Luật dân sự: 150 câu hỏi lý thuyết P1 (có đáp án)

CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VỀ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 

Câu 1: Trình bày nội dung của Luật dân sự hiện nay?

Đáp án:

Luật dân sự gồm các nguyên tắc cơ bản và có nhiều chế định khác nhau như: chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, chế định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi.về tài sản không có căn cứ pháp luật; chế định thực hiện công việc không có ủy quyền; chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; chế định thừa kế; chế định chuyển quyền sử dụng đất; chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Mỗi chế định của luật dân sự đều có những nguyên tắc riêng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản và có những quy phạm được tập hợp theo những tiêu chí riêng phù hợp với chế định đó.

Câu 2: Trình bày khái niệm đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự?

Đáp án:

Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là quan hệ nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự) (Điều 1 Bộ luật dân sự – BLDS năm 2015). Với quy định này, luật dân sự nói chung và BLDS năm 2015 nói riêng đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đến các quan hệ thuộc lĩnh vực luật tư và trở thành luật chung điều chỉnh các quan hệ tài sản. Trong trường hợp luật riêng không quy định trực tiếp để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đó thì các quy định của BLDS năm 2015 sẽ điều chỉnh. Tuy nhiên, các quy định của luật riêng không được trái với những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 3 BLDS năm 2015. Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm nguyên tắc trên thì quy định của BLDS năm 2015 được áp dụng.

Câu 3: Trình bày về đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự?

Đáp án:

+ Quan hệ tài sản:

Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản. Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn với một tài sản nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác.

Tài sản (được khái quát chung ở Điều 105 BLDS năm 2015) bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quan hệ tài sản tài sản không chỉ bó hẹp ở những vật vô tri mà còn hàm chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến một tài sản.

+ Quan hệ nhân thân:

Cùng với quan hệ tài sản, luật dân sự còn điều chỉnh các quan hệ nhân thân (Điều 1 BLDS năm 2015). Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân hay các tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác.

Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân đó, đồng thời quy định các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền nhân thân (Điều 11 – Điều 14 BLDS năm 2015).

Câu 4: Trình bày đặc điểm của quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh?

Đáp án:

– Quyền nhân thân gắn với một chủ thể nhất định, về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho các chủ thể khác, trừ một số trường hợp( công bố tác phẩm của tác giả các tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp…)

– Quyền nhân thân không xác định bằng tiền.. Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá.

+ Các Quyền nhân thân không gắn với tài sản: danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân, của tổ chức; quyền đối với họ tên, quyền xác định dân tộc, thay đổi dân tộc, kết hôn, ly hôn, bí mật đời tư, bí mật hình ảnh….

+ Quyền nhân thân không gắn với tài sản: là những giá trị nhân thân khi xác lập giá trị nhân thân làm phát sinh các quyền tài sản. Chỉ phát sinh khi có sự kiện pháp lý nhất định như các tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, quyền sáng chế, nhuận bút,…

Câu 5: Trình bày đặc điểm của quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh?

Đáp án:

– Thứ nhất, quan hệ tài sản trong pháp luật dân sự mang tính ý chí, điều này thể hiện qua ý chí của các chủ thể trong việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt về mối quan hệ này. Bên cạnh đó, quan hệ tài sản còn bị chi phối bởi ý chí của nhà nước, thể hiện qua sự điều chỉnh của các quy định trong pháp luật về dân sự.

– Thứ hai, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính chất hàng hóa và tiền tệ. Dưới định hướng chiến lược của nước ta phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, trong mô hình kinh tế này, các tài sản thể hiện dưới dạng hàng hóa và được quy thành tiền. Sản xuất hàng hóa và dịch vụ để bán, để trao đổi.

– Thứ ba, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính chất đền bù tương đương. Sự đền bù tương đương trong trao đổi là biểu hiện của quan hệ hàng hóa và tiền tệ. Nhưng không phải tất cả sự dịch chuyển tài sản đều có sự đền bù tương đương ví dụ: cho tặng, thừa kế, … không phổ biến do nó không chỉ đơn thuần là quan hệ pháp luật mà còn chi phối bởi các quan hệ xã hội khác.

Câu 6: Trình bày phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự?

Đáp án:

Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là những cách thức, biện pháp mà Nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của Nhà nước phù hợp với ba lợi ích (Nhà nước, xã hội và cá nhân).

Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân của cá nhân, pháp nhân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm.

Câu 7: Trình bày đặc điểm phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự?

Đáp án:

Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự có những đặc điểm sau:

– Các chủ thể tham gia các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân do luật dân sự điều chỉnh độc lập về tổ chức và tài sản, bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý. Độc lập về tổ chức và tài sản là tiền đề tạo ra sự bình đẳng trong các quan hệ mà các chủ thể tham gia.

– Pháp luật dân sự ghi nhận quyền tự định đoạt của các chủ thể trong việc tham gia các quan hệ tài sản. Khi tham gia vào các quan hệ tài sản, mỗi chủ thể đều đặt ra những mục đích với những động cơ nhất định. Bởi vậy, việc lựa chọn một quan hệ cụ thể do các chủ thể tự quyết định, căn cứ vào khả năng, điều kiện, mục đích mà họ tham gia vào các quan hệ đó.

– Xuất phát từ sự bình đẳng giữa các chủ thể, quyền tự định đoạt của họ khi tham gia các quan hệ dân sự, cho nên đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là hoà giải. Đây là nguyên tắc được quy định tại Điều 7 BLDS năm 2015 – Nguyên tắc hoà giải. 

– Các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá và tiền tệ, việc vi phạm nghĩa vụ của một bên trong quan hệ đó dẫn đến thiệt hại về tài sản đối với bên kia. Bởi vậy, trách nhiệm dân sự trước tiên là trách nhiệm tài sản.

Câu 8: Trình bày định nghĩa Luật dân sự?

Đáp án:

Luật dân sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật dân sự do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân phi tài sản hoặc có liên quan đến tài sản của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác, dựa trên nguyên tắc bình đẳng pháp lý, quyền tự định đoạt, quyền khởi kiện dân sự và trách nhiệm tài sản của những người tham gia quan hệ đó.

Câu 9: Phân biệt Luật dân sự với các ngành Luật khác?

Đáp án:

– Chúng ta dễ dàng phân biệt luật dân sự với luật hành chính. Luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực điều hành và quản lý nhà nước. Các chủ thể tham gia không bình đẳng về địa vị pháp lý và không thể thỏa thuận trong việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hành chính mà được xác lập dựa trên các quy định của pháp luật.

– Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội bằng cách quy định những hành vi nào bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đồng thời quy định hình phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi đó. Mặc dù việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế do luật hình sự quy định là sự cưỡng chế của Nhà nước nhưng những biện pháp này trước tiên là trách nhiệm của cá nhân với xã hội, với Nhà nước nói chung. Chức năng chủ yếu của hình phạt là trừng phạt và giáo dục; còn trong dân sự, trách nhiệm tài sản trước tiên là trách nhiệm của chủ thể này đối với chủ thể khác và mục đích chủ yếu của nó là phục hồi tình trạng tài sản của bên bị thiệt hại.

– Luật dân sự được coi là luật chung trong lĩnh vực luật tư, bao gồm các quy định liên quan đến quyền lợi của chủ thể và về nguyên tắc có thể thay đổi bằng sự thoả thuận của các bên. Do sự phát triển của xã hội cũng như khoa học pháp ỉí, trên cơ sở của luật dân sự đã phát triển thêm những lĩnh vực pháp luật khác (như luật thương mại…). Trong các giao lưu dân sự, có những quan hệ được coi là quan hệ thương mại. Đây là những quan hệ đặc thù được điều chỉnh bởi luật thương mại. Khi điều chỉnh các quan hệ thương mại, nếu không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì áp dụng các quy định của BLDS năm 2005 để điều chỉnh các quan hệ đó.

– Luật lao động được tách ra từ luật dân sự khi sức lao động trở thành hàng hoá trong xã hội tư bản. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là bản thân quá trình lao động mà không phải là kết quả của quá trình đó giữa người lao động và người sử dụng lao động. Khi các quan hệ lao động không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì sẽ áp dụng các quy định của BLDS năm 2015 để điều chỉnh các quan hệ đó.

