duy nhất có thể tư vấn và hướng dẫn họ tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Hơn thế nữa, khi tham gia từ giai đoạn điều tra, người bào chữa sẽ giám sát và kịp thời phát hiện những sai sót (nếu có) của điều tra viên, từ đó có những đề xuất, kiến nghị đối với cơ quan điều tra, viện kiểm sát để bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng”[22]. Các hoạt động điều tra tư nhân của LS cũng góp phần tìm kiếm sự thật khách quan của vụ án và đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng và hợp pháp của thân chủ không bị xâm hại.

Tham khảo quy trình tư pháp Hoa Kỳ với hoạt động điều tra của LS

Trong quá trình tác nghiệp, theo quy định pháp luật TTHS Hoa Kỳ, luật sư bào chữa có 12 quyền, trong đó có quyền (1) Đại diện bị can ngay khi bị bắt giữ, để cung cấp cho thân chủ tư vấn suốt quá trình thẩm vấn và để đảm bảo sự bảo hộ của hiến pháp không bị xâm phạm suốt quá trình tiền tố tụng; (2) Giám sát báo cáo của cảnh sát và điều tra sâu hơn để bào chữa cụ thể; và (3) Phỏng vấn cảnh sát, bị can, nhân chứng và tìm kiếm bằng chứng và nhân chứng bổ sung nhân danh nguyên đơn[23]. Qua nghiên cứu và phỏng vấn trực tiếp một số chuyên gia pháp luật Hoa Kỳ[24], tác giả chưa thấy LS Hoa Kỳ phải thực hiện thủ tục “đăng ký bào chữa” như LS tại Việt Nam.

Theo Thomas J. Gardner, Terry M. Anderson, tại Hoa Kỳ, luật sư bào chữa có toàn quyền đánh giá, kiểm tra chứng cứ và có tiếng nói quyết định về chứng cứ nào sẽ được đem trình bày trước thẩm phán và bồi thẩm đoàn tại phiên xét xử [25].

Hộp 1. Luật sư điều tra và lời bào chữa cuối cùng trước Bồi thẩm đoàn (BTĐ)

Thưa Quý vị Bồi thẩm đoàn, trong đêm ấy, khi tôi đi ngang qua thân chủ tôi là bị cáo đây. Tôi đã nhìn thấy một điều mà đến giờ tôi vẫn tâm niệm: Người này vô tội… Cảnh sát và công tố viên đã không điều tra, ít nhất là hai đối tượng khả nghi, có mâu thuẫn lợi ích lớn với nạn nhân, và chỉ tập trung vào điều tra người này. Như vậy, liệu có công bằng?… ”.

Lời thoại serries phim truyền hình “The Night Of” (Đêm Ấy) trên HBO ngày 29/8/2016. Bộ phim (dựa trên ý tưởng của chương trình “Criminal Justice” Đài BBC) kể về quá trình 1 người Mỹ gốc Pakistan Nazir Khan bị buộc tội giết người tại Thành phố New York. Phim đặc tả phiên xử, cuộc sống trong trại giam, lương tâm của điều tra viên, luật sư, bác sĩ giám định…

Trong bộ phim, luật sư John Sowe của Nazir Khan đã tự mình điều tra ra thêm hai nhân vật có mối quan hệ mâu thuẫn lợi ích với nạn nhân (cha dượng – người thường lấy phụ nữ già, giàu có – tranh chấp di sản với nạn nhân; và người quản lý tài chính kiêm người tình của nạn nhân). Kết cuộc, BTĐ rơi vào “bế tắc” (deadlock) khi 6-6 thành viên cho rằng Khan có tội và vô tội. Thẩm phán hỏi Công tố viên sau khi giải tán BTĐ này có thành lập BTĐ khác hay không thì CTV trả lời “Chúng tôi không khởi tố thêm nữa”. Khan được tha bổng tại tòa.

