Quyền được bảo vệ sức khỏe và tính mạng là nhóm quyền nhân thân quan trọng của mỗi cá nhân, không thể tách rời và chuyển giao cho người khác. Một khi tính mạng hay sức khỏe bị xâm phạm trái pháp luật thì người có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác sẽ phải bồi thường thiệt hại.
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 584 của Bộ luật dân sự (BLDS) thì: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) chỉ phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
Một là, phải có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn hại về tinh thần.
Thiệt hại về vật chất bao gồm: Thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm quy định tại Điều 590 của BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại Điều 591 của BLDS.
Thiệt hại do tổn hại về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe bị xâm phạm mà người bị hại, hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích, người gần gũi nhất của người bị hại phải gánh chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm.
Hai là, phải có hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là hành vi xử sự cụ thể của con người thực hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật.
Ba là, phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Bốn là, phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây ra thiệt hại
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây ra thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn nhưng vẫn để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy tra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
2. Một số vướng mắc về giải quyết bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
Thứ nhất, xác định mức bồi thường tổn thất tinh thần do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe.
Khi tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm thì thiệt hại tinh thần sẽ được xác định và người bị thiệt hại được một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Về nguyên tắc, mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu các bên không thỏa thuận được thì đối với trường hợp tính mạng bị xâm phạm thì mức bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoản 2 Điều 591 BLDS); đối với trường hợp sức khỏe bị xâm phạm thì mức bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoản 2 Điều 590 BLDS).
Trước hết chúng ta cần khẳng định khoản tiền “bù đắp tổn thất về tinh thần” không phải là đại lượng để xác định những thiệt hại về tinh thần mà người bị thiệt hại hoặc người thân thích của họ bị tổn thất. Bởi lẽ, những tổn thất về tinh thần không thể xác định được một cách chính xác hoặc tương đối chính xác như thiệt hại về vật chất; mức độ tổn thất về tinh thần nhiều hay ít không phụ thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm và cũng không phụ thuộc vào hình thức lỗi của người xâm phạm (cố ý hay vô ý), mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, con người của người bị thiệt hại hoặc người thân thích của nạn nhân.
Mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm cũng là vấn đề khó xác định, chúng ta không thể đưa ra các tiêu chí chung, đối tượng bị thiệt hại hoặc loại bị thiệt hại cho mọi trường hợp, mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định. Do đó, khi xác định mức độ tổn thất tinh thần, trên thực tế mỗi Thẩm phán, mỗi Tòa án đánh giá một khác nên dẫn đến tùy nghi khi áp dụng mức bồi thường tổn thất tinh thần; có Tòa án quyết định mức bồi thường về tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm thấp hơn cả tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm.
Ví dụ: Vụ Nguyễn Văn V phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” (Bản án của Tòa án N). Nguyễn Văn V là lái xe thuê của Công ty X; ngày 20/9/2018 trên đường chở hàng về công ty, xe ô tô do V điều khiển vượt đèn đỏ và va chạm với xe máy do anh Trần Vũ T điều khiển chở theo bà Vũ Thị C 88 tuổi. Hậu quả là anh T bị thương tích 5%, bà C chết. Tòa án N xét xử Nguyễn Văn V về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và buộc V phải bồi thường tổn thất tinh thần cho anh Trần Vũ T 01 tháng lương cơ sở, cho đại diện hợp pháp của bà C 40 tháng lương cơ sở.
Trong vụ án trên, hành vi vượt đèn đỏ của Nguyễn Văn V là nguyên nhân gây ra vụ tai nạn nhưng HĐXX buộc V phải bồi thường tổn thất tinh thần cho đại diện hợp pháp của bà C 40 tháng lương cơ sở theo tôi là nhẹ vì thấp hơn mức tối đa trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm.
