[VPLUDVN] Để chứng minh tội phạm và người phạm tội, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định cụ thể các biện pháp điều tra nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho quá trình chứng minh. Nhận dạng là biện pháp điều tra do Điều tra viên tiến hành theo trình tự, thủ tục khi thấy cần thiết, bằng cách đưa người, ảnh hoặc vật cho người làm chứng, bị hại hoặc bị can xác nhận người, ảnh hoặc vật đó, nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội.
Ảnh minh họa – internet. |
Để việc nhận dạng thực hiện đúng quy định của pháp luật và đạt kết quả tốt, thì Kiểm sát viên (KSV) cần chú ý một số vấn đề sau khi kiểm sát việc nhận dạng.
1. Kỹ năng kiểm sát trực tiếp việc nhận dạng
Khi được lãnh đạo Viện phân công kiểm sát trực tiếp việc nhận dạng, Kiểm sát viên (KSV) cần nghiên cứu hồ sơ vụ án để xác định:
– Có cần thiết tiến hành nhận dạng hay không? Nếu cần thiết, KSV nên trao đổi, thống nhất với ĐTV về kế hoạch nhận dạng nhằm bảo đảm hoạt động này đạt kết quả tốt.
– Việc ĐTV lựa chọn người nhận dạng, đối tượng nhận dạng, người chứng kiến đã chính xác, đúng pháp luật hay chưa? Nếu có người chưa phù hợp thì KSV chủ động trao đổi với ĐTV để đảm bảo thành phần tham gia việc nhận dạng đúng quy định.
– ĐTV đã hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được hay chưa? Trường hợp phát hiện ĐTV chưa thực hiện việc này thì KSV yêu cầu ĐTV thực hiện trước khi tiến hành nhận dạng.
Khi kiểm sát trực tiếp, KSV cần chú ý quan tâm những vấn đề sau nhằm thực hiện tốt công tác kiểm sát hoạt động này:
– Kiểm sát việc ĐTV kiểm tra tình trạng sức khỏe của những người tham gia việc nhận dạng, xác định có ai không đủ sức khỏe để tham gia việc nhận dạng hay không?
– Kiểm sát việc ĐTV giải quyết các đề nghị của những người tham gia việc nhận dạng thế nào? Có đúng theo quy định của pháp luật không?
– Kiểm sát việc ĐTV giải thích cho người làm chứng hoặc bị hại biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối khi họ là người nhận dạng.
– Kiểm sát thành phần tham gia việc nhận dạng:
người nhận dạng phải là người làm chứng, bị hại hoặc bị can. Nếu người nhận dạng không phải là người làm chứng, bị hại hoặc bị can, mà là người khác như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, là vi phạm quy định của BLTTHS.
Nếu người nhận dạng là người dưới 18 tuổi thì phải kiểm tra xem việc nhận dạng có sự tham gia của người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ hay không? xác định người chứng kiến việc nhận dạng là ai, có thuộc trường hợp không được làm người chứng kiến quy định tại khoản 2 Điều 67 BLTTHS năm 2015 hay không? Trường hợp phát hiện ĐTV có vi phạm như lựa chọn người dưới 18 tuổi, người thân thích của mình… làm người chứng kiến thì KSV phải kịp thời yêu cầu ĐTV thay đổi.
– Kiểm sát việc đưa đối tượng nhận dạng ra để nhận dạng:
Xác định đối tượng đưa ra để nhận dạng là người, ảnh hay vật; số lượng ít nhất phải là ba người.
Đối tượng nhận dạng tương tự là người thì có cùng giới, gần giống đối tượng nhận dạng chính về chiều cao, màu da, độ tuổi…hay không? Đối tượng tương tự là vật thì vật đó có cùng loại, gần giống đối tượng nhận dạng chính về kích thước, màu sắc…
– KSV xem xét hoàn cảnh, điều kiện tiến hành nhận dạng có tương tự với hoàn cảnh, điều kiện mà người nhận dạng đã tri giác đối tượng trước đây hay không? Đây là cơ sở để đánh giá chính xác, khách quan kết quả hoạt động nhận dạng.
