I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự là một nội dung quan trọng nhưng rất phức tạp. “Pháp luật tố tụng dân sự không thể được coi là hoàn thiện nếu không có những chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (…). Pháp luật mà không có chứng cứ thì chẳng có nghĩa lý gì cả, nhưng chứng cứ dù không có pháp luật vẫn có tất cả ý nghĩa của nó”[1]. Hay trong báo cáo công tác của ngành Toà án trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự cho thấy “chất lượng hồ sơ vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình phụ thuộc vào chất lượng điều tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ có đầy đủ, chính xác và khách quan hay không và có chấp hành nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng hay không là cơ sở của một bản án, quyết định đúng đắn”[2]. Như vậy, chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là một trong những yếu tố quan trọng nhất của pháp luật tố tụng dân sự. Vì vậy chúng ta hãy cùng nhau đi tìm hiểu về vấn đề này.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số vấn đề lí luận về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự
1. Khái niệm, đặc tính, ý nghĩa của chứng cứ, phân loại chứng cứ:
1.1. Khái niệm:
Điều 81 BLTTDS định nghĩa chứng cứ như sau: “ chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
Có thể hiểu chung chứng cứ là cái có thật, theo một trình tự luật định Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
1.2. Đặc tính
Về cơ bản, để xác những gì được coi là chứng cứ phải dựa trên việc xác định các đặc tính của chứng cứ. Đây là “ những cái vốn có của một sự vật, phân biệt được sự vật này với sự vật khác”. Các đặc tính của chứng cứ bao gồm: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
1.3 Ý nghĩa của chứng cứ
Chứng cứ với tư cách là linh hồn của tố tụng và là nền tảng cơ bản để giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy chứng cứ có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự. Chứng cứ là cơ sở duy nhất và cũng là phương tiện duy nhất để chứng minh các sự kiện tình tiết của vụ việc dân sự. Có thể nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ.; Chứng cứ là phương tiện để người tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Chứng cứ là để Tòa án tái hiện lại đúng các tình tiết và sự thật của vụ việc dân sự, xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự; Chứng cứ là hoạt động mấu chốt của vấn đề chứng minh trong TTDS.
1.4. Phân loại:
Trên thực tế chứng cứ thường được phân thành các loại sau:
Dựa vào nguồn thu nhận chứng cứ: chứng cứ được phân ra chứng cứ theo người và chứng cứ theo vật.
Căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ: gồm chứng cứ gốc và chứng cứ thuật lại.
Căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với những sự kiện cân chứng minh: được chia gồm chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
2. Khái niệm, ý nghĩa của nguồn chứng cứ
Theo Điều 82 BLTTDS thì nguồn chứng cứ bao gồm: “ Các tài liệu đọc được, nghe được nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết quả giám định tài sản, thẩm định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật có quy định”
Tòa án chỉ thu thập chứng cứ qua các nguồn chứng cứ do pháp luật quy định. Bất kì loại chứng cứ nào cũng nằm trong một loại chứng cứ nhất định. Ví dụ: bản di chúc đương sự cung cấp cho Tòa án là nguồn nhưng bản di chúc đó làm giả, gian dối thì không được coi là nguồn chứng cứ
3. Khái niệm, ý nghĩa của phương tiện chứng minh:
3.1 Khái niệm
Phương tiện chứng minh là công cụ pháp luật quy định được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thông qua các chủ thể chứng minh. Một số công cụ thường được thực hiện như lấy lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng, kết luận của cơ quan giám định..gọi là phương tiện chứng minh.
Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự cụ thể, các đương sự và Tòa án có thể dùng nhiều phương tiện chứng minh. (khoản 2 Điều 85 BLTTDS).
