1. Chuẩn bị tham gia và kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa
Vấn đề nhận thức, chuẩn bị và có mặt tại phiên tòa sơ thẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong kỹ năng hành nghề Luật sư, ảnh hưởng đến hiệu quả bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng. Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về sự có mặt của người bào chữa tại phiên tòa là bắt buộc, nhưng có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo, người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 dành hẳn mục V Chương XXI để quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa đồng thời coi đây là nội dung cốt lõi thể hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Về cơ bản, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn chưa quy định việc Chủ tọa phiên tòa là người trực tiếp điều hành việc hỏi, mà chỉ quy định trong quá trình xét hỏi, Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi (Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có những điểm mới trong quy định trình tự phát biểu khi tranh luận, yêu cầu Kiểm sát viên khi luận tội phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự cũng như những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa (Điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Về phần mình, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu, những lập luận để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ buộc tội, gỡ tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án, cũng như có quyền đưa ra đề nghị của mình đối với những vấn đề nêu trên.
Trên cơ sở đó, theo Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Kiểm sát viên phải đưa ra những chứng cứ, tài liệu và những lập luận của mình để đối đáp đến cùng với từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại và những người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến, tuy nhiên, chủ tọa có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và các ý kiến trùng lặp. Chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nếu những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và phải được thể hiện trong bản án.
Những điểm đổi mới nêu trên là cơ sở bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Tại phiên tòa, quá trình thẩm vấn của Luật sư là cách thể hiện hướng đi, dự báo về những vấn đề cần tranh luận. Đối với những Kiểm sát viên nhiều kinh nghiệm tranh tụng, họ đôi khi sẽ tạo ra những bài luận tội “mở”, chủ động để khoảng trống, sơ hở để Luật sư nhầm tưởng họ luận tội không đầy đủ, chứng cứ còn thiếu sót, v.v., để khi đến phần bào chữa của Luật sư, họ sẽ đưa ra những bằng chứng, lý lẽ sắc bén. Vì vậy, Luật sư cần hết sức chủ động trong việc rà soát những nội dung đã chuẩn bị và có những kỹ năng khi tham gia tranh tụng.
Trích: Sổ tay Luật sư Tập 2 – Tập 2 – Kỹ năng hành nghề luật sư trong tố tụng hình sự, hành chính, dân sự