– Luật hôn nhân và gia đình được tách ra từ luật dân sự để điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ – chồng và các thành viên trong gia đình, trong đó quan hệ nhân thân giữa vợ – chồng là trung tâm, quyết định các quan hệ khác. Các quan hệ tài sản mà luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh giữa các chủ thể không độc lập về tài sản và không thể áp dụng nguyên tắc đền bù tương đương. Tài sản của vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản riêng của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình. Trong trường hợp không có quy định trong luật hôn nhân và gia đình, sẽ sử dụng các quy định trong BLDS năm 2015 để điều chỉnh các quan hệ đó.

– Luật tố tụng dân sự được coi là luật hình thức của luật dân sự và luật hôn nhân và gia đình, luật kinh tế, luật lao động; quy định trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng.

Câu 10: Khái niệm nguồn của Luật dân sự?

Đáp án: 

Nguồn của luật Dân sự được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau gồm:

– Thứ nhất, theo nguồn gốc phát sinh quy phạm pháp luật thì nguồn của luật Dân sự là những quan hệ xã hội cần thiết phải được pháp luật dân sự điều chỉnh;

– Thứ hai, dưới góc độ xã hội học thì nguồn của luật Dân sự là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành luật mà nội dung được quyết định bởi điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội và phong tục, tập quán;

– Thứ ba, theo hình thức biểu hiện ra bên ngoài thì nguồn của luật Dân sự là những văn bản quy phạm pháp luật dân sự.

Nguồn của luật dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là những văn bản pháp luật (hình thức của pháp luật) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân. 

Câu 11: Trình bày yêu cầu để một văn bản được coi là nguồn của Luật dân sự?

Đáp án:

Một văn bản được coi là nguồn của luật dân sự phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:

– Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;

– Chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự;

– Phải ban hành theo trình tự, thủ tục do luật định.

Câu 12: Phân loại nguồn của Luật dân sự?

Đáp án:

Theo nguyên tắc chung, các quy phạm pháp luật dân sự đều có hiệu lực bắt buộc thi hành. Nhưng căn cứ vào hình thức văn bản, cơ quan ban hành và hiệu lực pháp luật của văn bản, nguồn của luật dân sự có thể chia thành các loại sau:

  • Hiến pháp;
  • BLDS;
  • Các luật, bộ luật liên quan;
  • Các văn bản dưới luật;
  • Án lệ.

Câu 13: Trình bày cấu tạo quy phạm pháp luật dân sự?

Đáp án:

Quy phạm pháp luật dân sự được cấu tạo bởi các phần: giả định, quy định và chế tài. Quy phạm pháp luật dân sự và điều luật trong văn bản pháp luật dân sự không đồng nghĩa với nhau. Có thể một điều luật chứa đầy đủ các cấu thành của quy phạm song cũng có thể chỉ có một bộ phận (giả định, quy định, chế tài). Cũng có thể chế tài được quy định ở phần khác, thậm chí ở văn bản pháp luật khác. Cũng cần lưu ý, quy phạm pháp luật dân sự và điều luật trong văn bản pháp luật dân sự không đồng nghĩa với nhau. Có thể một điều luật chứa đầy đủ các cấu thành của quy phạm song cũng có thể chỉ có một bộ phận (giả định, quy định, chế tài), cũng có thể chế tài được quy định ở phần khác, thậm chí ở văn bản pháp luật khác.

Câu 14: Trình bày các loại quy phạm pháp luật dân sự?

Đáp án:

+ Quy phạm định nghĩa:

Là những quy phạm trong đó nêu ra khái niệm và nêu nội dung khái niệm đó. Quy phạm định nghĩa xác định phạm vi một sự kiện và giới hạn áp dụng sự kiện đó. Thông thường quy phạm, điều luật dạng này thể hiện dưới dạng “X là…”. Ví dụ: “Đại diện là…” (Điều 134 BLDS năm 2015); “thời hạn là…” (Điều 144 BLDS năm 2015); “thời hiệu là… ” (Điều 149 BLDS năm 2015).

+ Quy phạm mệnh lệnh:

Là loại quy phạm nêu ra cách xử sự bắt buộc của chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự. Xử sự này có thể là một hành vi bắt buộc phải thực hiện, thông thường được diễn tả từ các điều luật dưới dạng “phải”…

Ví dụ: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng kí thì phải tuân theo quy định đó” (khoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015).

+ Quy phạm tùy nghi lựa chọn:

Là những quy phạm nêu nhiều cách xử sự khác nhau, trong đó các chủ thể tham gia có thể lựa chọn một trong các cách đã nêu.

Ví dụ: “Trong trường hợp bên bán giao vật với số lượng nhiều hơn số lượng đã thoả thuận, thì bên mua có quyển không nhận phần dôi ra; nếu nhận, thì phải thanh toán theo giá thoả thuận phần dôi ra” (khoản 1 Điều 437 BLDS năm 2015).

+ Quy phạm tùy nghi:

Khác với các quy phạm đã nêu trên (dự liệu bắt buộc, dự liệu lựa chọn có hạn chế), các quy phạm tùy nghi theo thỏa thuận cho phép các chủ thể tự định đoạt. Giới hạn sự tự định đoạt này bị hạn chế bởi các nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng. Ví dụ: “Địa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận” (Điều 277 BLDS năm 2015). Thỏa thuận là cốt lõi của mọi hợp đồng dân sự, ở đây các chủ thể được toàn quyền quyết định về quan hệ mà họ tham gia. Loại quy phạm này phổ biến trong các quy phạm pháp luật dân sự. 

Câu 15: Trình bày về quy định áp dụng luật dân sự?

Đáp án:

Áp dụng luật dân sự là những hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào những sự kiện thực tế đã xảy ra, dựa vào những quy phạm pháp luật phù hợp với sự kiện thực tế đó để đưa ra quyết định phù hợp với thực tế và những quy định của pháp luật. Những quyết định được cơ quan có thẩm quyền đưa ra có thể là:

– Công nhận hay bác bỏ một quyền dân sự nào đó đối với một chủ thể (quyền sở hữu, quyền thừa kế, quyền đòi nợ…);

– Xác lập một nghĩa vụ cho một chủ thể nhất định (bồi thường thiệt hại, trả nợ, giao vật, trả tiền, chấm dứt hành vi vi phạm…);

– Áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của chủ thể khác, của Nhà nước (tịch thu tài sản, phạt vi phạm, quyết định bán đấu giá…).

Câu 16: Trình bày về quy định áp dụng tập quán?

Đáp án:

Áp dụng tập quán là sử dụng các xử sự được cộng đồng địa phương, dân tộc thừa nhận như là chuẩn mực ứng xử đối với các thành viên trong cộng đồng dân tộc, địa phương đó (như việc áp dụng các đơn vị đo lường giạ lúa; chục ở miền Nam; chia thịt thú rừng ở các vùng dân tộc…). Điều 5 BLDS năm 2015 định nghĩa: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự”.

Câu 17: Trình bày về điều kiện áp dụng tương tự pháp luật?

Đáp án:

Áp dụng tương tự pháp luật là dùng những quy phạm pháp luật đang có hiệu lực đối với những quan hệ tương tự như quan hệ cần xử lý để điều chỉnh quan hệ cần xử lý đó nhưng không có quy phạm trực tiếp điều chỉnh quan hệ đó (như dùng quan hệ vay để xử lý quan hệ hụi họ hay dùng các quan hệ về dịch vụ để điều chỉnh quan hệ đổi công cho nhau….).

Việc áp dụng tương tự pháp luật phải có các điều kiện sau:

– Quan hệ đang tranh chấp thuộc lĩnh vực luật dân sự điều chỉnh;

– Trong pháp luật dân sự chưa có quy phạm trực tiếp điều chỉnh;

– Với các quy phạm và chế định hiện có không thể giải quyết được tranh chấp đó;

– Có tập quán được cộng đồng thừa nhận như chuẩn mực ứng xử trong các trường hợp đó;

– Hiện có các quy phạm (chế định) khác trong luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tương tự (gần giống các quan hệ cần điều chỉnh).