3.2 Ý nghĩa
Hoạt động chứng minh có tính chất quyết định kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Để đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, pháp luật quy định những phương tiện chứng minh cụ thể mà các chủ thể chứng minh được sử dụng. Các chủ thể chứng minh chỉ dược sử dụng các phương tiện chứng minh do pháp luật quy định mà không thể sử dụng bất kì phương tiện nào khác để chứng minh đồng thời phải đáp ứng đầy đủ điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Các phương tiện chứng minh này là công cụ để làm sáng tỏ, giải quyết nhanh đúng và chính xác vụ án hơn.
4. Mối liên hệ giữa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh.
Chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là những nội dung quan trọng trong tố tụng dân sự, giữa chúng luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết với nhau cụ thể như sau:
Nguồn chứng cứ là nơi bắt đầu, là nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì. Vì vậy mà nguồn chứng cứ là nơi rút ra chứng cứ. Ví dụ như: phương tiện giao thông bị thiệt hại là nguồn chứng cứ, dấu vết thiệt hại là chứng cứ. Có thể thấy chứng cứ là cái chứa đựng trong nguồn chứng cứ, xác định được nguồn chứng cứ có thể giúp tìm được chứng cứ.
Mặt khác để xác định được chứng cứ thì Tòa án và các chủ thể chứng minh khác phải sử dụng các phương tiện chứng minh. Ví dụ: xác định dấu vết trên phương tiện giao thông có phải là chứng cứ của vụ tai nạn giao thông để lại không thì phải sử dụng kết luận giám định… như vậy phương tiện chứng minh chính là phương tiện để xác định chứng cứ.
II. Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự
2.1. Các quy định về chứng cứ.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTHS thì: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.”
Chứng cứ là những gì có thật liên quan đến hành vi phạm tội, người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án. Lý luận chứng cứ gọi đó là tính liên quan. Chỉ những gì có thật liên quan đến vụ án được CQĐT, VKS, TA dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án mới được coi là chứng cứ;
Chứng cứ là thông tin về vụ án được xác định bằng những nguồn nhất định. Lý luận chứng cứ gọi đó là nguồn chứng cứ. Theo khoản 2 Điều 64 Bộ luật TTHS thì chứng cứ được xác định bằng các nguồn sau: Vật chứng; Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Kết luận giám định; Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Các CQĐT, VKS, TA xác định những gì là chứng cứ chỉ từ những nguồn nói trên, chứ không được xác định những gì là là chứg cứ từ các nguồn khác.
Phân loại chứng cứ: Chứng cứ gốc / thuật lại; Chứng cứ trực tiếp / gián tiếp; Chứng cứ viết / miệng; Chứng cứ khẳng định / phủ định.
2.2. Các quy định về nguồn chứng cứ
Theo quy định tại điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (đã trích ở trên) thì nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự chỉ được quy định trong 8 nguồn chính. Ngoài 8 nguồn chứng cứ này Tòa án không được sử dụng thêm bất cứ nguồn nào khác để thu thập làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tại khoản 9 điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Các nguồn khác mà pháp luật có quy định” cần được hiểu đây là một quy định dự phòng của pháp luật chứ không phải là một quy định mở để Tòa án áp dụng trong quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án. Do vậy, cho đến khi pháp luật có quy định thêm một nguồn chứng cứ nào đó thì Tòa án chỉ được phép thu thập chứng cứ theo qui định từ khoản 1 đến khoản 8 Điều 82 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Tuy nhiên, không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào được thu thập từ các nguồn chứng cứ cũng đều được xem là chứng cứ và được sử dụng vào việc giải quyết vụ án mà các tài liệu, dữ kiện này phải đảm bảo được các thuộc tính cơ bản của chứng cứ, đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về xác định chứng cứ. Ví dụ: biên bản ghi lời khai của đương sự là một nguồn chứng cứ nhưng có những trường hợp toàn bộ lời khai đó là gian dối, bịa đặt thì lời khai đó không được coi là chứng cứ của vụ án.
Điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã quy định cụ thể về điều kiện xác định chứng cứ trong các nguồn chứng cứ như sau :
“1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Ví dụ : nếu nguyên đơn đưa ra một tờ “Giấy nhận nợ” có chữ ký của người nợ (bị đơn) – thì tòa sẽ công nhận tờ giấy đó là chứng cứ khi đó là bản chính chứ không phải là bản photo.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Ví dụ : một bên đưa ra một cuộn băng ghi âm lời nói của một người và cho rằng đó là lời nói của người đang nợ mình. Nếu bên nợ thừa nhận đó là giọng nói của mình thì cuộn băng sẽ được tòa chấp nhận là chứng cứ. Ngược lại, nếu bên nợ nói đó không phải là giọng nói của mình thì có thể tòa sẽ yêu cầu giám định ( do cơ quan giám định có thẩm quyền thực hiện). Tòa sẽ can cứ vào kết quả giám định để xác định có chấp nhận cuộn băng là chứng cứ hay không.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa;
5. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định;
7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận;
8. Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này.” Ví dụ : Ông A nợ ông B 200 triệu đồng, được thể hiện tại 2 giấy nợ, mỗi giấy 100 triệu đồng. Ông B kiện đòi nợ ông A 200 triệu đồng, nhưng chi đưa ra một tờ giấy nợ. Như vậy, tờ giấy nợ được xem là chứng cứ. Tuy nhiên, vì ông B đã không giao nộp đủ cả hai tờ giấy nợ cho tòa, nên tòa không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu đòi nợ 200 triệu đồng mà chỉ chấp nhận 100 triệu đồng. Như vậy, hậu quả của việc không đòi được đủ 200 triệu là do ông B đã không giao nộp đủ chứng cứ.
Với quy định này của điều luật chúng ta thấy rằng : đối với loại nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được khi có chứa đựng chứng cứ của vụ án; nếu là tài liệu đọc được nội dung thì phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; nếu là loại tài liệu nghe được, nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình) thì phải xuất trình được văn bản xác nhận về xuất xứ của các tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, ghi hình đó; có như vậy thì các tài liệu đó mới được coi là có giá trị và được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.
Đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng : vật chứng được pháp luật quy định là nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó là chứng cứ của vụ án, nó chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.
Ví dụ : A kiện B đòi bồi thường chiếc xe bị hư – ở đây chiếc xe bị hư là vật chứng còn những hư hỏng của xe là chứng cứ.
Như vậy vật chứng phải luôn là hiện vật gốc có tính đặc định liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý. Nếu có sự sao chép, tái hiện lại vật chứng thì vật được sao chép đó không được xem là vật chứng. Do đó, quá trình thu thập vật chứng Tòa án phải đảm bảo các trình tự, thủ tục luật định và phải bảo quản, giữ gìn nhằm giữ được tính đặc định của vật chứng.
Đối với loại nguồn chứng cứ là tập quán : để một tập quán trở thành chứng cứ trong một vụ án cụ thể thì người đưa ra tập quán đó phải trình bày rõ nguồn gốc của tập quán, phải chứng minh tính cộng đồng của tập quán đó bằng cách ghi nhận nó bằng văn bản, thể hiện việc cả cộng đồng dân cư nơi có tập quán thừa nhận, có chứng thực về nội dung của chính quyền địa phương nơi có tập quán về tập quán đó. Nếu không chứng minh được tính cộng đồng của tập quán thì nó sẽ không có giá trị chứng cứ.
Tuy nhiên cần chú ý là tập quán được sử dụng làm chứng cứ phải không được trái với các nguyên tắc của pháp luật, đạo đức xã hội và tập quán này chưa được ghi nhận hoặc cụ thể hóa trong luật. Nếu pháp luật đã ghi nhận tập quán đó bằng các quy định cụ thể thì phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết.
Ngoài ra các lời khai của đương sự, người làm chứng, kết luận giám định, biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ và kết quả định giá tài sản nếu được tiến hành đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và đảm bảo 3 thuộc tính của chứng cứ thì sẽ được coi là chứng cứ và được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.