Thứ hai, chi phí hợp lý cho việc mai táng
Việc xác định chi phí mai táng là một vấn đề không đơn giản vì ở mỗi địa phương, vùng miền trên đất nước đều có những phong tục, tập quán riêng. Đó được coi là một trong những nét đặc trưng riêng của từng địa phương và được Nhà nước tôn trọng. Vì vậy, việc xác định chi phí cho việc mai táng phải dựa trên những chi phí hợp lý và đảm bảo yếu tố phù hợp. Theo hướng dẫn của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì chi phí hợp lý cho việc mai táng được hiểu là những chi phí không thể thiếu trong một đám tang, thông thường bao gồm: tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi phí khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng theo thông lệ chung… không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí tế lễ, ăn uống, xây mộ, bốc mộ…
Tuy nhiên, việc chi phí mai táng dựa vào kê khai thực tế các khoản chi mua và giá mua của thân nhân người bị hại cũng rất khác nhau và ở các địa phương khác nhau cũng khác nhau. Vì nó mang tính đặc trưng riêng của từng địa phương, từng dân tộc nên việc áp dụng ở các Tòa án cũng chưa có sự thống nhất, mỗi Tòa lại hiểu, tính theo một cách khác nhau; cùng là tổng các khoản chi cho việc mai táng nhưng có Tòa chấp nhận, có Tòa lại không chấp nhận, đặc biệt là các khoản chi cho đám tang như: cơm cúng, kèn trống, phục vụ, mua đất chôn cất, quan tài hỏa táng, loại quách sau hỏa táng, tiền và số lượng xe thuê đưa tang, thuê trọn gói dịch vụ tổ chức tang lễ…
Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” (Bản án của Tòa án quân sự khu vực B): Trong phần bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận các khoản tiền chi phí ăn uống cho khách, cúng lễ 3 ngày là 18 triệu đồng, tiền thuê kèn đồng là 4 triệu đồng, bồi dưỡng các già cầu siêu và đưa tang theo truyền thống đạo Phật…; chỉ chấp nhận một phần các chi phí thực tế do gia đình bị hại kê khai chi như: Tiền thuê xe ô tô phục vụ tang lễ 8 triệu đồng, kèn trống 12 triệu, tiền mua đất chôn cất 30 triệu đồng (vì Tòa án cho rằng các chi phí đó quá cao so với vụ án khác xảy ra ở địa phương khác cũng do Tòa quân sự khu vực B đã xét xử).
Theo tôi việc Tòa án không chấp nhận các khoản ăn uống, cúng lễ, thuê kèn đồng (vì đã thuê kèn trống truyền thống) là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án chỉ chấp nhận một phần tiền thuê xe tang, kèn trống, mua đất là chi phí thực tế và giá cả phù hợp với giá thuê dịch vụ tại địa phương đó là không phù hợp với tinh thần của hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của HĐTP TANDTC. Vì “chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng người bị hại theo thông lệ chung… Do đó, theo chúng tôi Tòa án nên chấp nhận toàn bộ khoản chi phí này.
Thứ ba, xác định lỗi của bị hại trong vụ án mà bị hại cũng có lỗi
Đối với các vụ án hình sự, tình tiết “người bị hại cũng có lỗi” có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vấn đề bồi thường dân sự. Điều 585 BLDS quy định: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra”. Như vậy đối với các vụ án án mà bị hại cũng có lỗi cần phải xác định mức độ, tỷ lệ lỗi của bị hại để xác định mức bị cáo phải bồi thường tương ứng với tỷ lệ lỗi. Nhưng trên thực tế việc xác định mức độ lỗi, tỷ lệ lỗi của Thẩm phán trong nhiều vụ án chưa thật chính xác, còn tùy nghi trong việc vận dụng.
Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn N phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”
Khoảng 23 giờ ngày 13/7/ 2019, Nguyễn Văn N điều khiển xe ô tô khi đi qua ngã tư đã xảy ra va chạm với xe ô tô của Trần Văn V đi từ phía bên phải sang. Nguyên nhân của vụ án được xác định do N đã vượt đèn đỏ; V đã uống rượu bia trước đó và điều khiển xe với tốc độ cao khi đi qua ngã tư.
Trong vụ án này, quan điểm của VKS xác định lỗi của bị cáo N là 60 %, của bị hại V là 40% với lập luận cho rằng: Trước khi điều khiển xe bị hại đã uống quá nhiều rượu bia, điều khiển xe với tốc độ cao, trước khi vào ngã tư có biển báo nguy hiểm, khi đến khi đến ngã tư có tín hiệu đèn giao thông (đang là màu xanh theo chiều đi của V) nhưng V không giảm tốc độ và chú ý quan sát. Nguyên nhân vụ tai nạn có phần lớn trách nhiệm của bị hại.