Nhu cầu thực hiện điều tra của luật sư

Theo số liệu dẫn ra ở trên, vì đa số oan sai xuất phát từ giai đoạn điều tra nên trong quá trình tham gia tố tụng, chính bản thân luật sư cần thực hiện các nghiệp vụ điều tra nhằm làm rõ sự thật khách quan, độc lập với sự điều tra của cơ quan điều tra Nhà nước. Trong một chừng mực nhất định, luật sư, từ trực giác nghề nghiệp, các chứng cứ, bằng chứng trực tiếp tại hiện trường; gián tiếp (bút lục…) do cơ quan công quyền cung cấp, phải tự mình thực hiện và thực nghiệm các hoạt động điều tra riêng rẽ. Từ việc thẩm tra chéo, đối chiếu các mối quan hệ hiện có của đương sự, các nhân chứng…để tìm ra sự mâu thuẫn, bất hợp lý mà vì một lý do nào đó, các cơ quan điều tra Nhà nước đã, vô tình hay hữu ý, bỏ qua. Từ các mâu thuẫn, phi logic này, luật sư sẽ góp phần tìm đến sự thực khách quan của vụ án. Điều này không những giúp cho luật sư làm đúng chức phận, lương tâm nghề nghiệp của mình mà còn góp phần tránh oan, sai trong công tác điều tra đi tìm sự thực khách quan của cơ quan có thẩm quyền.

Tại đây, xuất hiện khoảng trống đào tạo/nghiên cứu cho nghiệp vụ điều tra mang tính “tư nhân” của luật sư. Mục tiêu của bài viết này, không gì hơn, góp tiếng nói nhỏ nhoi nhưng độc lập vào việc nghiên cứu kỹ năng điều tra của luật sư, cung cấp ít nhất là một số yếu tố chỉ điểm cho các luật sư khi tham gia tìm kiếm sự thực khách quan của vụ án, ngõ hầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của thân chủ.

LS Nguyễn Văn Chiến (Phó Chủ tịch Liên đoàn LS Việt Nam vừa đắc cử Quốc hội khóa mới) chia sẻ “Các LS tham gia lấy lời khai của bị can chỉ được ngồi nghe. Khi LS muốn hỏi thân chủ để làm rõ vấn đề thì phải được ĐTV đồng ý. Có những trường hợp LS phải đưa câu hỏi trước để ĐTV duyệt, rồi phải hỏi thân chủ theo… kế hoạch điều tra. Nhiều khi LS muốn đưa ra câu hỏi gì đối với thân chủ phải tranh luận, thuyết phục ĐTV. Khi hỏi, những câu hỏi và trả lời đó có được ghi vào biên bản hay không cũng là một vấn đề” [26]. Đặt trong bối cảnh sự bình đẳng giữa LS và Điều tra viên (ĐTV)[27] còn xa vời như lời chia sẻ của LS Nguyễn Văn Chiến, việc trui rèn kỹ năng này còn là một cách tự cường của LS, từ đó gia tăng vị thế của chính mình trước ĐTV.

3. Nội dung kỹ năng điều tra của luật sư

Tổng quan kỹ năng điều tra

Tổng quát, Lương Bình An cho rằng “một điều tra viên lành nghề” cần thực hành các bước sau:

(1) Phân loại (classification): ĐTV cần phải phân loại từng việc từng người với những tánh chất riêng biệc của từng người từng việc. Phân loại để ta tìm hiểu kẻ phạm pháp thuộc hạng nhà nghề hay tay mơ, vô tình hay hữu ý, và việc tình tiền hay thù oán v.v… để cuộc điều tra có một phương hướng rõ rệt hầu xúc tiến

(2) Bản đồ (Plan d’examination): Trung tâm của bản đồ là phạm trường, chung quanh là những chứng tích xa vời và kế cận. Nhờ đó mà công tác điều tra được xúc tiến việc nào trước việc nào sau.

(3) So sánh (Comparaison): ĐTV cần phải biết so sánh điểm này với điểm kia, và so sánh sức tiến triển của sực việc với mức tiến bộ của thủ phạm.

(4) Ức thuyết (Hypothèse)[Giả thuyết điều tra]: Trong khi điều tra, “Thêm vào những chi tiết đã thâu lượm được chung quanh phạm trường, điều tra viên có thể bắt đầu dựng lên một ức thuyết để dự đoán loại tội trạng trước khi xác định cuối cùng” [28].

(5) Nguyên nhân (la cause): biết được nguyên nhân làm tìm ra động cơ thúc đẩy hành động phạm pháp rồi đến giai đoạn phán đoán (raisonner). ĐTV tự đặt ra những câu hỏi: Có thể đã xảy ra như thế này sao? Có thể sẽ kết liễu như thế này được không? Tại sao có những hiện tượng như thế?v.v.. Việc phán đoán đòi hỏi một trình độ lý luận cần thiết để cân nhắc và suy luận.

(6) Tổng hợp (le rassemblement général): tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề, không phải chỉ dựa theo vài ba chi tiết chung quanh phạm trường là đủ mà phải nhiều nơi thâu góp về. Hằng ngày, ĐTV lo việc tổng hợp tất cả những chứng tích ấy lại, và sắp xếp theo từng đợt. Chừng ấy, ĐTV sơ kết lần lần để đi đến tổng hợp đầy đủ.

(7) Lập thành hồ sơ (former le dossier): Sau 6 bước trên, ĐTV có thể lập thành hồ sơ. Việc lập hồ sơ có tánh cách kết thúc giai đoạn điều tra. Cho nên, ĐTV phải thận trọng, và cân nhắc kỹ lưỡng bởi vì lập thành hồ sơ là có cả đề nghị xử lý. Thủ phạm, đồng phạm, và các dẫn chứng cụ thể cần phải được nêu lên rõ ràng[29].

Ngoài việc nhắn nhủ các ĐTV “tự chủ, tránh thành kiến, kiên nhẫn, kín mật, trí nhớ, bình tĩnh, cầu tiến, vô tư; tránh sự tưởng tượng viển vông”[30], Lương Bình An cũng nhắc lạicâu nói của đại văn hào André Gide về sự thật khách quan: “Cần nhứt là phải xem sự vật y như nó đã xảy ra, chớ không nên theo ý tưởng riêng của mình muốn cho nó xảy ra như thế này, thế kia…” [31].

Khổng Minh Tuấn, Ngô Sỹ Hiền, Phạm Xuân Thủy định nghĩa “Kỹ thuật điều tra hình sự là một trong bốn bộ phận cấu thành của khoa học điều tra hình sự. Kỹ thuật điều tra hình sự có đối tượng nghiên cứu là hệ thống tri thức, phương pháp khoa học tự nhiên, kỹ thuật và những phương tiện kỹ thuật được xây dựng trên cơ sở áp dụng và sử dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đó để phục vụ công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm”[32]. Nhóm tác giả này cũng cho thấy quan điểm khác nhau giữa các nhà điều tra các nước tư bản chủ nghĩa khi coi khoa học điều tra hình sự (KHĐTHS) là “khoa học tự nhiên” với “Kỹ thuật điều tra hình sự là xương sống, cơ bản nhất”; còn các nhà điều tra hình sự các nước xã hội chủ nghĩa thì chia khoa học điều tra hình sự thành 5 bộ phận, gồm “Lý luận và phương pháp luận chung về KHĐTHS; KHĐTHS; Chiến thuật hình sự; Phương pháp hình sự và Tâm lý học hình sự” [33]. Cũng theo nhóm tác giả trên, ở Việt Nam, KHĐTHS gồm 4 bộ phận đã dẫn trên đây, trừ KHĐTHS.