Tóm lại, với quy định về chứng cứ, nguồn chứng cứ và xác định chứng cứ trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được phân tích ở trên cho thấy chứng cứ có vai trò rất quan trọng trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án và để xác định chứng cứ nào là có thật giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự đòi hỏi người Thẩm phán phải có trình độ nghiệp vụ, kiến thức xã hội và khả năng nhạy bén trong quá trình xác định, thu thập chứng cứ.
2.3. Các quy định về phương tiện chứng minh
Hiện tại chưa pháp luật chưa có một quy định cụ thể về phương tiện chứng minh.
III. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chứng cứ, nguồn chứng cứ, phương tiện chứng minh và kiến nghị
1. Thực tiễn thực hiện:
1.1. Những ưu điểm đạt được:
Thứ nhất , Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành ngày càng khẳng định tầm quạn trọng về vị trí và vai trò của chứng cứ. Bằng chứng cho thấy là việc BLTTDS năm 2004 mới được sửa đổi, bổ sung năm 2011, các nhà làm luật đã bổ sung thêm vào điều luật quy định nguồn chứng cứ (Điều 82, BLTTDS), điều này có nghĩa là đã mở rộng thêm nguồn chứa đựng chứng cứ được phép đưa vào quá trình tố tụng dân sự.
Thứ hai, việc quy định chứng cứ chặt chẽ, rõ ràng như vậy là để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho đương sự, bảo đảm cho việc giải quyết của Toà án được đúng đắn, khách quan và để khắc phục tình trạng tài liệu giả; chứng cứ giả. Trong thời buổi khoa học, kỹ thuật phát triển như hiện nay, thì việc ghép hình ảnh, lồng ghép tiếng không khó. Do đó các tài liệu đọc được mà không phải là bản chính hoặc bản sao nhưng không có chứng nhận của cơ quan Công chứng Nhà nước hoặc không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền thì tài liệu đó không phải là chứng cứ. Đối với các tài liệu nghe được, nhìn được mà không có văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc không có văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó thì tài liệu nghe được, nhìn được đó cũng không phải là chứng cứ.
Thứ ba, việc khẳng định vai trò quan trọng của chứng cứ, nguồn chứng cứ, phương tiện chứng minh trong việc giải quyết vụ việc dân sự đã làm tăng thêm trách nhiệm cho cả người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đối với người tham gia vào quá trình tố tụng họ có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ gắn liền với sự thật khách quan của vụ án, không được ỷ lại vào người khác hoặc cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với sự tham gia của tòa án với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình thu thập chứng cứ luôn luôn phải là chủ thể tích cực, chủ động trong điều tra và xác minh chứ không phải là “chỉ điều tra, xác minh khi cần thiết”. Trong quá trình xét xử, Tòa án có trách nhiệm tìm hiểu xem chứng cứ đó có phản ánh sự thật khách quan của vụ việc hay không và đưa ra phán quyết sao cho đúng đắn.
Thứ tư, các tình tiết sự việc thuộc đối tượng chứng minh trong các vụ việc dân sự rất phong phú đã dẫn đến sự đa dạng các phương tiện chứng minh được sử dụng để làm rõ các vấn đề của vụ việc dân sự.
Có thể nói chứng cứ có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng, gần như mang tính chất quyết định trong việc xác định được kết quả thắng – thua của các bên trong một vụ án. Vì vậy, việc xác định và đánh giá thế nào là chứng cứ và các vấn đề liên quan đến chứng cứ nhất thiết phải được qui định rõ ràng, chặt chẽ, tránh tình trạng không phải bất kỳ cái gì, do bất kỳ bên nào đưa ra cũng đều được xem là chứng cứ
1.2. Những hạn chế còn tồn tại
BLTTDS quy định, nếu xét thấy chứng cứ chưa đầy đủ để giải quyết vụ án thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn không thể thu thập được chứng cứ thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Như vậy, trong mọi trường hợp Toà án chỉ được phép yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ khi và chỉ khi đương sự có yêu cầu. Đây là một quy định có mặt tiến bộ là bảo đảm tính khách quan trong việc giải quyết vụ việc dân sự, tuy nhiên cũng đã tạo ra một khoảng trống pháp lý làm Toà án khó giải quyết trong việc bảo vệ nền pháp chế.