Quan điểm của Tòa án xác định lỗi của bị cáo N là 80%, của bị hại V là 20% với lập luận cho rằng: Bị cáo điều khiển phương tiện đi vào ngã tư khi đèn tín hiệu giao thông đang là màu đỏ, không giảm tốc độ, không phát tín hiệu còi hoặc nháy đèn nên đã đâm vào ngang xe ô tô do V điều khiển, đây là nguyên nhân chính gây ra vụ tai nạn. Tuy nhiên, bị hại V cũng có một phần lỗi không quan sát, không chấp hành biển báo nguy hiểm, không giảm tốc độ.
Theo tôi, mặc dù pháp luật không có căn cứ định lượng để phân định người vi pham với mức độ và tỷ lệ lỗi là bao nhiêu phần trăm trong các vụ án mà chỉ dựa vào từng vụ án cụ thể để phân tích, đánh giá mức độ lỗi sao cho phù hợp của người tiến hành tố tụng. Đối với vụ án nêu trên cũng vậy, hành vi vượt đèn đỏ của bị cáo là nguyên nhân chính, trực tiếp trong việc gây ra vụ tai nạn giao thông, do đó xác định lỗi của bị cáo như Tòa án là phù hợp.
Thứ tư, xác định tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe
Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn giải quyết bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm thì chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ định của bác sĩ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; …Các khoản chi phí này dựa trên cơ sở hóa đơn chứng từ hợp lệ theo chỉ dẫn của bác sỹ hoặc yêu cầu của bệnh viện, cơ quan trực tiếp cứu chữa cho nạn nhân. Còn những trường hợp điều trị không theo sự hướng dẫn của bác sĩ, dùng thuốc để điều trị bệnh khác, nằm điều trị ở những phòng dịch vụ đắt tiền… thì chi phí này không được coi là “hợp lý”.
Thực tế, việc xác định tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ hiện nay pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể, việc vận dụng của Thẩm phán trong mỗi vụ án còn tùy nghi khi cho người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe.
Ví dụ 1: Vụ án Trần Văn P phạm tội “Cố ý gây thương tích”
Khoảng 20 giờ, ngày 28/ 5 /2017, Trần Văn P, Nguyễn Thành Q, Võ Kim H, Đặng Tấn T và Phan Hữu Ph đến nhà Nguyễn Trọng Th, ở khu phố B, phường P, thành phố T để ăn nhậu, do không thống nhất với nhau trong việc tính tiền nên P dùng tay phải cầm ly thủy tinh đang uống bia (loại có quai) đánh một cái vào mặt của Q gây thương tích. Q điều trị tại bệnh viện từ ngày 28 đến ngày 30 thì xuất viện. Theo kết luận giám định pháp y tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Thành Q là 12%.
HĐXX buộc bị cáo P phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc cấp cứu điều trị, tiền xét nghiệm, tiền thuốc; ngoài ra tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe từ ngày 28 đến ngày 30 tháng 5 năm 2017 và sau khi hết thời gian chữa trị là 30 ngày, tương ứng mỗi ngày 100.000 đồng là 3.600.000 đồng.
Ví dụ 2: Vụ án Trần Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”
Vào khoảng 12 giờ ngày 12/10/2019, Nguyễn Văn Q có tổ chức uống rượu tại nhà với Trần Văn Đ, trong lúc uống rượu thì Q có kể cho Đ biết gia đình bị mất một con chó và Q nghi ngờ Trần Văn N bắt trộm chó của mình, Q nói sẽ đi tìm N để hỏi rõ sự việc. Sau khi uống rượu xong, Đ đi ra đầu làng thì gặp N, Đ hỏi N “Mày có trộm chó của anh Q không?”, N trả lời “không”, thì cả hai dùng lời lẽ thô tục chửi nhau. Đ dùng đá ném vào đầu N gây thương tích 13%.
HĐXX buộc bị cáo Đ phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc cấp cứu điều trị, tiền xét nghiệm, tiền thuốc; ngoài ra tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 5 và sau khi hết thời gian chữa trị là 7 ngày, tương ứng mỗi ngày 80.000 đồng là 720.000 đồng.
Trong 2 ví dụ nêu trên, việc buộc các bị cáo phải bồi thường tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe là đúng pháp luật, tuy nhiên số tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe của hai vụ án lại chênh lệch khá nhiều. Ngoài ra, việc chấp nhận thời gian bồi dưỡng phục hồi sức khỏe của mỗi vụ án và mỗi loại thương tích cũng khác nhau và không thống nhất.
Thứ năm, xác định tiền cấp dưỡng
Khi có thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản như: Chi phí cấp cứu, điều trị; chi phí mai táng và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn chi tiết phần nghĩa vụ này như sau:
“2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.
a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng, tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường…
Tuy hướng dẫn là vậy nhưng việc áp dụng còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Cụ thể việc xác định như thế nào là “khoản tiền cấp dưỡng hợp lý” và “phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường” thì mỗi Thẩm phán lại có sự đánh giá khác nhau. Quy định và hướng dẫn thực hiện vấn đề cấp dưỡng hiện nay tạo ra sự nhận thức, áp dụng thực hiện không thống nhất giữa các Tòa án. Có HĐXX căn cứ vào hoàn cảnh gia đình, hay mức thu nhập bình quân trên một người tại địa phương để tính mức cấp dưỡng; có HĐXX lại căn cứ vào mức lương tối thiểu tại thời diểm giải quyết vụ án để tính mức cấp dưỡng hoặc căn cứ vào thu nhập của người lao động trung bình tại địa phương… nhiều vụ án bị kháng cáo do HĐXX buộc bị cáo phải bồi thường khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà bị hại có nghĩa vụ cấp dưỡng với số tiền quá cao, vượt quá khả năng chi trả của bị cáo; có vụ án thì xác định khoản tiền cấp dưỡng quá thấp, những người được hưởng khoản cấp dưỡng không đủ cho các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống.
Ví dụ: Vụ án Trần Huy Th phạm tội “Vô ý làm chết người”
Ngày 11/10/2019, Trần Huy Th dùng điện để diệt chuột trong ruộng của nhà mình. Ngày 13/10/2019, Nguyễn Phong H đi kích cá qua ruộng của Th thì bị điện giật chết. Trần Huy Th bị truy tố về tội vô ý làm chết người và bị xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo. Tòa án buộc Trần Huy Th phải bồi thường chi phí cấp cứu, chi phí mai táng và khoản tiền cấp dưỡng cho 2 người con của anh H là 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi; cấp dưỡng cho ông N, bà C là bố mẹ đẻ của anh H mỗi người 800.000 đồng cho đến khi ông N, bà C chết, tổng cộng Th phải cấp dưỡng là 3.600.000 đồng một tháng. Sau đó, anh Th đã kháng cáo bản án với lý do số tiền cấp dưỡng cho các cháu và ông N, bà C là quá cao, anh Th không có đủ khả năng chi trả vì anh làm ruộng thu nhập hàng tháng chỉ được khoảng 3.000.000 đồng, không có khoản thu nào khác.
3. Kiến nghị
Từ những vấn đề nêu trên, tôi cho rằng các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để phù hợp với BLDS hiện hành và giải quyết được các vướng mắc nêu trên theo hướng như sau:
Thứ nhất, cần quy định mức bồi thường tổn thất tinh thần cụ thể hơn
Đối với sức khỏe bị xâm phạm, mức bồi thường tổn thất tinh thần tối đa hiện nay là 50 tháng lương cơ sở. Tuy nhiên theo tôi mức này vẫn còn thấp khi đặt trong một số trường hợp cụ thể, ví dụ như: Bị hại bị thiệt hại sức khỏe tới 80%, 90% sức khỏe; bị hại là vận động viên bị thiệt hại sức khỏe và không thể hồi phục được như trước khi bị xâm phạm sức khỏe; diễn viên, ca sĩ bị xâm phạm sức khỏe dẫn đến không thể tiếp tục làm các công việc đó … Do đó kiến nghị cơ quan có thẩm quyền nâng mức bồi thường tổn thất tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm lên mức tối đa khoảng 100 tháng lương cơ sở.
Đối với tính mạng bị xâm phạm, mức bồi thường tổn thất tinh thần hiện nay là 100 tháng lương cơ sở. Theo tôi mức này vẫn còn thấp khi đặt trong một số trường hợp cụ thể, ví dụ như: bị hại là con duy nhất trong gia đình; bị hại là con trai duy nhất trong dòng họ; bị hại là người trẻ tuổi;… Hơn nữa, Khoản 4 Điều 27 của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 quy định: “Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết được xác định là 360 tháng lương cơ sở”, nếu so sánh với mức bồi thường về tổn thất tinh thần của BLDS tối đa là 100 tháng lương cơ sở thì mức bồi thường tổn thất tinh thần theo quy định của BLDS hiện nay là thấp. Do đó kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLDS theo hướng tăng mức bồi thường về tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm lên, khoảng 150 tháng lương cơ sở.
Mức tối thiểu đối với khoản tiền bồi thường tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm hiện nay chưa có quy định cụ thể. Tuy nhiên để phù hợp với mức bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm, theo tôi cần quy định mức bồi thường tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm trên mức tối đa của bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm
Thứ hai, hướng dẫn tính chi phí mai táng
Các khoản chi phí mai táng tuy đã được hướng dẫn trong Nghị quyết 03/2006/ NQ-HĐTP tuy nhiên qua thực tiễn xét xử còn bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục hướng dẫn về chi phí này theo hướng quy định cụ thể khoản chi phí nào được chấp nhận, chi phí nào không được chấp nhận và mức tiền tối đa đối với các chi phí đó, đặc biệt là các khoản như: tiền kèn trống, tiền cúng tế, tiền đất chôn. Cụ thể:
Với tiền kèn trống, hiện nay hầu hết các đám tang hiện nay đều có thuê kèn trống phục vụ, tuy nhiên mỗi nơi một khác, có gia đình tiền thuê kèn trống đến hàng chục triệu đồng, có gia đình thuê thêm cả kèn đồng (nhất là đám tang của người công giáo)…. Để thống nhất trong việc áp dụng, theo tôi nên quy định mức tối đa cho khoản tiền kèn trống này khoảng 8 triệu đồng trên một đám là phù hợp.
Về khoản tiền cúng tế, đây là khoản thực tế cho việc mai táng, tuy nhiên để thống nhất trong việc áp dụng cũng cần quy định mức tối đa, theo tôi pháp luật nên quy định khoảng 1,5 triệu đồng cho 3 mâm cơm thắp hương là phù hợp.
Tiền đất chôn cũng là khoản chi phí khá cao đối với các trường hợp thuê, mua đất chôn tại công viên nghĩa trang, hay mua đất chôn tại những khu vực có giá cao. Đây là khoản chi phí hợp lý cần được chấp nhận, tuy nhiên cũng cần quy định mức tối đa đối với khoản đất chôn này để làm cơ sở thống nhất áp dụng, theo tôi nên quy định mức tối đa khoảng 30 triệu đồng với trường hợp phải mua đất chôn, 10 triệu đồng với trường hợp thuê đất chôn.
Ngoài ra cần có quy định chi phí tối thiểu thuê xe đưa tang; dịch vụ chôn cất, dịch vụ tổ chức tang lễ, chi phí đối với hỏa táng…
Cần có quy định chấp nhận chi phí mai táng theo như mức chi phí mai táng trung bình của từng địa phương.
Thứ ba, hướng dẫn xác định tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại
Khoản tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại chỉ được quy định một cách chung chung trong Nghị quyết, do đó kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tiếp tục hướng dẫn nội dung này theo hướng quy định mức tối đa, tối thiểu và cách tính mức bồi thường cho phù hợp với tình trạng sức khỏe của người bị thiệt hại; từng loại thương tích và thời gian bồi dưỡng phục hồi sức khỏe.
Ngoài ra, đối với trường hợp sức khỏe bị xâm phạm, đề nghị cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn trong trường hợp nào thì bị hại phải có người chăm sóc khi điều trị, trường hợp nào không cần người chăm sóc; thời gian chăm sóc tối thiểu là bao nhiêu; chi phí cho người chăm sóc và số lần chi phí tàu xe đi lại cho người chăm sóc bị hại…
Thứ tư, cần có quy định nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người bị xâm hại sức khỏe nặng mà họ mất khả năng lạo động, không có thu nhập và thực tế trước khi bị xâm phạm họ đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Với những vướng mắc nêu trên, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần bổ sung điều 590 của BLDS về khoản tiền cấp dưỡng và nghiên cứu, ban hành văn bản hướng dẫn thay thế Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán; đồng thời bổ sung hướng dẫn những vấn đề bất cập nêu trên.
Giải quyết bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm là vấn đề quan trọng nhằm kịp thời bù đắp những thiệt hại cho bị hại hoặc người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bị hại do hành vi vi phạm pháp luật của người khác gây ra. Đây là chế định vừa có ý nghĩa về vấn đề lập pháp và ý nghĩa về xã hội, do đó cần có quy định chặt chẽ để đảm bảo cho việc áp dụng vào thực tiễn để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng mới được chính xác, khách quan và công bằng.
Nguồn: Tapchitoaan.vn