Câu 18: Ý nghĩa của việc áp dụng tương tự pháp luật?

Đáp án:

Việc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật nhằm khắc phục những lỗ hổng trong pháp luật dân sự đó là trên thực tế có các quan hệ pháp luật dân sự phát sinh nhưng không có các quy phạm pháp luật điều chỉnh, tuy nhiên cần phải giải quyết tranh chấp đó, cho nên phải áp dụng tương tự pháp luật. Việc áp dụng này cũng sẽ tạo tiền đề để các nhà lập pháp hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật.

Câu 19: Trình bày quy định về điều kiện áp dụng án lệ của Luật dân sự Việt Nam?

Đáp án:

– Một là, phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự;

– Hai là, không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh; không có tập quán, không có quy định tương tự để áp dụng và các bên không có thỏa thuận. Điều này được ghi nhận tại khoản 2 Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”; Ba là, có án lệ tương thích để điều chỉnh quan hệ dân sự đang phát sinh. Đây là điều kiện bắt buộc cần phải có để đảm bảo cho việc áp dụng án lệ. Bởi án lệ nước ta là cơ chế tuyển chọn và công bố án lệ nên chỉ có một số bản án được công nhận là án lệ.

Câu 20: Khái niệm chung về nguyên tắc của Luật dân sự?

Đáp án:

Các nguyên tắc của luật dân sự được ghi nhận tại Chương I – Phần thứ nhất của Bộ luật dân sự: “Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự”. Trong luật dân sự còn tồn tại các nguyên tắc riêng cho từng chế định của luật dân sự. Những nguyên tắc chung được quy định tại Chương I – Phần thứ nhất có giá trị áp dụng đối với tất cả các chế định, quy phạm pháp luật dân sự. Những nguyên tắc riêng là những nguyên tắc được quy định trong từng phần, từng chế định cụ thể, cũng có thể nhắc lại nguyên tắc chung trong các phần, các chế định riêng biệt của luật dân sự.

Những nguyên tắc chung của pháp luật được nghiên cứu trong chương trình lý luận về nhà nước và pháp luật, những nguyên tắc đó vẫn được áp dụng cho luật dân sự cũng như các ngành luật khác. Trong phần này chỉ đề cập những nguyên tắc chung được quy định ở Chương I – Phần thứ nhất của Bộ luật dân sự. Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định các nguyên tắc cơ bản trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ và dân sự. Đó là những quy định mang những quan điểm chủ đạo, quán triệt trong toàn bộ nội dung của Bộ luật. Những nguyên tắc này là sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc đã được quy định trong các văn bản pháp luật trước đó đồng thời thể hiện rõ quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Câu 21: Trình bày về nguyên tắc bình đẳng của Luật dân sự Việt Nam?

Đáp án:

Trong quan hệ dân sự (theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015), các chủ thể đều bình đẳng, không được lấy bất cứ lý do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực pháp luật, bình đẳng giữa các hình thức sở hữu khi giao kết hợp đồng dân sự; bình đẳng về để lại và hưởng di sản thừa kế. Bình đẳng của các chủ thể được thể hiện ở các điểm sau:

– Bình đẳng trong việc tham gia vào các quan hệ dân sự không phụ thuộc vào giới tính và các địa vị xã hội khác;

– Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi chúng được xác lập. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền;

– Bình đẳng về trách nhiệm dân sự. Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.

Câu 22: Trình bày về nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận của Luật dân sự Việt Nam?

Đáp án:

Các bên tham gia quan hệ dân sự có quyền tự do cam kết, thoả thuận phù hợp với pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự (khoản 2, Điều 3 Bộ luật dân năm 2015). Mọi cam kết và thỏa thuận hợp pháp được pháp luật bảo hộ. Ví dụ: Trong hợp đồng, các bên có thoả thuận về các phương thức thực hiện nghĩa vụ, các thỏa thuận đó có giá trị pháp lý đối với các bên tham gia hợp đồng.

Khi cam kết, thoả thuận, các bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai dùng bất cứ thủ đoạn nào nhằm buộc một người cam kết, thỏa thuận trái với ý chí của người đó. Mọi cam kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể bị tuyên bố là vô hiệu. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

Câu 23: Trình bày về nguyên tắc thiện chí, trung thực của Luật dân sự Việt Nam?

Đáp án:

Trong quan hệ dân sự, các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến quyền và lợi ích của mình mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước và xã hội. Ngoài ra đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực, thiện chí. Nêu một bên cho rằng bên kia không trung thực, thiện chí phải có chứng cứ (khoản 3 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015).

Câu 24: Trình bày về nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác theo Luật dân sự Việt Nam?

Đáp án:

Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó. Tuy nhiên, việc thực hiện các hành vi dân sự không thể tiến hành tuỳ tiện mà phải thực hiện trong một khuôn khổ, giới hạn nhất định. Quyền của một chủ thể bị giới hạn bởi quyền của các chủ thể khác, lợi ích của quốc gia, lợi ích công cộng. Khi các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình mà gây thiệt hại cho các chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các chủ thể bị hại đó.

Câu 25: Trình bày về nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự?

Đáp án:

Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý nhưng trước tiên là trách nhiệm của người vi phạm đối với người bị vi phạm. Người có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của họ nếu các quyền và nghĩa vụ đó phát sinh từ các căn cứ hợp pháp. Nếu không thực hiện phải tự chịu trách nhiệm và có thể bị cưỡng chế thi hành nghĩa vụ và phải bồi thường thiệt hại (nếu có). Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình (khoản 5 Điều 3 BLDS).

Câu 26: Trình bày về chính sách tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc?

Đáp án:

Theo (khoản 1 Điều 7 BLDS năm 2015) về nguyên tắc, chính sách của Nhà nước không phải là nguyên tắc của pháp luật dân sự nhưng có ảnh hưởng lớn đến các nguyên tắc của pháp luật dân sự. Đặc biệt khi áp dụng pháp luật dân sự để giải quyết các tranh chấp (khoản 2 Điều 7 BLDS).

Khi xác lập, thực hiện các quyền dân sự các chủ thể phải tôn trọng truyền thống tốt đẹp, phong tục tập quán của nhân dân…

Phong tục, tập quán, đạo đức và truyền thống tốt đẹp của nhân dân là cơ sở xã hội của pháp luật dân sự. Một nền pháp luật chỉ tồn tại và bền vững khi phù hợp với đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự cũng phải dựa trên nền tảng của đạo đức và truyền thống đó trên tinh thần tương thân, tương ái, “mình vì mọi người, mọi người vì mình” nhằm tạo điều kiện cho những người, những cộng đồng chưa có những điều kiện thực tế có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ dân sự của họ.

Câu 27: Trình bày về chính sách khuyến khích hòa giải?

Đáp án: 

Trong quan hệ dân sự, việc hoà giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự.

Các nguyên tắc được quy định tại Chương I – Phần thứ nhất của BLDS là một hệ thống chỉnh thể. Bởi vậy, phải xem xét nó như một thể thống nhất khi áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật.

Câu 28: Trình bày những nhiệm vụ của Luật dân sự?

Đáp án:

– Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; lợi ích của Nhà nước; lợi ích công cộng. Luật dân sự quy định các quyền, các lợi ích của các chủ thể trong giao lưu dân sự. Thông qua việc quy định các quyền và nghĩa vụ này, các chủ thể biết được những quyền của mình để yêu cầu bảo vệ hoặc tự bảo vệ quyền của họ. 

– Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự. Bình đẳng giữa các chủ thể là đặc điểm quan trọng trong phương pháp điều chỉnh của luật dân sự vì nó tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện tốt quyền dân sự của mình trong một quan hệ pháp luật dân sự nhất định. 

– Góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Việc mở rộng các quyền của các chủ thể là tất yếu khách quan do nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội. Luật dân sự không chỉ quy định các quyền tài sản, các quyền nhân thân của cá nhân và tổ chức mà còn quy định những biện pháp, cách thức để các chủ thể có thể đáp ứng các quyền đó, biến quyền dân sự khách quan thành một quyền dân sự cụ thể của một chủ thể nhất định.

– Giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân. Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm mang tính chất tài sản để khôi phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại. Do vậy, các chế tài dân sự không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bị thiệt hại mà còn có tác dụng giáo dục các chủ thể khác tuân thủ các quy định của pháp luật dân sự, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.

Câu 29: Phân tích mối quan hệ giữa Luật dân sự và Luật thương mại?

Đáp án:

Một là, Bộ luật Dân sự là văn bản quy định về nghĩa vụ và hợp đồng, không có sự phân biệt chủ thể (kinh doanh hay không kinh doanh) và mục đích (lợi nhuận hay phi lợi nhuận) trong quy định về hợp đồng dân sự. Luật Thương mại khi quy định về hoạt động thương mại, chủ yếu chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch thương mại. Không quy định các vấn đề pháp lý về hợp đồng như giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, đảm bảo ký kết và thực hiện hợp đồng… Những vấn đề này sẽ thực hiện theo các quy định của Bộ luật Dân sự.

Hai là, Bộ luật Dân sự quy định về cá nhân, pháp nhân, năng lực pháp luật, năng lực hành vi, uỷ quyền và đại diện, chấm dứt pháp nhân… Pháp luật thương mại quy định quy chế thương nhân dành cho tổ chức và cá nhân kinh doanh. Bên cạnh các quy định riêng này của Luật Thương mại, các quy định chung của Luật Dân sự vẫn có hiệu lực áp dụng với mọi tổ chức, cá nhân, bao gồm cả tổ chức, cá nhân kinh doanh.

Ba là, do bản chất chung của các giao dịch thương mại và giao dịch dân sự đều hình thành, thay đổi, chấm dứt trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện, tự do ý chí, nên việc giải quyết tranh chấp thương mại, tranh chấp dân sự tại Toà án đều thực hiện theo thủ tục tố tụng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, Luật Thương mại quy định thêm một số phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Tòa án, đáp ứng yêu cầu khác nhau của các thương nhân có tranh chấp trong hoạt động thương mại, đó là giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải thương mại…

Câu 30: Lấy ví dụ thể hiện mối quan hệ giữa Luật dân sự với Luật đất đai?

Đáp án:

Trong một số lĩnh vực, chúng ta đã lấy các quy định của BLDS thay cho các đạo luật chuyên ngành, chẳng  hạn như vấn đề chuyển quyền sử dụng đất đã được quy định khá chi tiết trong phần V của BLDS, trong khi Luật Đất đai lại cũng quy định về vấn đề này; hay những vấn đề mà BLDS quy định chưa đầy đủ thì giao cho Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn, mặc dù những vấn đề này thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Khi xây dựng BLDS, chúng ta đã quá thiên về pháp điển hoá, dẫn đến xoá bỏ một loạt văn bản pháp luật chuyên ngành (Ví dụ như Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam, Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả, Pháp lệnh Nhà ở) để đưa các quy định cụ thể của những chuyên ngành này vào BLDS, bởi tinh thần chủ yếu khi xây dựng BLDS là cái gì đã có, đã khẳng định được và có đến đâu thì đưa vào đến đó.

CHƯƠNG II: QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ 

Câu 1: Trình bày khái niệm quan hệ pháp luật dân sự?

Đáp án:

Là quan hệ xã hội do các quan hệ pháp luật dân sự điều chỉnh, tức là quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dân sự, các quan hệ liên quan đến yếu tố nhân thân và tài sản trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại…

Câu 2: Trình bày đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự?

Đáp án:

– Chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự đa dạng, bao gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ dân sự, các chủ thể độc lập với nhau về tổ chức và tài sản. Xuất phát từ các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh là những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân – những quan hệ phát sinh trong đời sống thường nhật của các cá nhân cũng như trong các tập thể, trong tiêu dùng cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh, cho nên, cá nhân và tổ chức đều là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự:

– Địa vị pháp lý của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không bị phụ thuộc vào các yếu tố xã hội khác. Mặc dù trong quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các bên tham gia là các chủ thể đối lập nhau trong việc phân định quyền và nghĩa vụ: một bên mang quyền, một bên gánh chịu nghĩa vụ và thông thường, xong quan hệ dân sự, các bên đều có quyền và nghĩa vụ đối nhau. 

– Lợi ích (trước tiên là lợi ích kinh tế) là tiền đề trong phần lớn các quan hệ dân sự. Quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá – tiền tệ và được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật đã tạo điều kiện cho các chủ thể thông qua các biện pháp pháp lý để thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Sự đền bù tương đương là đặc trưng của quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá – tiền tệ do luật dân sự điều chỉnh. 

– Các biện pháp cưỡng chế đa dạng không chỉ do pháp luật quy định mà có thể tự các bên quy định về các biện pháp cưỡng chế cụ thể và hình thức áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó. Nhưng đặc tính tài sản là đặc trưng cho các biện pháp cưỡng chế trong luật dân sự.

Câu 3: Trình bày về khách thể của quan hệ pháp luật dân sự?

Đáp án:

Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự được chia thành 5 nhóm sau:

1) Tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, các giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản – nhóm khách thể của quan hệ pháp luật về sở hữu;

2) Hành vi (bao gồm cả hành vi hành động và hành vi không hành động). Đây là nhóm khách thể trong quan hệ nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự;

3) Các kết quả của hoạt động tỉnh thần, sáng tạo là nhóm khách thể của quyền sở hữu trí tuệ;

4) Các giá trị nhân thân là nhóm khách thể của quyền nhân thân được pháp luật dân sự bảo vệ;

5) Quyền sử dụng đất, là nhóm khách thể có tính chất đặc thù trong các quan hệ pháp luật dân sự về chuyển quyền sử dụng đất.

Câu 4: Phân loại quan hệ pháp luật dân sự?

Đáp án:

Căn cứ vào nhóm quan hệ mà pháp luật dân sự điều chỉnh, quan hệ pháp luật dân sự được phân thành quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân.

– Quan hệ tài sản luôn gắn với một tài sản nhất định hoặc chuyển dịch tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác (quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng hay thừa kế tài sản…).

– Quan hệ nhân thân liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể và về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho chủ thể khác (quyền đứng tên tác giả các tác phẩm văn học, khoa học, tác phẩm nghệ thuật, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín…).

Căn cứ vào tính xác định của chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ, quan hệ pháp luật dân sự được phân chia thành quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối và quan hệ pháp luật dân sự tương đối.

–  Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối nếu trong quan hệ đó, chủ thể quyền được xác định, tất cả các chủ thể khác là chủ thể mang nghĩa vụ. Nghĩa vụ của họ được thể hiện dưới dạng không hành động (không thực hiện bất cứ hành vi nào xâm phạm đến quyền lợi của chủ thể có quyền). Quan hệ tuyệt đối có thể là quyền sở hữu, quyền tác giả đối với tài sản trí tuệ… Trong những quan hệ này, chủ sở hữu, tác giả là người có quyền, những chủ thể khác là chủ thể nghĩa vụ. Họ có nghĩa vụ tôn trọng chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu của mình, không xâm phạm đến quyền tác giả. Các loại quyền tuyệt đối thường được pháp luật ghi nhận mà không được tạo bởi sự thỏa thuận của các bên.

– Quan hệ pháp luật dân sự tương đối là những quan hệ pháp luật trong đó ứng với chủ thể quyền xác định là những chủ thể mang nghĩa vụ cũng được xác định (trong các quan hệ nghĩa vụ hợp đồng, bồi thường thiệt hại…

Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền để thoả mãn yêu cầu của mình, vào sự tác động của chủ thể, vào hành vi thực hiện, quan hệ dân sự được phân chia thành quan hệ vật quyền và quan hệ trái quyền.

– Quan hệ vật quyền liên quan đến một vật nhất định. Chủ thể quyền có thể thỏa mãn yêu cầu của mình thông qua hành vi của chính mình, không phụ thuộc vào hành vi của người khác (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng tài sản…).

– Quan hệ trái quyền là những quan hệ dân sự trong đó chủ thể có quyền thực hiện quyền để thoả mãn yêu cầu của mình thông qua hành vi của chủ thể có nghĩa vụ, phụ thuộc vào ý chí của người khác. Người có quyền có thể “yêu cầu” người có nghĩa vụ thực hiện những hành vi là khách thể của quan hệ nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ.