Theo quy định tại các điều 85, 94 của BLTTDS và hướng dẫn tại Mục IV của Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, thì khi và chỉ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể thu thập được thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Đương sự yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ thì phải làm đơn yêu cầu và Toà án phải ra quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ. Như vậy, nếu đương sự không có đơn yêu cầu thu thập chứng cứ thì Toà án hoàn toàn không có quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Quy định về thu thập chứng cứ của BLTTDS chỉ thể hiện được tính ưu việt khi giữa các đương sự có tranh chấp. Còn trong trường hợp các đương sự cố tình thoả thuận với nhau trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, mặc dù Toà án có thể biết được nhưng không thể tự thu thập chứng cứ để chứng minh thì phải chịu thua đương sự. Trong khi đó Điều 85 BLTTDS lại quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm”. Như vậy, BLTTDS quy định cho phép Viện kiểm sát có quyền tự thu thập chứng cứ để “phá án” còn Toà án thì đã bị luật “còng tay” ngay cả khi thấy pháp luật bị xâm phạm.
Một vấn đề nữa là Điều 79 BLTTDS đã quy định: Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, cho sự phản đối yêu cầu của người khác là thuộc về đương sự. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh hoặc chứng minh không đầy đủ. Điều 84 BLTTDS quy định cụ thể thêm là: Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó. Như vậy, BLTTDS quy định đương sự có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ và hậu quả của việc không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ nhưng lại không quy định về thời hạn mà đương sự phải thực hiện việc giao nộp chứng cứ. Do đó, có nhiều đương sự sau khi khởi kiện đã không tự giác thu thập chứng cứ để giao nộp cho Toà án hoặc cố tình trì hoãn việc giao nộp chứng cứ làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Thậm chí có chứng cứ nhưng chỉ chờ đến khi xét xử phúc thẩm mới chịu nộp, hậu quả dẫn đến việc cấp phúc thẩm huỷ hoặc sửa án sơ thẩm là khó tránh khỏi. Vấn đề này thực tế đã gây không ít phiền phức cho Toà án. Đây cũng là một khoảng trống cần phải được lấp đầy.
Một thực tế hiện nay khi giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai khi một trong các bên đương sự giao nộp cho Toà án các giấy tờ liên quan như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), trích lục bản đồ địa chính thì bên đương sự khác lại cho rằng các giấy tờ tài liệu đó là không đúng với thực tế mà có sự sai sót của cơ quan quản lý đất đai. Với tình huống này có nơi Toà án không cần xem xét tính xác thực về lời khai của đương sự mà căn cứ vào các giấy tờ, tài liệu đó để đưa ra phán quyết. Ngược lại, có Toà án thì lại đi điều tra xác minh, căn cứ vào lời khai của đương sự, người làm chứng để phủ nhận giá trị pháp lý của các loại giấy tờ tài liệu này. Vậy, trong hai cách giải quyết đó cách nào là đúng pháp luật?
Điều 80 BLTTDS còn quy định về những tình tiết, sự kiện mà đương sự không phải chứng minh trong đó có các tình tiết, sự kiện được xác định trong các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật; những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp;… Do vậy, trong vụ án dân sự thì GCNQSDĐ, bản đồ hoặc trích lục bản đồ địa chính là những chứng cứ quan trọng để Toà án làm căn cứ giải quyết vụ án mà không cần phải chứng minh tính hợp pháp của nó. Tuy nhiên, các giấy tờ, tài liệu về quản lý đất đai không phải bao giờ cũng chính xác và hợp pháp. Do đó, trong trường hợp đương sự cho rằng các giấy tờ, tài liệu đó là không hợp pháp thì Toà án hướng dẫn họ thực hiện quyền khiếu kiện theo thủ tục hành chính đối với cơ quan quản lý đất đai để có sự phán quyết về giá trị pháp lý của các tài liệu đó. Trong khi giải quyết vụ án dân sự Toà án không có quyền đưa ra các phán xét về giá trị pháp lý của các giấy tờ tài liệu do cơ quan hành chính ban hành mà quyền này chỉ được thực hiện trong vụ án hành chính.