Kỹ năng điều tra chuyên biệt

Lương Bình An phân loại các phương pháp điều tra tội trộm; cướp; cờ bạc; bắt gái mãi dâm; bắt tội nhận hối lộ…mỗi loại tội có một phương pháp, thứ tự điều tra nhất định, phù hợp với đặc thù tự nhiên của phân loại tội phạm[34]. Trong khi đó, nhóm tác giả HVCSND cũng phân loại các phương pháp điều tra theo các loại tội phạm khác nhau. Ví dụ: phương pháp điều tra tội phạm sản xuất buôn bán hàng giả; Điều tra các vụ án tham ô tài sản; Phương pháp điều tra về tội phạm ma túy… [35]. Nhóm tác giả HVCSND dựa vào phân tích 4 yếu tố cấu thành tội phạm, gồm: Khách thể/Chủ thể; mặt khách quan/chủ quan của tội phạm để triển khai hoạt động điều tra[36].

Trong nhiều trường hợp, để thực hiện được hoạt động điều tra “tư nhân” kể trên, LS cần phải có cả nghiệp vụ trinh sát[37], tiếp cận các đối tượng cần thiết (nhân chứng, người có quyền và lợi ích liên quan…). Ví dụ: LS hoàn toàn có thể đóng vai một người xe ôm uống nước chè tại địa bàn gần nơi cần thu thập thông tin. LS cũng cần nắm được cơ bản các nội dung liên quan đến dấu tay con người, giám định pháp y… Ví dụ, đối với khoa dấu tay, về cơ bản, ít nhất LS phải biết các phân loại cơ bản như loại cung (arch), loại cong (loop), loại ốc (whorl)[38].

Giả thuyết điều tra

Tổng hợp và bình luận các khái niệm khác nhau về giả thuyết điều tra, Nguyễn Văn Nhật nhận định “Giả thuyết điều tra là những nhận định, phán đoán về bản chất của một vụ việc đang được điều tra, nội dung, các tình tiết và mối liên hệ giữa chúng, dựa trên cơ sở những thông tin đã thu thập được, kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động điều tra và những tài liệu của các ngành khoa học khác, làm phương hướng cho hoạt động điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ việc”[39]. Giản dị và cụ thể hơn, trong trường hợp có một sự kiện là cơ thể người rơi từ nhà cao tầng xuống và tử vong, ĐTV có thể xác định nhiều giả thuyết điều tra khác nhau. Ví dụ: ĐTV tìm các chứng cứ, tài liệu, hồ sơ chứng minh (1) tai nạn do sơ ý (2) tự tử hoặc (3) án mạng, do người khác đẩy xuống. LS, bằng linh cảm nghề nghiệp, dựa trên cơ sở khoa học logic, không phụ thuộc và ý chí điều tra chủ quan của cơ quan Nhà nước, cần có những giả thuyết điều tra của riêng mình.

Tiểu kết

Bất luận với phương pháp và kỹ thuật điều tra như thế nào, chứng cứ trực tiếp (thu thập hợp pháp tại hiện trường vụ án – phạm trường) có giá trị pháp lý và điều tra cao nhất, có sức thuyết phục nhất trong quá trình tìm kiếm sự thực khách quan của vụ án[40].

4. Kiến nghị bổ sung môn học “Kỹ năng điều tra của luật sư”

Trên thực tế, các tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về điều tra thường do cơ quan công an thực hiện, xuất bản và lưu hành nội bộ. Tại Học viện Tư pháp, hiện nay, các luật sư cũng không được nghiên cứu, học tập kỹ năng điều tra[41]. Trong khi đó, nhu cầu trên thực tế của việc này là rất quan trọng (như đã phân tích tại Mục 2 và 3 trên đây). Vì vậy, tôi kiến nghị bổ sung môn học “Kỹ năng điều tra của luật sư” vào chương trinh học “Nghiệp vụ luật sư” của Học viện Tư pháp (Bộ Tư pháp), cụ thể:

+ Về thời lượng: chương trình học ít nhất là 03 (ba) tín chỉ;

+ Về chương trình học: tổng quan về kỹ năng điều tra của LS; chuyên sâu Giả thuyết điều tra; các kỹ năng điều tra tại hiện trường;

+ Về giảng viên: kiến nghị mời các Điều tra viên nhiều kinh nghiệm (Bộ Công an) đã từng điều tra những vụ án nổi tiếng, phức tạp, chưa từng gây oan, sai do công tác điều tra.