Câu 5: Trình bày khái niệm sự kiện pháp lý?

Đáp án:

Là những sự kiện xảy ra trong thực tế mà pháp luật dự liệu, quy định làm phát sinh các hậu quả pháp lý (có thể làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự). Một sự kiện xảy ra trong thực tế có thể làm phát sinh nhiều hậu quả pháp lý.

Ví dụ: Một người chết làm chấm dứt tư cách chủ thể của họ đồng thời làm phát sinh quan hệ thừa kế.

Câu 6: Phân loại sự kiện pháp lý?

Đáp án:

Có nhiều cách phân chia sự kiện pháp lý, dựa vào hậu quả pháp lý và các giai đoạn biến động của quan hệ pháp luật dân sự có thể phân chia sự kiện pháp lý thành các sự kiện làm phát sinh, các sự kiện làm thay đổi, các sự kiện làm chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Nhưng thông thường các sự kiện pháp lý được phân loại theo nguồn gốc phát sinh.

+ Hành vi pháp lý:

Là hành vi có mục đích của các chủ thể nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý (phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự). Hành vi pháp lý được coi là căn cứ phổ biến nhất được Bộ luật dân sự 2015 quy định làm phát sinh hậu quả pháp lý. Đó là phương tiện để thực hiện ý chí của các chủ thể tạo ra các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng. Các hành vi pháp lý được phân chia thành hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.

– Hành vi hợp pháp là những hành vi có chủ định của các chủ thể được tiến hành phù hợp với các quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự (như sự giao kết hợp đồng mua bán tài sản làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên mua bán).

– Hành vi bất hợp pháp là những hành vi được thực hiện trái với quy định của pháp luật, các nguyên tắc chung của pháp luật và đạo đức xã hội. Khi có hành vi bất hợp pháp sẽ bị áp dụng các chế tài của pháp luật làm phát sinh hậu quả pháp lý (không thực hiện hợp đồng, gây thiệt hại cho người khác).

– Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hậu quả pháp lý cũng thuộc hành vi pháp lý (quyết định cấp đất, phán quyết của tòa án về bồi thường thiệt hại).

+ Sự biến pháp lý:

Sự biến pháp lý là những sự kiện xảy ra không phụ thuộc vào ý muốn của con người nói chung và những người tham gia vào quan hệ dân sự nói riêng. Sự biến pháp lý chỉ có ý nghĩa khi pháp luật quy định trước những hậu quả pháp lý.

– Sự biến tuyệt đối là những sự kiện xảy ra trong thiên nhiên hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn của con người (động đất, núi lửa, lũ lụt, sét..).

– Sự biến tương đối là những sự kiện xảy ra do hành vi của con người tiến hành nhưng không phụ thuộc vào hành vi của chủ thể tham gia và làm phát sinh hậu quả pháp lý đối với họ.

+ Thời hạn:

Là sự kiện pháp lý đặc biệt làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Thời gian là khái niệm thuộc phạm trù triết học không có bắt đầu và kết thúc, thời gian trôi đi không phụ thuộc vào ý chí của con người. Đến một thời điểm nhất định nào đó, theo quy định của luật dân sự sẽ làm phát sinh hậu quả pháp lý (thời hiệu hưởng quyền, miễn trừ nghĩa vụ, thời hiệu khởi kiện).

Câu 7: Trình bày khái niệm năng lực pháp luật dân sự của cá nhân?

Đáp án:

“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự’ (khoản 1 Điều 16 BLDS năm 2015). Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng, là tiền đề, điều kiện cần thiết để công dân có quyền, cổ nghĩa vụ; là thành phần không thể thiếu được của cá nhân với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, là một mặt của năng lực chủ thể.

Câu 8: Trình bày đặc điểm năng lực pháp luật của cá nhân?

Đáp án:

– Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; vào hình thái kinh tế – xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.

– Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật, khoản 2 Điều 16 BLDS năm 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau”. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhẫn không bị hạn chế bôi bất cứ lý do nào (độ tuổi, địa vị xã hội, giới tính, tôn giáo, dân tộc…). Mọi nhân công dân đều có khả năng hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau.

– Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định cho tất cả cá nhân nhưng Nhà nước cũng không cho phép công dân tự hạn chế năng lực pháp luật của chính họ và của cá nhân khác. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính nhân thân của chủ thể và không thể dịch chuyển cho chủ thể khác. Điều 18 BLDS năm 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không thế bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định”. 

– Tính bảo đảm của năng lực pháp luật dân sự: Khả năng có quyền và nghĩa vụ vẫn chỉ tồn tại là những quyền khách quan mà pháp luật quy định cho các chủ thể. Để biến những “khả năng” này thành các quyền dân sự cụ thể cần phải có những điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Nhà nước ta đang thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo những điều kiện thuận lợi để phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế nhằm đáp ứng ngày càng cao những nhu cầu của nhân dân.

Câu 9: Trình bày nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân?

Đáp án:

Điều 17 BLDS năm 2015 quy định nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, những quyền dân sự cụ thể của cá nhân được ghi nhận trong tất cả các phần của BLDS. Có thể chia quyền dân sự của cá nhân thành ba nhóm chính:

– Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Đặc điểm quan trọng nhất trong các quy định về quyền nhân thân trong BLDS năm 2015 là xác nhận lại các quyền nhân thân đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trước đó (quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền xác định lại giới tính, quyền hiến, nhận mô bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác…) và các quyền nhân thân lần đầu tiên được ghi nhận (quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, chuyển đổi giới tính, quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình…). Ngoài ra, bảo vệ, tôn trọng quyền nhân thân còn được ghi nhận là một nguyên tắc quan trọng của BLDS.

– Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, quyền thừa kế. Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, BLDS năm 2015 quy định tài sản thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị, bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác. Cá nhân chỉ bị hạn chế quyền sở hữu đối với các tài sản mà pháp luật quy định không thuộc quyền sở hữu tư nhân.

Công dân có quyền hưởng di sản thừa kế, để lại di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.

– Quyền tham gia vào quan hệ dân sự và có các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ đó. Tham gia vào các quan hệ dân sự thông qua các giao dịch dân sự (hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng) là biện pháp quan trọng và thông dụng nhất làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Các quyền này được thể hiện trong các nguyên tắc của luật dân sự “tự do, tự nguyện cam kết” (Điều 3 BLDS) và được thể hiện cụ thể, chi tiết trong Phần thứ ba của BLDS. Ngoài ra, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể còn phát sinh từ các căn cứ khác (bồi thường thiệt hại, thực hiện công việc không có uỷ quyền…).

Câu 10: Trình bày về trường hợp bắt đầu và chấm dứt năng lực pháp luật dân sự của cá nhân?

Đáp án:

“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”’ (khoản 3 – Điều 16 BLDS). Với quy định này, pháp luật thừa nhận năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính gắn liền với cá nhân suốt đời và không bị ảnh hưởng bởi trạng thái tinh thần, tuổi tác, hoàn cảnh, tài sản…

Một trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định là: “Người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người đế lại di sản thừa kể chết” vẫn được hưởng di sản thừa kế của người chết để lại. Như vậy, thai nhi đã được bảo lưu quyền thừa kế nếu còn sống sau khi sinh ra.

Câu 11: Trình bày về các trường hợp được tuyên bố là đã chết?

Đáp án:

* Theo quy định tại Điều 71 BLDS năm 2015, trong 4 trường hợp sau, toà án có thể tuyên bố một người là đã chết.

– Sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của toà án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức là người đó còn sống. Trong trường hợp này việc tuyên bố một người bị mất tích tạm dừng năng lực chủ thể của họ được diễn ra theo hướng chấm dứt tư cách chủ thể của người đó. Sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của toà án có hiệu lực pháp luật mà không cần đòi hỏi thêm một thủ tục thông báo nào (của toà án cũng như người có quyền, lợi ích liên quan) toà án có thể tuyên bố người đó là đã chết.