– Nếu có nhiều người nhận dạng cùng tham gia việc nhận dạng, thì KSV yêu cầu ĐTV phải tổ chức nhận dạng riêng đối với từng người.
– Trong quá trình nhận dạng ĐTV tổ chức việc nhận dạng, KSV cần chú ý quan sát thái độ, cử chỉ, hành động của những người tham gia việc nhận dạng. việc này sẽ cung cấp cho KSV các thông tin quan trọng như: người nhận dạng khai báo đúng sự thật hay gian dối, có sự tác động lẫn nhau giữa những người tham gia nhận dạng hay không?…
– Kiểm sát việc đặt câu hỏi của ĐTV và lời khai báo của người nhận dạng. nếu phát hiện ĐTV đặt câu hỏi mang tính chất gợi ý đối với người nhận dạng thì KSV phải yêu cầu ĐTV chấm dứt ngay hành vi đó.
– Kiểm sát việc lập biên bản nhận dạng có tuân thủ đúng quy định của pháp luật hay không? Có phản ánh đúng thực tế quá trình việc nhận dạng?
2. Kỹ năng kiểm sát qua biên bản nhận dạng
Trường hợp không kiểm sát trực tiếp việc nhận dạng thì KSV phải chú ý kiểm sát thời hạn ĐTV phải chuyển biên bản nhận dạng cho Viện kiểm sát để kiểm sát. theo quy định tại khoản 5 Điều 88 BLTTHS năm 2015 thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản nhận dạng mà KSV không trực tiếp kiểm sát, ĐTV có trách nhiệm chuyển biên bản này cho Viện kiểm sát để kiểm sát. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày.
Ngay sau khi nhận được biên bản nhận dạng mà ĐTV chuyển đến, KSV cần phải chú ý thực hiện những vấn đề sau:
– Đánh giá sự cần thiết tiến hành việc nhận dạng. trước khi tiến hành hoạt động này, ĐTV đã hỏi trước người nhận dạng về các tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được chưa? Nếu phát hiện ĐTV chưa hỏi hoặc việc hỏi tiến hành sau khi tổ chức việc nhận dạng thì phải yêu cầu ĐTV tiến hành lại hoạt động này theo đúng quy định của BLTTHS;
– Kiểm sát về hình thức của biên bản nhận dạng: Biên bản nhận dạng có được lập đúng mẫu quy định không? thẩm quyền lập biên bản?
– Kiểm sát về người tham gia việc nhận dạng:
Đối với người nhận dạng: Họ phải là người làm chứng, bị hại hoặc bị can; là người trực tiếp tri giác và họ còn nhớ rõ các vết tích, đặc điểm riêng biệt của đối tượng, đồng thời lưu ý đến các điều kiện như đã phân tích trên: là người trực tiếp tri giác của đối tượng trước đây; là người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình…Nếu người nhận dạng là người dưới 18 tuổi thì phải kiểm tra xem việc nhận dạng có sự tham gia của người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ hay không?
Người chứng kiến việc nhận dạng có thuộc các trường hợp không được làm người chứng kiến theo quy định tại Điều 67 BLTTHS 2015 hay không?
– Trong biên bản có thể hiện việc ĐTV kiểm tra sức khỏe của người tham gia việc nhận dạng; có thể hiện việc giải thích cho bị hại hoặc người làm chứng trách nhiệm về việc từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối khi họ là người nhận dạng…
– Kiểm sát nội dung của biên bản nhận dạng: Nghiên cứu nội dung câu hỏi mà ĐTV đặt ra cho người nhận dạng để xác định có việc ĐTV đặt câu hỏi gợi ý hay không? Nghiên cứu lời khai báo của những người tham gia việc nhận dạng, so sánh với các chứng cứ, tài liệu khác của vụ án…
– Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản nhận dạng do ĐTV chuyển đến, KSV đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng biên bản cho ĐTV.
Tóm lại, để hoạt động nhận dạng có kết quả tốt thì KSV cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, kiểm sát chặt chẽ, toàn diện, đầy đủ hoạt động này của ĐTV, kịp thời phát hiện các vi phạm, thiếu sót để yêu cầu khắc phục, sữa chữa.