Trong số các nguồn chứa đựng các chứng cứ thì các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Nhưng trong nhiều trường hợp các đương sự lại không có các chứng cứ đó mà lại đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ, quản lý. Để bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ, Điều 7 của BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án. Trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ”. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 85 và khoản 1 Điều 94 của BLTTDS cũng đã quy định: Chỉ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì mới có quyền yêu cầu Toà án thu thập. Trên cơ sở các quy định này, tại khoản 5 Mục I Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn cụ thể là: “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Toà án cần giải thích cho đương sự biết quy định tại Điều 7 của BLTTDS về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Khi biết chứng cứ đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý, thì căn cứ vào quy định tại Điều này, đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp được chứng cứ cho đương sự, thì phải thông báo bằng văn bản có ghi rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ cho đương sự biết để họ chứng minh với Toà án là họ đã thu thập chứng cứ nhưng không có kết quả và yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ”. Thực tế khi giải quyết các vụ án mà có các tài liệu, chứng cứ đang do cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý thì việc thu thập chứng cứ không hề đơn giản. Trong rất nhiều vụ án mặc dù đương sự đã cất công đi lại nhiều lần yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp các chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án để họ giao nộp cho Toà án nhưng đều bị từ chối với đủ mọi lý do và việc từ chối đó cũng chỉ bằng lời nói, thái độ, cử chỉ. Với cách từ chối này đương sự khó có thể chứng minh việc họ đã áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không thu thập được chứng cứ để làm cơ sở yêu cầu Toà án thu thập.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật về chứng cứ, nguồn của chứng cứa và phương tiện chứng minh.
Thứ nhất: Để bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của đương sự được đầy đủ và toàn diện hơn thì pháp luật tố tụng dân sự không nên quá coi trọng đến mức tuyệt đối hoá nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự như hiện nay. Bởi lẽ trong quá trình tố tụng, do thiếu kinh nghiệm tham gia tố tụng hoặc vì nguyên nhân nào đó mà các đương sự không thể đưa ra được tất cả các chứng cứ để chứng minh sẽ đồng nghĩa với việc các quyền lợi hợp pháp của họ sẽ không được bảo đảm đầy đủ. Vì vậy, sự tham gia của tòa án với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng luôn luôn phải là chủ thể tích cực, chủ động tham gia thu thập chứng cứ và điều tra, xác minh chứ không phải là “chỉ điều tra, xác minh khi cần thiết” như quy định của pháp luật tố tụng hiện nay. Điều đó cho thấy rằng “qua công tác kiểm tra, xét xử, công tác xét xử phúc thẩm và xét xử giám đốc thẩm cho thấy trong công tác giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình cũng còn nhiều thiếu sót, chủ yếu là do việc điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu của vụ án chưa đầy đủ, chưa chính xác, thậm chí còn có những trường hợp thiếu khách quan” (Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 2001). Bên cạnh đó, có những vụ án dân sự phải xử đi xử lại nhiều lần là do việc các tòa án không thống nhất được việc đánh giá chứng cứ và sử dụng chứng cứ. Do vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về chứng cứ hiện nay là rất cần thiết.
Thứ hai: Việc đưa ra các chứng cứ và chứng minh có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nếu chứng cứ đã đầy đủ, nhưng việc chứng minh tại phiên toà lại bị giới hạn bởi thời gian tranh tụng thì quyền lợi của đương sự có thể không được bảo đảm đầy đủ. Bởi kéo dài thời gian tranh tụng đồng nghĩa với việc các đương sự sẽ có nhiều cơ hội để tranh luận trên cơ sở các nguồn chứng cứ mà đương sự cung cấp. Thực tế hiện nay, trong các phiên tòa dân sự, hoạt động xét hỏi của Hội đồng xét xử vẫn được coi là hành vi tố tụng “trung tâm” tại phiên toà, Vì vậy, hoạt động của tòa án như hiện nay chưa phản ánh đúng và đầy đủ “quyền tự định đoạt” của đương sự trong quá trình tố tụng, đặc biệt là tố tụng tại phiên toà.
Thứ ba: Trong Bộ luật Tố tụng Dân sự đã quy định những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh (Điều 80), nhưng lại không có quy định về những tình tiết sự kiện phải chứng minh. Điều này “không những làm mất cân đối giữa các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, mà còn làm cho các chủ thể lúng túng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ, nhất là các đương sự. Khi tham gia tố tụng, đương sự chỉ phải chứng minh trong phạm vi yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của họ là chưa đủ, mà còn phải chứng minh các sự kiện, tình tiết khác của vụ việc dân sự. Ngoài ra, do thiếu kinh nghiệm tham gia tố tụng nên các đương sự thường không biết phải chứng minh làm rõ sự kiện, tình tiết gì và vì vậy cũng không xác định được chứng cứ, tài liệu phải cung cấp cho tòa án để chứng minh cho quyền lợi hợp pháp của mình. Mặt khác, tại điểm c, Khoản 1, Điều 80 của Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản, và được công chứng, chứng thực hợp pháp thì không phải chứng minh. Tuy vậy, thực tế cho thấy, trong trường hợp tòa án có nghi ngờ về tính đúng đắn của việc công chứng, chứng thực thì những tình tiết đó vẫn phải được xác định lại. Nhưng trong Bộ luật Tố tụng Dân sự không thấy có quy định là việc đó có phải chứng minh hay không, và ai phải chứng minh (nếu có).
Thứ tư: Trên thực tế, trong tố tụng hình sự có quy định đầy đủ về các phương tiện chứng minh (Khoản 2, Điều 64, Bộ luật Tố tụng Hình sự), trong khi đó, Bộ luật Tố tụng Dân sự lại không có quy định nào về phương tiện chứng minh. Vì vậy trong tố tụng dân sự, các chủ thể sẽ sử dụng những phương tiện nào để chứng minh và chứng minh như thế nào thì được coi là hợp pháp. Do đó, nếu không được giải thích đầy đủ, các chủ thể sẽ rất dễ nhầm lẫn, thậm chí là đồng nhất giữa các khái niệm “nguồn chứng cứ”, “phương tiện chứng minh” và “chứng cứ.
3. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là một trong những yếu tố quan trọng nhất của pháp luật tố tụng dân sự. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn đạt được, trong thời gian tới, các nhà làm luật cần phát huy những ưu điểm đạt được và có những biện pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại, những lỗ hổng, sự chồng chéo của luật hiện hành. Để nâng cao chất lượng điều tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ có đầy đủ, chính xác và khách quan là tiền đề cho những cơ sở của những bản án, quyết định đúng đắn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2005.
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
- Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
- Kỷ yếu Hội thảo về pháp luật Tố tụng Dân sự năm 1999 tại Nhà pháp luật Việt – Pháp.
- Báo cáo công tác của ngành Tòa án năm 2001.
- Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
[1] Kỷ yếu Hội thảo về pháp luật Tố tụng Dân sự năm 1999 tại Nhà pháp luật Việt – Pháp.
[2] Báo cáo công tác của ngành Tòa án năm 2001.
Ghi chú: Bài viết được được tặng hoặc được sưu tầm hoặc được biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện đáp án chưa chính xác, vui lòng góp ý tại phần Bình luận. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.