– Biệt tích đã năm năm liền trở lên và không có tin tức là còn sống hay đã chết. Khi một người biệt tích thì phải áp dụng các quy định về thông báo, tìm kiếm giống như trường hợp tìm kiếm người mất tích. Sau hai năm có thể tuyên bố mất tích, sau năm năm có thể tuyên bố là đã chết. Nếu có tuyên bố mất tích thì phải áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 81 BLDS, nếu không tuyên bố mất tích thì biệt tích năm năm liền trở lên toà án có thể tuyên bố một người là đã chết. Thời hạn năm năm được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 BLDS năm 2015.

– Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. Điểm b khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015 không quy định phải thông báo tìm kiếm trong trường hợp biệt tích trong chiến tranh. Ngày chiến tranh kết thúc có thể quy định khác nhau: ngày chiến thắng, ngày tuyên bố chấm dứt chiến tranh, ngày ký hiệp định đình chiến, hoà bình, ngày tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tranh… Tùy theo từng hoàn cảnh và các cuộc chiến tranh cụ thể mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định hoặc được xác định theo thông lệ quốc tế.

– Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm kể từ ngày chấm dứt các sự kiện đó mà không có tin tức là còn sống. Người bị tuyên bố là đã chết phải ở trong số người bị tai nạn (cư dân trong các vùng bị động đất, núi lửa, sóng thần; hành khách trong các tai nạn giao thông đường thuỷ, đường bộ, đường hàng không; người trong hầm lò bị sập, trên tàu bị đắm, bị lốc cuốn… mà không xác định được hoặc do không tìm thấy thi thể nạn nhân).

Câu 12: Trình bày quy định về việc tuyên bố mất tích theo Luật dân sự?

Đáp án:

Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án có thể tuyên bố người đó mất tích (Điều 68 BLDS).

Câu 13: Trình bày hậu quả của việc tuyên bố mất tích?

Đáp án:

– Hậu quả của việc tuyên bố mất tích: Việc tuyên bố một người mất tích kéo theo những hậu quả pháp lý nhất định: Tạm thời đình chỉ tư cách chủ thể của người bị tuyến bố là mất tích, tuy nhiên quyết định này không làm chấm dứt tư cách chủ thể của họ. Tài sản của người bị tuyên bố mất tích được quản lý theo quyết định của toà án được quy định tại các điều 65, 66, 67, 69 BLDS năm 2015 về quản lý tài sản của người vắng mặt, của người bị tuyên bố là mất tích; quyền và nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt, người bị tuyên bố là mất tích.

Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là mất tích xin li hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn.

Câu 14: Trình bày về việc hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích?

Đáp án:

– Huỷ bỏ việc quyết định tuyên bố mất tích: Việc tuyên bố một người là mất tích chỉ tạm dừng năng lực chủ thể của người đó. Việc tạm dừng này có thể thay đổi theo một trong hai hướng: phục hồi năng lực chủ thể hoặc chấm dứt tư cách chủ thể. Việc chấm dứt tư cách chủ thể được diễn ra khi có tin tức rằng họ đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết. Phục hồi tư cách chủ thể của người bị tuyên bố là mất tích xảy ra trong hai trường hợp: người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức chứng tỏ người đó còn sống. Khi có một trong hai trường hợp đó thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người đó mất tích. Người bị tuyên bố mất tích trở về có quyền yêu cầu người quản lý tài sản trả lại tài sản cho mình. Tuy nhiên, quyết định ly hôn của vợ hoặc chồng người bị tuyên bố là mất tích vẫn có hiệu lực pháp luật.

Câu 15: Trình bày về nội dung người có khó khăn trong việc nhận thức avf làm chủ hành vi?

Đáp án:

Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Ví dụ: Một người do tai nạn giao thông mà não bị tổn thương dẫn đến trong cuộc sống có lúc nhận thức được sự việc xung quanh, có lúc lại không nhận thức được sự việc xung quanh.

Câu 16: Điều kiện để xác định một người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi?

Đáp án:

Để xác định một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải có đủ các điều kiện:

– Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: người thành niên trong tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự;

– Có yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan;

– Có kết luận giám định pháp y tâm thần;

– Có quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Câu 17: Trình bày về quy định một người được coi là mất năng lực hành vi dân sự?

Đáp án:

Quy định tại điều 22 BLDS năm 2015

  1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

  1. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

Câu 18: Trình bày quy định về người được giám hộ?

Đáp án:

Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người được giám hộ bao gồm:

  1. a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;
  2. b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị toà án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;
  3. c) Người mất năng lực hành vi dân sự;
  4. d) Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Như vậy người chưa thành niên chỉ là người được giám hộ khi không còn hoặc không thể xác định được cha mẹ như trường hợp những đứa trẻ bị bỏ rơi khi mới đẻ hoặc còn cha mẹ nhưng lại không có sự quan tâm, chăm sóc giáo dục của cha mẹ. BLDS năm 2015 bổ sung một đối tượng cũng được giám hộ so với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 là người cổ khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Câu 19: Điều kiện để cá nhân trở thành người giám hộ?

Đáp án:

Điều kiện để cá nhân trở thành người giám hộ.

Theo điều 49 Bộ luật dân sự 2015 quy định về cá nhân để trở thành người giám hộ như sau:

Cá nhân có đủ các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:

  1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
  2. Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
  3. Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
  4. Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.

Câu 20: Điều kiện để pháp nhân trở thành người giám hộ?

Đáp án:

Thứ nhất, pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám hộ. Tức là, ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của pháp nhân đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải phù hợp với chức năng đại diện cho một cá nhân khác cần người giám hộ. Những pháp nhân trở thành người giám hộ cho người được giám hộ như Trung tâm dưỡng lão, Viện trẻ mồ côi… sẽ làm người giám hộ cho người già neo đơn, trẻ mồ côi… hoặc các Viện bảo trợ xã hội trong lúc đang trực tiếp chăm sóc các đối tượng cần được bảo trợ.

Thứ hai, pháp nhân có điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Cũng giống cá nhân, pháp nhân thực hiện các nhiệm vụ của người giám hộ cũng cần có các điều kiện cần thiết như cơ sở vật chất, nhân lực. Ví dụ như Bệnh viện tâm thần đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng bệnh nhân mắc bệnh tâm thần – người đã bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự – nhưng không có người giám hộ đương nhiên thì Toà án xem xét để cử chính Bệnh viện này là người giám hộ cho bệnh nhân của mình.

Câu 21: Trình bày quy định chung về nơi cư trú của cá nhân?

Đáp án:

Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống; nếu không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống. Nơi cư trú của người chưa thành niên, người được giám hộ là nơi cư trú của cha, mẹ, của người được giám hộ. Nếu cha mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của con chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Tuy nhiên, người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác nếu được cha mẹ hoặc người giám .hộ đồng ý hoặc pháp luật có quy định. Vợ chồng có thể có nơi cư trú khác nhau nếu có thỏa thuận (các điều 41,42,42 BLDS năm 2015).

Một số người do hoàn cảnh đặc biệt về nghề nghiệp có thể không có nơi ở nhất định, vì vậy các điều 44, 45 BLDS năm 2015 xác định nơi cư trú của những người này. Nơi cư trú của quân nhân là nơi đơn vị đó đóng quân; đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, nơi cư trú là nơi đóng quân nếu không xác định được nơi thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền, phương tiện hành nghề lưu động khác là nơi đăng ký tàu, thuyền, phương tiện đó, trừ trường hợp họ có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Điều 41 BLDS năm 2015.

Nơi cư trú được xác định theo đơn vị hành chính (xã, phường; quận, huyện; tinh). Việc xác định nơi cư trú của cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện và bảo vệ quyền của cá nhân, bảo đảm sự ổn định các quan hệ dân sự và sự quản lý về mặt nhà nước đối với cá nhân.

Nơi cư trú là nơi thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, nơi mở thừa kế khi công dân chết, nơi xác định cá nhân là đã chết hoặc mất tích, nơi tống đạt các giấy tờ, nơi toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện dân sự mà cá nhân là bị đơn (thẩm quyền quản hạt của toà án). Trường hợp một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới.

Nơi cư trú của công dân không đồng nghĩa với nơi làm việc của cá nhân. Nơi làm việc của cá nhân là nơi thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng lao động nhưng có thể nơi cư trú trùng với nơi làm việc.