VỀ TÁC GIẢ:

Th.S, LS Phạm Quang Huy tốt nghiệp Cử nhân luật học (chính quy) và bảo vệ Luận văn Thạc sĩ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, có kinh nghiệm tư vấn pháp luật gần 10 năm , chuyên ngành bất động sản, hợp đồng, nhà nước pháp quyền…tại Việt Nam, Myanmar, Campuchia (gia nhập Đoàn Luật sư Hà Nội từ 23/5/2013). Các công trình khoa học đã công bố của Th.S LS Phạm Quang Huy:

(1) Phạm Quang Huy [2014], “Bình luận về Hợp đồng chuyển nhượng bất động sản hình thành trong tương lai”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 06 (262), kỳ 2 tháng 3/2014, Tr 24-37.

(2) Phạm Quang Huy [2014]. “Chính quyền địa phương ở Việt Nam, Trung Quốc, Thụy Điển, Hoa Kỳ và một số kiến nghị”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 24 (280), kỳ 2 tháng 12/2014, Tr 57-63.

(3) Phạm Quang Huy [2015]. “Tố tụng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ởViệt Nam, Hoa Kỳ và một số kiến nghị đối với Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (296), kỳ 2 tháng 8/2015, Tr 52-61.

(4) Phạm Quang Huy [2016]. “Bình luận Hương ước theo giác độ luật hợp đồng”, Tạp chí Luật học, số tháng 4/2016 (191), tr 42-49.

(5) Phạm Quang Huy [2016]. “Tội dâm ô với trẻ em: một số thực trạng và giải pháp pháp lý”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 13 (317) Kỳ 1 Tháng 7/2016, tr 44-51.

(6) Phạm Quang Huy [2016]. “Lý luận về Công lý & Pháp luật và một số kiến nghị”. Bài viết Kỷ yếu Hội thảo “Những vấn đề lý luận về pháp luật”, ngày 26/8/2016 do Trường ĐH Luật Tp. HCM tổ chức.

(7) Hàn Sĩ Huy [2013], Nghiencuuquocte.net, Bài dịch “Trung Quốc tới hạn: Chi phí gia tăng của sự ổn định” bài viết “China at Tipping Point? The Rising Cost of Stability” của Xi ChenJournal of Democracy, Volume 24, Number 1, January 2013, pp. 57-64.


[1] Đào Duy Anh. 1957. Hán Việt từ điển giản yếu (Quyển thượng). Sài Gòn: Trường Thi. Tr 279.

[2] Nhiều tác giả. 1999. Từ điển luật học. Hà Nội: Từ điển Bách khoa. Tr 157.

[3] Nhiều tác giả 1999, Sđd, Tr 157.

[4] Nguyễn Ngọc Anh. 2006. Sổ tay pháp luật của Điều tra viên. Hà Nội: Công an nhân dân. Tr 108.

[5] Học viện Cảnh sát nhân dân. 2002. Giáo trình Phương pháp Điều tra các loại tội phạm cụ thể (Tập I). Hà Nội: Học viện Cảnh sát nhân dân. Trang 7.

[6] Học viện Cảnh sát nhân dân 2002. Tập I. Sđd. Trang 7.

[7] Bộ Giáo trình cũ do Phan Hữu Thư chủ biên và NXB Công an nhân dân xuất bản năm 2002, gồm 04 tập: Tập I – Luật sư và nghề luật sư; Tập II – Chuyên đề pháp luật liên quan đến kỹ năng hành nghề luật sư; Tập III – Hợp đồng và tư vấn pháp luật và Tập IV – Kỹ năng tranh tụng. Cả 04 tập này không nhắc tới Kỹ năng điều tra của LS (Ví dụ: Tập IV chỉ nhắc đến hoạt động đánh giá chứng cứ của LS trong tố tụng hình sự tại trang 7-16). Tương tự, bộ giáo trình mới (2010) cũng không đề cập tới chủ đề này.

[8] Lê Minh Đức, “Phát huy vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, dẫn theo http://liendoanluatsu.org.vn/web/phat-huy-vai-tro-cua-luat-su-trong-giai-doan-dieu-tra-vu-an-hinh-su-773.html, truy cập ngày 19/07/2016.

[9] Lê Minh Đức, Tlđd.

[10] Phạm Hồng Hải. 2008. Vụ án vườn điều từ những góc nhìn. Hà Nội: Nxb. Công an nhân dân. Trang 10.

[11] Phạm Hồng Hải, Sđd, tr. 310.

[12] Phạm Hồng Hải, Sđd, tr. 357, 361.

[13] Duy Thanh – M. Quang, Chủ tịch nước yêu cầu xử nghiêm vụ “dùng nhục hình”, Báo Tuổi trẻ, ngày 10/4/2014.

[14] Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Báo cáo số 01/2015/BC-BVQLLS ngày 18/01/2015 về kết quả làm việc với các cơ quan có thẩm quyền của TP. Tuy Hòa và tỉnh Phú Yên liên quan việc kiến nghị xử lý vi phạm của luật sư Võ An Đôn và ý kiến về kế hoạch thanh tra của Sở Tư pháp đối với hoạt động VPLS Võ An Đôn (Đoàn luật sư Tỉnh Phú Yên).

[15] Đào Tuấn, Thấy gì qua cái kết vụ đòi “trảm” luật sư Đôn?, Báo Lao động, ngày 24/01/2015.

[16] Xem thêm: Phạm Quang Huy [2015]. “Tố tụng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở Việt Nam, Hoa Kỳ và một số kiến nghị đối với Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (296), kỳ 2 tháng 8/2015, Tr 52-61.

[17] Xuân Hoa, VnExpress, 9/8/2016, Cụ ông 80 tuổi mang án giết người hơn 40 năm được minh oan, xem http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/cu-ong-80-tuoi-mang-an-giet-nguoi-hon-40-nam-duoc-minh-oan-3450088.html , truy cập ngày 10/8/2016.

[18] Trong bộ phim “Wall Street: Money Never Sleep”, Jacob Moore (do Shia LaBeouf đóng) được Louis Zabel (Frank Langella) trả lời về sự sụp đổ của các ngân hàng đầu tư (khủng hoảng tài chính 2008) rằng: “Câu hỏi đúng là ai sẽ không sụp đổ?

[19] LĐLSVN, Tạp chí Luật sư Việt Nam, Án oan sai và vai trò của luật sư, xem http://liendoanluatsu.org.vn/web/an-oan-sai-va-vai-tro-cua-luat-su-797.html , truy cập ngày 10/8/2016.

[20] ĐẶNG TRUNG – CHÂN LUẬN, Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh 12/1/2015, Án oan sai ngày càng gia tăng và phức tạp, http://plo.vn/thoi-su/an-oan-sai-ngay-cang-gia-tang-va-phuc-tap-523766.html , truy cập ngày 10/8/2016.

[21] Xem thêm: Nguyễn Văn Kiệp (Lâm Phương). 1998. Hồi ức Điều tra viên. Hà Nội: Quân đội nhân dân.

[22] Nguyễn Huy Thiệp, Tham luận “Kỹ năng tham gia tố tụng của Luật sư trong giai đoạn điều tra” tại Hội thảo Kỹ năng thẩm vấn và tranh tụng của luật sư trong các vụ án hình sự, xem http://liendoanluatsu.org.vn/web/bai-tham-luan-cua-luat-su-nguyen-huy-thiep-tai-hoi-thao-ky-nang-tham-van-va-tranh-tung-cua-luat-su-trong-cac-vu-an-hinh-su-737.html, truy cập ngày

[23] James. A. Inciardi. 2005. Criminal Justice (7th edition). New York: Mc GrawHill. Page 349.

[24] Tác giả được Đại sứ quán Hoa Kỳ mời với tư cách chuyên gia pháp lý địa phương (local spcecialist) tham gia các buổi tiếp tân (reception) với các thẩm phấn, luật sư Hoa Kỳ mong muốn tiếp chuyện với giới luật sư, luật gia Việt Nam. Trong một số dịp, tác giả đã kết nối giữa Đoàn Luật sư Hà Nội với các đối tác pháp lý Hoa Kỳ.

[25] Thomas J. Gardner, Terry M. Anderson. Criminal Evidence: Principles and Cases (6th edition). Australia, Brazil, Canada, Mexico, Singapore, Spain, United Kingdom, United States: Thomson Wadsworth. Page 38.

[26] Chân Luận, Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 11/6/2016, “Khi nào luật sư bình đẳng với điều tra viên?”, truy cập ngày 28/8/2016, xem http://plo.vn/phap-luat/khi-nao-luat-su-binh-dang-voi-dieu-tra-vien-633984.html.

[27] Chân Luận, Tlđd.

[28] Lương Bình An. 1964. Kỹ thuật Điều tra tư pháp. Sài Gòn: Không ghi nơi xuất bản. Trang 12.

[29] Lương Bình An 1964. Sđd. Trang 11 – 13.

[30] Lương Bình An 1964. Sđd. Trang 14.

[31] Lương Bình An 1964. Sđd. Trang 14.

[32] Khổng Minh Tuấn, Ngô Sỹ Hiền, Phạm Xuân Thủy. 2007. Kỹ thuật điều tra hình sự. Hà Nội: Công an nhân dân. Trang 10.

[33] Khổng Minh Tuấn, Ngô Sỹ Hiền, Phạm Xuân Thủy 2007. Sđd. Trang 11.

[34] Lương Bình An 1964. Sđd. Trang 57, 67, 73.

[35] Học viện Cảnh sát nhân dân. 2002. Giáo trình Phương pháp Điều tra các loại tội phạm cụ thể (Tập II). Hà Nội: Học viện Cảnh sát nhân dân. Trang 5, 42, 117.

[36] Học viện Cảnh sát nhân dân (Tập II). 2002. Sđd. Trang 14.

[37] Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (Bộ Nội vụ). 1996. Giáo trình Hoạt động nghiệp vụ trinh sát của lực lượng cảnh sát nhân dân. Hà Nội: Đại học Cảnh sát nhân dân.

[38] Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. 1973. Khoa Dấu tay. Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia Việt Nam dịch Cộng Hòa. Sài Gòn: Bộ tư lệnh Cảnh sát quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Trang 7

[39] Nguyễn Văn Nhật. 2002. Giả thuyết điều tra vụ án hình sự. Hà Nội: Công an nhân dân. Trang 17.

[40] Cao Xuân Quyết. 2009. Giám định pháp y và Điều tra hình sự. Hà Nội: Chính trị quốc gia. Trang 155.

[41] Tại website của Học viện Tư pháp, chương trình đào tạo có môn học “Kỹ năng của luật sư khi thu thập nguồn chứng cứ, chứng cứ”, xem http://hocvientuphap.edu.vn/, truy cập ngày 13/9/2016

THS.LS. PHẠM QUANG HUY – Trưởng Văn phòng luật sư Hàn Sĩ Huy

TẠP CHÍ LUẬT SƯ SỐ 10 (31)/2016

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *