Tuyển tập đề thi Thẩm phán (bài thi viết có đáp án tham khảo) – Phần Hành chính

TUYỂN TẬP ĐỀ THI THẨM PHÁN (VIẾT CÓ ĐÁP ÁN THAM KHẢO)PHẦN HÀNH CHÍNH

Xem thêm: 

 

Tình huống 1

(Trích đề thi Thẩm phán trung cấp đợt 1 năm 2020 ngày 24/10/2020)

Vợ chồng cụ Mai Thành D và cụ Vố Thị H Trú tại: Thôn TH, xã TA, huyện ĐP, tỉnh GL có 09 người con gồm: Bà Mai Thị B (chết năm 1970), bà Mai Thị X, bà Mai Thị Đ, bà Mai Thị M, ông Mai Kỳ L, ông Mai Kỳ N (chết năm 2003), bà Mai Thị U, bà Mai Thị Y và ông Mai Kỳ C.

Năm 1968, cụ D và cụ H có nhận chuyển nhượng của ông Phạm Mạnh Th một số thửa đất với tổng diện tích khoảng 05 hécta tại xã T, tỉnh BĐ (cũ). Năm 1972, hai cụ được Nhà nước Việt nam Cộng hòa Chứng thư quyền sở hữu và Chứng khoán quyền sở hữu chủ. Trong tổng diện tích được cấp Chứng thư và Chứng khoán trên có một thửa đất hiện nay là thửa 197, tờ bản đồ số 05, diện tích 937m2 tại thôn TH, xã TA, huyện ĐP, tỉnh GL (sau đây gọi tắt là thửa 197). Năm 1978, Hợp tác xã TA đã lấy thửa đất 197 vào phục vụ cho kinh tế của HTX. Năm 1988, cụ Mai Thành D chết. Năm 1989, HTX đưa thửa đất này ra đấu giá cho người khác. Cụ Võ Thị H không đồng ý nên đã khiếu nại đòi lại đất, năm 2010 Nhà nước đã đồng ý trả lại thửa đất nêu trên cho cụ H.

Ngày 15/11/2010, UBND huyện ĐP đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi tắt là GCNQSDĐ) số BC 026040 đối với thửa 197 cho hộ cụ Võ Thị H.

Ngày 10/01/2013, ƯBND huyện ĐP ban hành Quyết định số 07/QĐ-UBND thu hồi và hủy bỏ GCNQSDĐ đã cấp cho cụ H với lý do cấp sai đối tượng để cấp lại GCNQSDĐ mang tên bà Mai Thị Đ.

Ngày 16/7/2013, UBND huyện ĐP đã cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 424060 cho bà Mai Thị Đ.

Ngày 12/01/2014, cụ H chết không để lại di chúc. Ông Mai Kỳ L và những người thừa kế của cụ D, cụ H tiếp tục khiếu nại.

Ngày 31/10/2014, UBND huyện ĐP có Công văn số 775/UBND-NC trả lời đơn khiếu nại của gia đình ông Mai Kỳ L đối với Quyết định số 07/QĐ-UBND của UBND huyện ĐP với nội dung: Việc khiếu nại của ông Mai Kỳ L cùng những người trong gia đình ông L đã hết thời hiệu khiếu nại (đã hơn 01 năm) nên UBND huyện không xem xét, giải quyết.

Ngày 15/8/2016, ông L khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định 07/QĐ-UBND của UBND huyện ĐP; thu hồi và hủy GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 424060 do UBND huyện ĐP cấp ngày 16/7/2013 cho bà Mai Thị Đ.

Quá trĩnh giải quyết vụ án đã xác định: Năm 1989, HTX đưa thửa đất 197 này ra bán đấu giá cho người khác, cụ Võ Thị H không đồng ý nên đã đi khiếu nại đòi đất. Do tuối cao nên cụ H đã ủy quyền lại cho con gái là bà Mai Thị Đ thay mẹ đi khiếu nại. Khi còn sống, không đồng ý với Quyết định 07/QĐ-UBND của ƯBND huyện cụ H đã làm đơn khiếu nại đến UBND huyện ĐP và ƯBND tỉnh GL. Phía Bà Mai Thị Đ trình bày được bố, mẹ viết giấy cho thửa đất 197 và xuất trình cho Tòa án (giấy cho đất do cụ D lập năm 1981, Giấy cho đất do cụ H lập năm 2010; đều là giấy viết tay, không có công chứng, chứng thực). Ngày 14/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh GL đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Mai Kỳ L. Không đồng ý với bản án sơ thẩm, bà Mai Thị Đ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Câu hỏi:

Câu 1. Anh (chị) hãy xác định đối tượng khởi kiện theo yêu cầu của ông L và tư cách tham gia tố tụng trong vụ án trên? (1,0 điểm)

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

Câu 2: Anh (chị) hãy nêu hướng giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm? (1,0 điểm)

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

 

Tình huống 2

(Trích đề thi Thẩm phán sơ cấp đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)

Cụ Nguyễn Thị C (có chồng là cụ Nguyễn Mậu U là liệt sĩ chống Pháp) có diện tích 525,5m2 đất của thửa số 20, Tờ bản đồ số 28 tại Phố Keo, thôn Gia Tự, xã K, huyện G, thành phố H. Cụ Nguyễn Thị C và cụ Nguyễn Mậu U sinh được hai người con gái là bà Nguyễn Thị L và bà Nguyễn Thị D.

Ngày 15/12/1997, cụ C đã họp họ nội tộc để lập biên bản giao quyền thừa kế tài sản cho các con, cụ thể: cụ C cho bà L 200m2 đất, bà D 180m2 đất, còn lại 145,5m2 đất cụ C để dưỡng già. Năm 1997, bà L chuyển khẩu về ở với cụ C và đóng thuế đất từ năm 1997. Năm 1998, bà L xây nhà kiên cố trên đất gồm 0.2 gian nhà 01 tầng; 02 gian nhà 02 tầng và 01 gian nhà cấp 4 lợp proximang. Năm 2003, giữa cụ C và bà L mầu thuẫn, cụ C khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện G yêu cầu bà L trả lại nhà đất cho cụ. Tại Bản án dân sự phúc thầm số 247/DSPT ngày 19 – 22/11/2004, Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu đòi lại quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của cụ C đối với bà L; Hủy biên bản giao quyền thừa kế tài sản ngày 15/12/1997 của cụ C cho bà L 200m2 đất; Hủy biên bản giao thừa kế 04 gian nhà trên 145m2 đất của cụ C cho bà L; bà L được chia: 01 gian nhà tầng 2 diện tích 24m2 và 1 phần tầng 1 duới tầng 2, tổng diện tích nhà và sân là 53,3m2; Bà L được sở hữu bể nước tầng 2 và giếng khơi cũ.

Ngày 29/5/2007, Ủy ban nhân dân huyện G cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 038601 cho cụ Nguyễn Thị C, với tổng diện tích là 471,7m2 đất (sử dụng riêng là 407,5m2, sử dụng chung là 64,2m2). Sau đó, cụ C đã chuyển nhượng toàn bộ nhà đất nêu trên cho ông Nguyễn Đức M, bà Trần Bích H. Tại mục “Những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 038601, thể hiện: Ngày 30/5/2008, ông M, bà H nhận chuyển nhượng theo “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày 04/3/2008 tại Phòng công chứng số 2 thành phố H.

Theo bà L trình bày: Sau khi biết cụ C được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã chuyển nhượng toàn bộ nhà đất cho ông M và bà H, bà đã nhiều lần gửi đơn đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện G, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện G và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã K đề nghị hủy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cụ C và đề nghị tạm dừng việc mua bán đất của cụ C, với lý do: Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ C bao gồm cả diện tích đất và tài sản của bà.

Ngày 13/10/2008, 29/01/2010 và 25/5/2010, Ủy ban nhân dân huyện G có Văn bản số 204/UBND-TNMT, Văn bản số 69/UBND-LĐTBXH và Văn bản số 396/UBND-VP, thể hiện: Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ C là đúng quy định của pháp luật, đúng thẩm quyền, bà L không có quyền kiến nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và mua bán đất của cụ C.

Sau đó, bà L có đơn tố cáo Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện G đã cố tình làm trái với quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ C và làm thủ tục cho cụ C chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông M, bà H, trọng khi bà L đã có đơn đề nghị xem xét lại việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ C và đề nghị tạm dừng việc chuyến nhượng đất của cụ C cho ông M bà H, Ngày 30/11/2016, Ủy bạn nhân dân thành phố H ban hành Kết luận số 62/KL-UBND, thể hiện: Nội dung công dân tố cáo là đúng. Tuy nhiên, khi tiến hành bàn giao mốc giới các cơ quan chức năng không tiền hành xây tường phân định ranh giới. Mặt khác, tại diện tích đt bà C được Tòa án quyết định quyền sở hữu, quyền sử dụng có giếng nước cũ và bể nước của bà Nguyễn Thị L là con gái của bà Nguyễn Thị C (đây là tài sản thuộc sở hữu của bà L do Tòa án quyết định).

Ngày 17/01/2017, bà L có đơn khởi kiện vụ. án đề nghị hủy Giấy chứng nhận qụỵền sử dụng đất số AI 038601 ngày 29/5/2007 của Ủy ban nhân dân huyện G đã cấp cho cụ C.

Câu hỏi:

Câu 1: Theo anh, chị, với yêu cầu khởi kiện của bà L thì thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết chưa? Căn cứ pháp lý? (1,5 điểm)

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

Câu 2: Anh chị. hãy xác định tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết vụ việc trên? Tại sao? (1 điểm)

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

Xem thêm:

 

Tình huống 3

(Trích đề thi Thẩm phán trung cấp đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)

Theo đơn khởi kiện ngày 22/4/2015 và đơn bổ sung ngày 02/6/2015, ông Lê K, trú tại Phường L, thành phố Q, tnh N trình bày:

Năm 1975, ông Nguyễn K mua của bà Lâm Thị A nhà gắn liền với quyền sử dụng đất diện tích 80 m2 tại phường L, thành phố Q, tỉnh N với giá 800.000 đồng, hai bên có lập giấy viết tay những không xin xác nhận của chính quyền địa phương.

Sau khi mua, gia đình ông Nguyễn K quản lý, sử dụng đến năm 1977.

Năm 1978, gia đình ông Nguyễn K mua diện tích đất ở phía Đông đường QT và dỡ vật liệu ngôi nhà đã mua của bà Lâm Thị A để xây dựng ngôi nhà mới, đất nền nhà cũ thì trồng chuối.

Tháng 2/1986, Ông Nguyễn K vi phạm pháp luật, đi tập trung cải tạo đến tháng 4/1987 trở về thì diện tích đất này Nhà nước đã quản lý.

Năm 2007, ông Nguyễn K có đơn xin đòi lại QSD đất thửa số 64, diện tích 51,7 m2 đã mua của bà Lâm Thị A như đã nêu trên. UBND thành phố Q ban hành Quyết định số 587/QĐ-UBND ngày 16/4/2009 không chấp nhận việc đòi lại QSD đất của ông Nguyễn K vì diện tích đất thuộc Khu tập thể giao cho bà Lâm Thị A là công nhân ở. Bà Lâm Thị A tạo lập nơi ở khác nên chính quyền đã quản lý đất từ năm 1978.

Ông Nguyễn K tiếp tục khiếu nại. Chủ tịch UBND tỉnh N có văn bản số 1928/UBND-NC ngày 15/7/2009 trả lời có nội dung: Ông Nguyễn K chỉ căn cứ vào Giấy xác nhận của bà Lâm Thị A vào năm 2007 để khiếu nại đòi QSD 51,7 m2 đất mà phường L đã quản lý xây dựng 3 ki ốt đưa vào sử dụng cho mục đích lợi ích công cộng của phường từ năm 1989 là không có cơ sở.

Ngày 09/10/2010, ông Nguyễn K tự ý tháo dỡ cửa ván, lưới 1340 và đưa một số vật dụng cá nhân vào chiếm dụng ki ốt do UBND phường L quản lý. UBND phường L đã lập biên bản sự việc.

Ngày 18/12/2010, UBND phường L tổ chức họp và yêu cầu ông Nguyễn K thu dọn các đồ đạc, giao trả lại các ki ốt cho UBND phường quản lý nhưng ông Nguyễn K không chấp hành. Đội quản lý trật tự đô thị thành phố Q lập biên bản vi phạm hành chính số 02/BBVPHC ngày 30/12/2011 đối với ông Nguyễn K vì các hành vi đập phá, tháo dỡ ván gỗ, lưới B40, đưa đồ đạc vào chiếm dụng đất và ki ốt thuộc UBND phường quản lý. Ngày 09/01/2012, Chủ tịch UBND thành phố Q ban hành Quyết đinh số 01/QĐ-VPVPHC xác định ông Nguyễn K do đã có hành vi tự ý đập phá, tháo dỡ ván gỗ để chiếm dụng nhà do UBND phường L quản lý; buộc ông Nguyễn K trả lại nhà đã chiếm dụng và khôi phục lại tình trạng ban đầu. Ông Nguyễn K có đơn khiếu nại. Chủ tịch UBND thành phố Q ban hành Quyết định số 6357/QĐ-UBND ngày 26/10/2012 giải quyết với nội dung: Công nhân nội dung “Yêu cầu hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-VPVPHC ngày 09/01/2012 của Chủ tịch UBND thành ph Q” của ông K vì Quyết định này có sai sót. Ngày 28/12/2012, Chủ tịch UBND thành phố Q ban hành Quyết định số 39/QĐ-HQĐXP hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn K.

Ngày 11/7/2014, UBND phường L lập lại Biên bản vi phạm hành chính số 12/BB-VPHC đối với ông Nguyễn K. Trên cơ sở đó, UBND phường L đã ban hành Quyết định số 155/QĐ-KPHQ ngày 18/7/2014 áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp không ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, có nội dung: Ông Nguyễn K phải thực hiện khắc phục hậu quả di chuyển tất cả tài sản và phương tiện sinh hoạt ra khỏi nhà đọc sách đã chiếm giữ và khôi phục lại hiện trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi vi phạm hành chính gây ra.

Ông Nguyễn K khởi kiện yêu cầu hủy Biên bản vi phạm hành chính số 12/BB-VPHC ngày 11/7/2014, hủy Quyết định số 155/QĐ-KPHQ 18/7/2014 của UBND phường L và yêu cầu bồi thường thiệt hại 50 triệu đồng do tài sản bị chiếm dụng nhiều năm vì cho rằng có quyền sở hữu nhà đất và đã hết thời hiệu xử lý hành chính.

Câu hỏi:

Câu 1: Anh. (chị) hãy xác định Đối tượng khởi kiện và tư cách đương sự trong vụ án?’ (0,5 điểm)

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

Câu 2: Việc Chủ tịch UBND phường L không ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng hay sai? Vì sao? (0,5 điểm)

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

Câu 3: Anh (chị) phân tích về quan điểm của các đương sự trong vụ án? (1,0 điểm)

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

 

Tình huống 4

(Trích đề thi Thẩm phán cao cấp đợt 1 năm 2022 ngày 19/01/2022)

Thửa đất số 12, tờ bản đồ số 1 có diện tích 780 m2 của Hộ gia đình ông Dương P. sử dụng có nguồn gốc ông cha để lại nhưng không giấy tờ theo quy định của pháp luật. Thực hiện dự án xây dựng đường dân sinh theo Quyết định số 10/QĐ-UBND ngày 04-8-2012 của UBND tỉnh L nên UBND huyện B đã ban hành Quyết định số 170/QĐ-UBND ngày 05-02-2015 thu hồi toàn bộ thửa đất nêu trên, trong đó xác định có 300 m2 đất ở theo hạn mức quy định của địa phương và 480 m2 còn lại là đất nông nghiệp (vườn).

Ông Dương P không thắc mắc về số lượng diện tích đất và tài sản trên đất bị thu hồi. Ông Dương P chỉ không đồng ý với việc UBND huyên B xác định 480 m2 trong tổng số 780 m2 của thửa đất số 12 nêu trên là đất nông nghiệp (vườn). Theo ông Dương P toàn bộ thửa đất do ông cha để lại đều phải được xác định là đất ở.

UBND huyện B đã phối hợp với UBND xã MK thông báo nhiều lần nhưng Hộ gia đình ông Dương P không đến nhận tiền bồi thường, hỗ trợ; không gắp thăm vị trí tái định cư và không tự nguyện bàn giao mặt bằng. Do đó, UBND huyện B đã ra Quyết định số 726/QĐ-UBND ngày 12-8-2015 áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Dương P do có hành vi không trả lại đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi của cơ quan có thẩm quyền. Ông Dương P khiếu nại nhưng không được giải quyết.

Sau đó, UBND huyện B ra Quyết định số 550/QĐ-UBND ngày 18-10-2016 về việc cưỡng chế thi hành Quyết định số 170/QĐ-UBND ngày 05-02-2015 đồng thời tổ chức cưỡng chế thu hồi đất đối với Hộ gia đình ông Dương P ngày 25-10-2016 để đảm bảo tiến độ thực hiện dự án.

Ngày 15-10-2017 ông Dương P nhận ủy quyền của các thành viên trong Hộ gia đình nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính có nội dung yêu cầu hủy Quyết định số 170/QĐ-UBND ngày 05-02-2015 của UBND huyện B về việc thu hồi đất; yêu cầu UBND huyện B phê duyệt bồi thường đất theo giá thị trường hoặc trả lại đất đã thu hồi; đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi cưỡng chế gây ra.

Ý kiến phản đối của Nguời bị kiện trong vụ án đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án vì hết thời hiệu khởi kiện.

Câu hỏi:

Câu 1. Anh/chị xác định đối tượng khởi kiện và tư cách đương sự trong vụ án? (1,0 điểm)

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

Câu 2. Anh/chị nêu quan điểm giải quyết vụ án? (1,0 điểm).

ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Kim Cương để xem chi tiết...

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *