Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân với biểu hiện tập trung là xây dựng chế độ dân chủ, tôn trọng, đề cao quyền con người thông qua Hiến pháp và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người tiếp tục được vận dụng một cách sáng tạo, hiệu quả trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, qua đó góp phần xây dựng đất nước với phương châm dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đồng thời không ngừng bảo đảm, bảo vệ và thực thi quyền con người của Nhân dân Việt Nam.
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1. Con người là nguồn cội, người dân là chủ nhân của đất nước – nguyên lý ấy là nền tảng, là cái bất biến của mọi quốc gia, dân tộc. Thấm nhuần đạo lý ấy, trong cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đi tìm đường để giải phóng dân tộc và đấu tranh cho dân chủ. Những năm bôn ba tìm đường cứu nước, trải nghiệm cuộc sống cần lao tại nhiều quốc gia trên thế giới, Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, các nhà tư tưởng tiến bộ, tham gia các hoạt động chính trị, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, bảo vệ, bênh vực các dân tộc thuộc địa, đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ cơ bản cho dân An Nam.[1] Người đã tìm thấy ở Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (1789), Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) những quyền bất khả xâm phạm của con người không thể chối cãi – đây là những văn kiện quan trọng góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người.
Đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, các giá trị về dân chủ – pháp quyền nhân dân nói chung, quyền con người nói riêng của Người được hình thành rõ nét hơn. Đặc biệt, Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa đã giúp Người hiểu sâu sắc và rút ra chân lý quyền con người gắn với độc lập dân tộc hay nói cách khác, độc lập dân tộc là nền tảng của quyền con người. Với nhận thức ấy, trong suốt quá trình lãnh đạo đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân nguyện được Người đề cao và luôn gắn liền với nhiệm vụ dân tộc, dân chủ, chống đế quốc, chống phong kiến. Điều này được phản ánh thông qua các chính cương, sách lược của Đảng, tuyên ngôn, chính sách của Mặt trận Việt Minh, Nghị quyết của quốc dân Đại hội Tân Trào (1945), cũng như các cuộc đấu tranh đòi tự do ứng cử, bầu cử, tự do kinh doanh, đi lại, tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, tín ngưỡng, nghiệp đoàn… Đặc biệt, ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo được công bố trước quốc dân, đồng bào, ngay tại lời đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và rằng “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
2. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, quyền con người, quyền tự do dân chủ phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm, bảo vệ bằng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Theo quan điểm của Người “sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp luật”,“dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật”.[2] Tại cuộc họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người chỉ ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ ban hành Hiến pháp để bảo đảm quyền tự do dân chủ của Nhân dân; Người nhận định “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”[3];“tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trái gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống…”; “Quốc hội là cơ quan có quyền lực tối cao của Nhân dân sẽ cử ra một Chính phủ thực sự của toàn dân và ấn định cho nước Việt Nam một Hiến pháp dân chủ”.[4] Với tinh thần ấy, trong hoàn cảnh khó khăn muôn vàn vì giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đe dọa chính quyền cách mạng non trẻ, nhưng với sự tin tưởng tuyệt đối ở sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lòng yêu nước vô hạn của Nhân dân, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, tự do, trực tiếp và bầu kín đã được tổ chức chỉ trong vòng chưa đầy 5 tháng sau ngày Tuyên ngôn Độc lập khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với quan niệm “việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”[5] và “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”,[6] bản Hiến pháp do Người chủ trì soạn thảo dựa trên 3 trụ cột: đoàn kết toàn dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của Nhân dân đã được ban hành năm 1946. Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận“bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân” (Lời nói đầu) và“tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1).
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 và sau này là Hiến pháp năm 1959, mặc dù đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh, thù trong, giặc ngoài, phải tập trung giải quyết những nhiệm vụ cấp bách của đất nước, dân tộc, thực hiện quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường bảo đảm quyền con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng và ban hành nhiều đạo luật. Với tinh thần “Dân chủ phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm” và “luật pháp dân chủ phải ngày càng nhiều hơn, tốt hơn”, dưới chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đạo luật như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (năm 1959), Luật Tổ chức Quốc hội (năm 1960), Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ (năm 1960), Luật Tổ chức Toà án nhân dân (năm 1960), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (năm 1960)… được ban hành đã góp phần quan trọng trong việc hiện thực hóa các quyền về chính trị của Nhân dân, bảo đảm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, có quyền kiểm soát quyền lực nhà nước cũng như bảo đảm hoạt động của Nhà nước được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật… Bên cạnh đó, nhiều đạo luật khác điều chỉnh vấn đề quyền con người như Luật Bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân (năm 1957); Luật Quy định quyền lập hội (năm 1957); Luật Quy định quyền tự do hội họp (1957); Luật Công đoàn (năm 1957); Luật về Chế độ báo chí (năm 1957)… cũng đã được Người dành thời gian, công sức để chỉ đạo xây dựng, ban hành.
Trong quá trình chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, một vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là phải bảo đảm sự tham gia của các tầng lớp nhân dân. Điều này được thể hiện rõ nét trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Trong Diễn văn khai mạc phiên họp đầu tiên của Ban sửa đổi Hiến pháp (27/02/1957), Người yêu cầu: “Bản Hiến pháp của chúng ta sẽ thảo ra chẳng những phải tiêu biểu được các nguyện vọng của nhân dân miền Bắc, mà còn phải là một mục tiêu phấn đấu cho đồng bào miền Nam… Sau khi thảo xong, chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như thế bản Hiến pháp của chúng ta mới thật sự là bản Hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân chủ”.[7]
3. Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở các quyền tự nhiên vốn có, quyền sống, quyền tồn tại mà được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Thông qua Hiến pháp năm 1946, Người khẳng định tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá; bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền, được quyền bầu cử; được quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng và tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Trong lĩnh vực kinh tế, quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được ghi nhận; trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước. Trong lĩnh vực tư pháp, các quyền dùng tiếng nói; quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư bào chữa; quyền của bị cáo và phạm nhân không bị tra tấn, đánh đập, ngược đãi… cũng đã được đề cập và ghi nhận tại nhiều luật do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành. Chẳng hạn như: Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân khẳng định “Quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Không ai được xâm phạm các quyền ấy” (Điều 1); “Việc bắt, giam người phạm đến pháp luật Nhà nước, việc khám người, nhà ở, đồ vật, thư tín phải theo thủ tục” (Điều 2); quy định cụ thể trình tự, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam, khám người, khám đồ vật, khám thư tín, nhà ở; tuyệt đối nghiêm cấm tra tấn hoặc dùng bất cứ nhục hình nào đối với những người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam và hình phạt nếu vi phạm (Điều 14); những người bắt, giam, khám người, khám đồ vật, nhà ở, thư tín trái với đạo luật này thì tuỳ trường hợp có thể bị thi hành kỷ luật hành chính hoặc xử phạt từ mười lăm ngày đến ba năm tù, nếu phạm tội tra tấn, dùng nhục hình thì sẽ bị xử phạt thêm theo hình luật chung (Điều 16)…
Cùng với nhóm quyền về dân sự, chính trị, các nhóm quyền để hoàn thiện, phát triển bản thân cũng như quyền của các nhóm yếu thế trong xã hội cũng được quan tâm ghi nhận. Chẳng hạn như, trong mối quan hệ giữa nam và nữ, một trong những tư tưởng hết sức tiến bộ đó là việc ghi nhận đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Trong mối quan hệ giữa các dân tộc, ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để tiến kịp trình độ chung… quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Đối với các nhóm yếu thế, Hiến pháp năm 1946 cũng ghi nhận những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ; trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng; quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm.
Đồng thời, để bảo đảm quyền con người được thực thi trong thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm để đưa pháp luật vào đời sống, tạo cơ chế để bảo đảm pháp luật được thi hành. Người luôn trăn trở “làm sao cho Nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Người đề cao “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”, coi trọng việc giáo dục pháp luật cho toàn dân, khuyến khích Nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, khắc phục dân chủ hình thức.
II. THỰC TIỄN VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT: THÀNH TỰU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1. Trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước, tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm tư tưởng quyền con người được Đảng và Nhà nước ta xác định là hệ tư tương chính thống, là kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam và được chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng và tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo. Đặt con người vào vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính sách, hành động, Đảng khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa mà Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”. Điều này được thể hiện rõ tại các văn kiện trọng tâm của Đảng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991 và bổ sung, phát triển năm 2011), nghị quyết các Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ IX, X, XI, XII; các Chỉ thị của Bộ Chính trị cũng như các văn kiện khác của Đảng.
Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã thể hiện một bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về quyền lực nhân dân và cách thức Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình; đồng thời khẳng định: Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Trên cơ sở đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội XII xác định “tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, được Nhân dân tham gia ý kiến”, đồng thời đề ra nhiệm vụ “thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đặt ra những yêu cầu phải thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Theo đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân cần được thực hiện dưới một số góc độ: i) Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; ii) hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là toà án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; khắc phục việc xử lý oan, sai; khẩn trương ban hành Luật về bồi thường nhà nước; xây dựng các đạo luật về lập hội, biểu tình nhằm xác định rõ quyền, trách nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng; iii) hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đặt ra nhiệm vụ trọng tâm trong công tác cải cách tư pháp là hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
2. Trên cơ sở vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bám sát các chủ trương, quan điểm của Đảng về quyền con người qua các thời kỳ, nước ta đã đạt được thành tựu to lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người; hình thành và phát triển hệ thống pháp luật về quyền con người thống nhất, đồng bộ với hàng trăm đạo luật; chất lượng của các văn bản pháp luật ngày càng được cải thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm, bảo vệ, thực thi quyền con người trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 trên cơ sở kế thừa, phát triển các bản Hiến pháp trước đó tiếp tục đề cao việc thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước, phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong tình hình mới, tạo bước chuyển quan trọng trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về tư duy lập hiến, lập pháp theo hướng công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Những kết quả cụ thể được thể hiện ở các điểm sau đây:
Thứ nhất, trên cơ sở các giá trị về dân chủ – pháp quyền nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nuôi dưỡng từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên lập nên một chính thể dân chủ với bản Hiến pháp năm 1946 lịch sử, trải qua bao nhiêu thử thách cam go của chiến tranh và hậu chiến tranh, của 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội Đảng XI đã bổ sung, phát triển quan điểm: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[8]. Điều đó có nghĩa là tất cả quyền lực nhà nước, quyền lực của hệ thống chính trị trong đó có quyền lực của Đảng- nhân tố lãnh đạo hệ thống chính trị, đều bắt nguồn từ quyền lực Nhân dân, đều là quyền lực do Nhân dân giao phó để thực hiện dân chủ, vì lợi ích của Nhân dân. Thể chế hóa quan điểm đó, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân (Điều 2).
Cùng với việc hiến định nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước với đủ 3 yếu tố phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên kể từ sau Hiến pháp năm 1946, đã xác định (phân công) rành mạch: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; và cũng lần đầu tiên khẳng định sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án – cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, đó là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân…” (Điều 102). Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức bộ máy như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương… đã được ban hành trên tinh thần đổi mới cơ chế hoạt động, phân công, phối hợp và kiểm soát trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, đồng thời tăng cường phân cấp, phân quyền, ủy quyền rành mạch, rõ ràng hơn nhằm hướng tới xây dựng một bộ máy nhà nước gọn về tổ chức và hiệu quả trong hoạt động, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Thứ hai, với quan điểm các quyền con người, quyền cơ bản của công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp, pháp luật, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định “quyền con người, quyền cơ bản của công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Quy định này của Hiến pháp nhằm khắc phục tình trạng hạn chế quyền con người bằng các văn bản dưới luật, đồng thời tạo cơ chế xem xét thận trọng các chính sách có khả năng ảnh hưởng đến quyền, tự do của con người; các chính sách này phải do Quốc hội quyết định. Hiến pháp cũng phân biệt rõ quyền con người và quyền công dân; làm sâu sắc hơn những quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây; mở rộng, phát triển bổ sung các quyền khác, nhất là các nhóm quyền dân sự, chính trị được bổ sung, phát triển sâu rộng, phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế. Cụ thể:
– Các quyền con người, quyền công dân thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị như quyền ứng cử, bầu cử; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân… đã được quan tâm cụ thể hóa thông qua việc ban hành mới Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Trưng cầu ý dân. Luật Tiếp cận thông tin, Luật Báo chí, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng đã được ban hành để bảo đảm hệ thống pháp luật về các quyền con người, quyền công dân ngày càng hoàn thiện, đủ cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện và bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
– Các quyền con người, quyền công dân trong nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội đã được cụ thể hóa trong các đạo luật thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Hộ tịch, Luật Căn cước công dân, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình… đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung kịp thời để bảo đảm ghi nhận và quy định cụ thể cơ chế tổ chức thực hiện, bảo vệ tốt hơn nữa các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, lao động, hôn nhân, gia đình. Trong đó, phải kể tới các quyền về nhân thân, quyền tài sản, quyền về an sinh xã hội, quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế; quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó; quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa.
– Đối với nhóm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, quyền bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc suy đoán vô tội… cũng đã được cụ thể hóa trong các đạo luật quan trọng như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi hành án hình sự… Đặc biệt, việc ban hành Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự đã giúp cho Nhà nước và nhân dân ta có thêm công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong phòng, chống tội phạm, thể hiện tính nhân đạo, hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời đề cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới, góp phần bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
– Đối với nhóm thuộc đối tượng yếu thế, việc bảo đảm thực hiện tốt quyền của các đối tượng này cũng được quan tâm. Nhiều đạo luật mới được ban hành như Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Phòng, chống nhiễm vi-rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, Luật Bình đẳng giới…
– Trong quá trình soạn thảo, ban hành các luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật, các nguyên tắc về hạn chế quyền con người, quyền công dân đã được quán triệt đầy đủ để bảo đảm việc hạn chế quyền chỉ trong các trường hợp đã được Hiến pháp quy định và chỉ bằng luật. Các cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng được quy định cụ thể trong các đạo luật thông qua việc trực tiếp quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân khác có liên quan; quy định việc tăng cường trách nhiệm, bảo đảm sự đúng đắn, nghiêm minh, công bằng trong các hoạt động của cơ quan nhà nước thông qua việc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật của mọi chủ thể; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi vi phạm để xảy ra thiệt hại cho công dân; có cơ chế bảo đảm quyền khiếu nại, khởi kiện, tố cáo nhằm bảo vệ các quyền con người nói chung. Nhiều đạo luật quy định khá cụ thể, toàn diện các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, nhất là các đạo luật có nhiệm vụ cụ thể hóa trực tiếp các quyền mà Hiến pháp giao, hạn chế tối đa các điều khoản ủy quyền quy định chi tiết thi hành luật.[9]
Bên cạnh đó, kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm dân chủ trong công tác xây dựng pháp luật, pháp luật về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được hoàn thiện theo hướng mở rộng dân chủ, tăng cường công khai hóa trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã bổ sung quy định tạo cơ chế thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc nghiên cứu, đề xuất và phản biện chính sách pháp luật và các công đoạn trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời tiếp tục quy định các cơ quan có thẩm quyền phải bảo đảm sự phù hợp của dự thảo văn bản với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ với hệ thống pháp luật cũng như phù hợp với các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó bao gồm các chủ trương, chính sách, pháp luật và điều ước quốc tế về quyền con người. Những cải cách về quy trình xây dựng pháp luật như đã nêu trên cũng đã góp phần thực hiện quyền tham gia hoạch định chính sách, pháp luật của người dân; đồng thời, tăng cường chất lượng của văn bản được ban hành, bảo đảm khả thi, hợp hiến, hợp pháp, phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Thứ ba, cùng với những nỗ lực trong việc hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật quốc gia về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, trong 75 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền, đặc biệt việc tham gia thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người. Cho đến nay, Việt Nam đã là thành viên của 7/9 Công ước cơ bản của Liên Hợp quốc[10] và nhiều điều ước quốc tế khác về quyền con người.[11] Việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về nhân quyền thể hiện quyết tâm, nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo đảm các chuẩn mực chung về quyền con người cho người dân Việt Nam, mặc dù điều kiện về phát triển kinh tế của Việt Nam còn hạn chế so với nhiều nước trên thế giới.
Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương từng bước chuyển hướng chiến lược từ tập trung xây dựng pháp luật sang hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác thi hành pháp luật, Quốc hội, Chính phủ cũng đã xây dựng, ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 32/2020/NĐ-CP ngày 05/03/2020); sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo… Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã và sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật đi vào cuộc sống, bảo đảm việc áp dụng pháp luật nói chung, pháp luật về quyền con người nói riêng của các cấp từ trung ương đến địa phương được thống nhất, công khai, minh bạch; bảo đảm các hành vi vi phạm pháp luật về quyền con người được phát hiện và xử lý kịp thời, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Qua công tác theo dõi thi hành pháp luật cũng cho thấy, trình độ pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao, người dân ngày càng hiểu rõ các quyền của bản thân cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Nhà nước, xã hội, cộng đồng. Vai trò của pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật ngày càng được đề cao.
3. Hơn 30 năm đổi mới, 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW, 7 năm triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều thách thức, tồn tại cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người phù hợp với tình hình mới, trong đó nổi lên là:
– Tại Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới nêu rõ chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa cao; tri thức kinh điển chưa được coi trọng đúng mức; chậm được nghiên cứu, nhận thức một cách đầy đủ; chậm được bổ sung, phát triển để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Điều này đặt ra yêu cầu nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, về quyền con người trong hoạt động xây dựng pháp luật nói riêng để “cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…”.
– Trong công tác xây dựng pháp luật, một số quyền con người trong một số lĩnh vực đã được quy định tại Hiến pháp năm 2013 nhưng chưa có luật để điều chỉnh như quyền biểu tình, quyền lập hội… Các quy định về quyền của các đối tượng yếu thế, đặc biệt là trong lĩnh vực tư pháp (như quyền của người chưa thành niên vi phạm pháp luật; quyền của phụ nữ, trẻ em là nạn nhân của bạo lực…) chưa đầy đủ. Các quy định làm cơ sở pháp lý cho việc hạn chế quyền con người trong một số trường hợp khẩn cấp như tình hình dịch bệnh Covid-19 vừa qua cũng chưa thực sự bảo đảm. Tính khả thi của một số văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người chưa cao; một số vi phạm pháp luật về quyền con người chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý.
– Công tác tổ chức thi hành pháp luật còn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chưa đủ mạnh và đồng bộ để thực thi hiệu quả quyền con người trong tất cả các lĩnh vực. Ý thức thượng tôn pháp luật nói chung, nhận thức pháp luật về bảo vệ, bảo đảm quyền con người của một bộ phận trong xã hội còn chưa cao; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người cho nhân dân còn hạn chế, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa. Các hành vi vi phạm pháp luật, trong đó hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác còn chiếm tỉ lệ cao. Đặc biệt, trước sự phát triển của khoa học công nghệ, nhiều hành vi vi phạm nhân quyền như đánh cắp thông tin, định danh cá nhân, xâm phạm bí mật đời tư, trộm cắp tài sản, xâm hại tình dục, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ… xảy ra trên môi trường mạng có chiều hướng gia tăng, đặt ra những thách thức, yêu cầu mới và đòi hỏi phải có tư duy tiếp cận mới đối với công tác xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người trên môi trường mạng.
III. ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Trong những năm tới, bối cảnh quốc tế, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại, thách thức; chủ nghĩa bảo hộ, cực đoan, khủng bố, tình hình thiên tai, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia… đang đe dọa hòa bình, an ninh, sự phồn vinh và phát triển, ảnh hưởng tới việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của các quốc gia trên toàn thế giới; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo cả cơ hội và thách thức cho mọi quốc gia, trong đó có vấn đề về bảo đảm, bảo vệ các quyền con người trên không gian mạng. Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực của đất nước, sức mạnh dân tộc, uy tín quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao, tạo điều kiện quan trọng để xây dựng đất nước, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của nhân dân Việt Nam; tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, những tác động tiêu cực của tình hình thế giới và khu vực, của biến đổi khí hậu, dịch bệnh, công nghệ số… đặt ra những thách thức cho Đảng và Nhà nước ta trong việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo vệ, bảo đảm quyền con người.
Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 về công tác nhân quyền trong tình hình mới đặt ra yêu cầu các cấp, các ngành phải thực hiện tốt nhiệm vụ: tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, cải cách hành chính; mở rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở; bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn thương.
Bên cạnh đó, dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIII xác định định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là “xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn vì Nhân dân phục vụ”, “quan tâm đến người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân”. Đồng thời, dự thảo Báo cáo cũng đặt ra các nhiệm vụ trong giai đoạn tới là “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; nghiên cứu xây dựng và tổ chức có hiệu quả chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn mới; không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp theo hướng xây dựng nền tư pháp dân chủ, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,… bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân…”; “tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”, “thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
2. Bám sát chủ trương của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới như đã nêu trên, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền con người cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
– Tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người để cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực này, trong đó cần tập trung các nội dung về sức mạnh của Nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân…
– Tiếp tục thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân đã được đề ra trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013 nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người ổn định, đồng bộ, thống nhất, có sự gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện các chỉ đạo, chủ trương của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với cải cách lập pháp; cải cách tư pháp, cải cách hành chính; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ trương tinh gọn bộ máy nhà nước theo hướng hiệu lực, hiệu quả và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân.
Nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật về Hội, Luật Biểu tình, Luật Dân chủ ở cơ sở… nhằm tạo cơ sở pháp lý để người dân thực hiện các quyền đã được Hiến pháp ghi nhận; tiếp tục hoàn thiện thể chế về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, các chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người trong hoạt động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là đối với các đối tượng yếu thế như phụ nữ, người chưa thành niên. Nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện pháp luật nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người trên môi trường mạng, trong tình trạng khẩn cấp…
Trên cơ sở rà soát các khuyến nghị của Ủy ban nhân quyền và các điều ước quốc tế về quyền con người để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp, tương thích, bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên.
– Tăng cường hiệu quả công tác tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật nói chung, pháp luật về quyền con người nói riêng. Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật làm công cụ phục vụ nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật về quyền con người. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thi hành pháp luật, tăng cường phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về quyền con người; tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử và của các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, truyền thông và của nhân dân trong hoạt động thực thi pháp luật về quyền con người./.
[1] Năm 1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã gửi “Bản yêu sách của dân An Nam” tới Hội nghị Véc xây yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả một số quyền tự do dân chủ tối thiểu và cơ bản cho dân Việt Nam cũng như các dân tộc thuộc địa, trong đó có quyền tự do báo chí và ngôn luận, tự do lập hội và hội họp, tự do cư trú, tự do học tập…
[2] Hồ Chí Minh, toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1985, tập 5, tr. 299, 393, 418.
[3] Hồ Chí Minh, toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 1995, tập 4, trang 8.
[4] Hồ Chí Minh, toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 1995, tập 4, trang 8.
[5] Thư Hồ Chủ tịch “Gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, Báo Cứu quốc số 69 ngày 17/10/1945.
[6] Tác phẩm Việt Nam yêu cầu ca (1922).
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2011, tr. 510-511. Cũng xem: Báo Nhân dân, số 1089, ngày 01/3/1957.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 85.
[9] Ví dụ như các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân được quy định trong Luật Tiếp cận thông tin (Điều 33)…
[10] Công ước về các quyền dân sự và chính trị (1966); Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1979); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (1969); Công ước về quyền trẻ em (1989) và hai nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm; Công ước về quyền của người khuyết tật (2006); Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người…
[11] Công ước Giơ-ne-vơ về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế; Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng (1948); Công ước quốc tế về ngăn chặn và trừng trị tội ác A-pác-thai (1973); Công ước quốc tế về không áp dụng những hạn chế luật pháp đối với các tội phạm chiến tranh và tội ác chống nhân loại (1968); Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (2000); Công ước về tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia vào lao động công nghiệp; Công ước về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ; Công ước về không phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; Công ước về chống lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc; Công ước về chính sách việc làm; Công ước về lao động hàng hải;…
Nguồn: moj.gov.vn/