Nơi cư trú của cá nhân thông thường là nơi ở của cá nhân đó nhưng do những hoàn cảnh đặc biệt nơi cư trú có thể khác nơi ở (Điều 44, Điều 45 BLDS năm 2015).

Câu 22: Quy định về việc cư trú của người nước ngoài ?

Đáp án:

Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là người không có quốc tịch Việt Nam mang quốc tịch của một nước khác mà thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam.

Câu 23: Trình bày khái niệm pháp nhân? 

Đáp án:

Pháp nhân là một tổ chức nhất định của con người, được pháp luật của một Nhà nước quy định có quyền năng chủ thể. Tuy nhiên, không phải bất kỳ một tổ chức nào cũng được Nhà nước công nhận có tư cách pháp nhân. Chỉ những tổ chức được thành lập theo trình tự, thủ tục và có đủ các điều kiện do pháp luật quy định hoặc tồn tại trên thực tế đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định và được Nhà nước công nhận thì mới có tư cách pháp nhân. 

Câu 24: Điều kiện để có tư cách pháp nhân theo Luật dân sự?

Đáp án: 

Theo điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là có tư cách pháp nhân khi đủ 4 điều kiện sau:

“a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;

  1. b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
  2. c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
  3. d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.”

Câu 25: Doanh nghiệp nào có tư cách pháp nahan theo quy định của pháp luật hiện hành?

Đáp án:

Theo Luật Doanh nghiệp 2020, hiện nay có 05 loại hình doanh nghiệp bao gồm:

– Công ty TNHH 2 thành viên trở lên;

– Công ty TNHH 1 thành viên;

– Công ty cổ phần;

– Công ty hợp danh.

Câu 26: Trình bày quy định về đại diện của pháp nhân?

Đáp án:

Theo Điều 85 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về đại diện của pháp nhân như sau: Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Người đại diện của pháp nhân phải tuân theo quy định về đại diện tại Chương IX Phần này.

Theo đó, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:

+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ

+ Người có thẩm quyền đại diện do pháp luật quy định

+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án

Câu 27: Trình bày về hộ gia đình trong quan hệ dân sự?

Đáp án:

Trường hợp hộ gia đình tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết. Trường họp thành viên của hộ gia đình tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác uỷ quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện. Trường hợp thành viên không có quyền đại diện mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh các thành viên khác của hộ gia đình hoặc người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì hậu quả pháp lý của giao dịch được áp dụng theo quy định tại các điều 130,142 và 143 BLDS năm 2015.

Giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện mà gây thiệt hại cho thành viên khác của hộ gia đình hoặc người thứ ba thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất (khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013).

Câu 28: Trình bày về trách nhiệm của thành viên hộ gia đình trong quan hệ dân sự?

Đáp án:

Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của BLDS năm 2015.

Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thoả thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp không có thoả thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại BLDS năm 2015 và luật khác có liên quan.

Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của các thành viên. Trường hợp các thành viên không có hoặc không đủ tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ chung thì người có quyền có thể yêu cầu các thành viên thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 288 BLDS năm 2015. Trường hợp các bên không có thoả thuận, hợp đồng hợp tác hoặc luật không có quy định khác thì các thành viên chịu trách nhiệm dân sự theo phần tương ứng với phần đóng góp tài sản của mình, nếu không xác định được theo phần tương ứng thì xác định theo phần bằng nhau.

Câu 29: Trình bày về tổ hợp tác trong quan hệ dân sự?

Đáp án:

Theo Điều 504 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS), tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác. Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản.

Nội dung chủ yếu của hợp đồng hợp tác được quy định tại Điều 505 BLDS bao gồm: Mục đích, thời hạn hợp tác; Họ, tên, nơi cư trú của cá nhân; tên, trụ sở của pháp nhân; Tài sản đóng góp, nếu có; Đóng góp bằng sức lao động, nếu có; Phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức; Quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác; Quyền, nghĩa vụ của người đại diện, nếu có; Điều kiện tham gia và rút khỏi hợp đồng hợp tác của thành viên, nếu có; Điều kiện chấm dứt hợp tác.

Câu 30: Trình bày về tài sản chung của các thành viên tổ hợp tác?

Đáp án:

Tài sản của tổ hợp tác là điều kiện vật chất để tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đã đăng ký hoạt động và chịu trách nhiệm dân sự. Tài sản do các thành viên đóng góp, cùng tạo lập và tài sản khác theo quy định của pháp luật là tài sản chung theo phần của các thành viên hợp tác.

Trường hợp có thỏa thuận về góp tiền mà thành viên hợp tác chậm thực hiện thì phải có trách nhiệm trả lãi đối với phần tiền chậm trả theo quy định tài Điều 357 về Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền và phải bồi thường thiệt hại.

Việc định đoạt tài sản là quyền sử dụng đất, nhà, xưởng sản xuất, tư liệu sản xuất khác phải có thỏa thuận bằng văn bản của tất cả các thành viên. Việc định đoạt tài sản khác do đại diện của các thành viên quyết định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Không được phân chia tài sản chung trước khi chấm dứt hợp đồng hợp tác, trừ trường hợp tất cả thành viên hợp tác có thỏa thuận. Việc phân chia tài sản chung không làm thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ được xác lập, thực hiện trước thời điểm tài sản được phân chia.

CHƯƠNG III: GIAO DỊCH DÂN SỰ, ĐẠI DIỆN, THỜI HẠN VÀ THỜI HIỆU 

 Câu 1: Khái niệm và ý nghĩa của giao dịch dân sự?

Đáp án:

+ Khái niệm:

“Giao Dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 116 Bộ luật dân sự năm 2015).

+ Ý nghĩa:

– Dựa trên các mục đích của giao dịch dân sự thì ý nghĩa của giao dịch dân sự chính là việc kết quả của giao dịch đó có đạt mục đích ban đầu mà các bên tiến hành hay không. Cũng có những trường hợp hậu quả pháp lý phát sinh không phù hợp với mong muốn ban đầu (với mục đích pháp lý). Điều đó có thể xảy ra do một trong hai nguyên nhân chính. Nguyên nhân thứ nhất là khi giao dịch đó là bất hợp pháp.

Ví dụ: Khi người mua đã mua phải đồ trộm cắp thì không được xác lập quyền sở hữu mà có nghĩa vụ phải hoàn trả cho chủ sở hữu tài sản đó (người bán không phải là chủ sở hữu tài sản thì không thể chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho người mua). Nguyên nhân thứ hai là do chính các bên không tuân thủ nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch có hiệu lực. Ví dụ: Sau khi xác lập giao dịch, bên bán không thực hiện nghĩa vụ bàn giao vật cho nên họ phải chịu trách nhiệm dân sự.

– Mục đích pháp lý của giao dịch khác với động cơ xác lập giao dịch. Động cơ xác lập giao dịch dân sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia giao dịch. Động cơ của giao dịch không mang tính pháp lý. Khi xác lập giao dịch, nếu như động cơ không đạt được thì điều đó cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch. Mục đích luôn luôn được xác định còn động cơ có thể được xác định hoặc không. Ví dụ: Mua bán nhà ở – mục đích của người mua là quyền sở hữu nhà, còn động cơ có thể để ở, có thể để cho thuê, có thể bán lại…

– Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lí quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, thông qua giao dịch dân sự (hợp đồng) các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và các nhu cầu khác trong đời sống hàng ngày của mình.

Câu 2: Phân loại giao dịch dân sự?

Đáp án:

Có 2 loại giao dịch dân sự:

– Hành vi pháp lý đơn phương: là giao dịch thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm phát sinh quan hệ dân sự mà không cần ý chí của các chủ thể khác. Hành vi pháp lý đơn phương có thể do một hoặc nhiều chủ thể ở cùng một bên bày tỏ ý chí. Ví dụ: Lập di chúc chung.

Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi có điều kiện do chủ thể bày tỏ ý chí đặt ra, phía bên kia phải đáp ứng mới làm phát sinh nghĩa vụ của bên bày tỏ ý chí đơn phương. Ví dụ: phát sinh nghĩa vụ trả lương.

– Hợp đồng dân sự: là giao dịch thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên chủ thể ở hai phía của giao dịch, làm phát sinh, thay đổi . chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ: hợp đồng mua bán xe đạp.

=> Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hay hợp đồng đều có thể là giao dịch có điều kiện.

Câu 3: Trình bày về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự?

Đáp án:

Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là các yếu tố cần và đủ được pháp luật quy định cho giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật (để giao dịch dân sự đó được pháp luật công nhận và bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp của các bên).

Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự bao gồm:

1) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;

2) Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

3) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;

4) Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.

Câu 4: Trình bày khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu?

Đáp án:

Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Một giao dịch hợp pháp phải tuân thủ ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (trong một sổ trường hợp cụ thể phải tuân thủ thêm điều kiện về hình thức). Vì vậy, về nguyên tắc giao dịch không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì sẽ bị vô hiệu. Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng ưong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong giao lưu dân sự.

Câu 5: Trình bày các loại giao dịch dân sự vô hiệu?

Đáp án:

Các giao dịch dân sự vô hiệu bao gồm nhiều trường hợp khác nhau. Dựa trên các căn cứ phân loại khác nhau mà giao dịch được phân theo từng loại tương ứng. Cách thức phân loại giao dịch dân sự vô hiệu phổ biến hiện nay gồm:

  1. Căn cứ vào trình tự, thủ tục xác nhận giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự vô hiệu được phân thành hai loại: giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vô hiệu tương đối;
  2. Căn cứ vào mức độ vô hiệu thì giao dịch dân sự vô hiệu được phân thành hai loại: giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ và giao dịch dân sự vô hiệu một phần;
  3. Căn cứ vào nguyên nhân vô hiệu thì giao dịch dân sự vô hiệu được phân thành bốn nhóm theo từng trường hợp vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gồm:

(i) Giao dịch dân sự vô hiệu do chủ thể không có năng lực chủ thể phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

(ii) Giao dịch dân sự vô hiệu do chủ thể tham gia giao dịch không có sự tự nguyện;

(iii) Giao dịch dân sự vô hiệu do mục đích và nội dung của giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;

(iv) Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức của giao dịch.

Câu 6: Một giao dịch bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong trường hợp nào?

Đáp án:

Một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau: a) Khi vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức của xã hội (Điều 123 BLDS năm 2015); b) Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba (Điều 124 BLDS năm 2015); c) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật (Điều 129 BLDS năm 2015);

Câu 7: Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối trong trường hợp nào?

Đáp án:

Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối ưong các trường hợp: a) Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 125 BLDS năm 2015); b) Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 126 BLDS năm 2015); c) Khi một bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép (Điều 127 BLDS năm 2015); d) Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 128 BLDS năm 2015).

Câu 8: Trình bày về loại giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội?

Đáp án:

Điều 123 BLDS năm 2015 quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội cùng những hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu dạng này. Vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội bao gồm nội dung, mục đích của giao dịch trái pháp luật và đạo đức xã hội (xem mục 3). Giao dịch vi phạm quy định này đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao dịch. Tài sản giao dịch và lợi tức thu được có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước (ví dụ: trường hợp mua bán thuốc phiện, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm…). Trong trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi, thì họ phải chịu phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Neu chỉ một bên có lỗi thì bên đó phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.

Câu 9: Trình bày về loại giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức của giao dịch?

Đáp án:

Theo quy định tại Điều 129 bộ luật dân sự năm 2015 về nguyên tắc chung thì các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu. Khi các bên không tuân thủ các quy định này thì vô hiệu, trừ những trường hợp sau đây:

– Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, toà án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;

– Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, toà án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Câu 10: Trình bày về loại giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo?

Đáp án:

Trường hợp vô hiệu do giả tạo có điểm đặc biệt là các bên trong giao dịch đó hoàn toàn tự nguyện xác lập giao dịch nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực của họ (có sự tự nguyện nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí – Điều 124 BLDS năm 2015)).

Có hai trường hợp giả tạo. Trường hợp thứ nhất là giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác. Khi đó giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực nếu như giao dịch bị che giấu đó đáp ứng được đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Ví dụ: Giao kết hợp đồng mua bán tài sản với giá rẻ tượng trưng nhằm che giấu hợp đồng tặng cho tài sản.

Trường hợp thứ hai là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Ví dụ: Các bên thỏa thuận giao kết hợp đồng tặng cho nhưng không làm phát sinh quyền của người được tặng cho (hợp đồng tưởng tượng) nhằm trốn tránh việc trả nợ người cho vay trước đó. Khi đó hợp đồng tặng cho giả tạo đó sẽ bị vô hiệu.

Câu 11: Trình bày về loại giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép?

Đáp án:

Theo Điều 127 BLDS năm 2015 thì lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

=> Những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa, cưỡng ép chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, bị cưỡng ép và tòa án chấp nhận yêu cầu đó. Như vậy, những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực nếu không có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, bị cưỡng ép. Khi giao dịch bị tuyên bố vô hiệu, bên lừa dối, đe dọa phải bồi thường những thiệt hại xảy ra đối với bên bị lừa dối, bị đe doạ.

Câu 12: Trình bày về loại giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình?

Đáp án:

Theo Điều 128 BLDS năm 2015 trường hợp này chỉ áp dụng cho những người có năng lực hành vi dân sự. Tại thời điểm giao kết nếu người đó bị rơi vào tình trạng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (ví dụ: say rượu…) thì sau đó chính người đó có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Việc phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia giao dịch.

Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là một thể thống nhất trong mối quan hệ biện chứng. Bởi vậy, xem xét một giao dịch phải đặt nó trong tổng thể của mối quan hệ biện chứng này. Nếu giao dịch vô hiệu từng phần mà không ảnh hưởng đến các phần khác thì chỉ phần vô hiệu không có hiệu lực, các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.

Câu 13: Trình bày hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu?

Đáp án:

Về nguyên tắc chung, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyển, nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu (hoàn nguyên) như khi chưa xác lập giao dịch, cho nên nếu giao dịch chưa được thực hiện thì các bên không được thực hiện giao dịch đó. Nếu giao dịch đã được thực hiện toàn bộ hay một phần thì các bên không được tiếp tục thực hiện giao dịch và phải hoàn trả cho nhau những lợi ích vật chất đã nhận của nhau. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại (khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015).

Thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập đối với các giao dịch dân sự được xác lập do người không đủ năng lực hành vi, do nhầm lẫn, đe doạ, lừa dối, do không tuân thủ các quy định bắt buộc về hình thức. Những giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, thời hạn tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế.

Câu 14: Trình bày khái niệm đại diện theo luật dân sự?

Đáp án:

Trong giao lưu dân sự, các chủ thể có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhưng ưong những trường hợp nhất định có thể thông qua hành vi của người khác là người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền của mình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2015: Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự…

Đại diện là một quan hệ pháp luật. Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Người được đại diện có thể là cá nhân không có năng lực hành vi, chưa đủ năng lực hành vi nên theo quy định của pháp luật phải có người đại diện trong quan hệ pháp luật. Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi có thể uỷ quyền cho người khác là đại diện theo uỷ quyền của mình. Pháp nhân hoạt động thông qua hành vi của những người nhất định có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó.

Câu 15: Phân loại đại diện theo pháp luật dân sự?

Đáp án:

+ Đại diện theo pháp luật:

Đại diện theo pháp luật là đại diện được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 135 BLDS năm 2015).

Đại diện được quy định theo pháp luật chung là đại diện mặc nhiên, ổn định về người đại diện, về thẩm quyền đại diện… Đó là các trường hợp: Cha, mẹ đại diện cho con vị thành niên, người đứng đầu pháp nhân đại diện cho pháp nhân, người giám hộ đương nhiên đại diện cho người được giám hộ. Đại diện theo “quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” là đại diện theo quyết định của cơ quan hành chính trong những trường hợp riêng biệt. Đó là các trường hợp: Người giám hộ cử đối với người được giám hộ, người được toà án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong một số trường hợp nhất định người đứng đầu pháp nhân có thể được xác định theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

+ Đại diện theo ủy quyền:

Có nhiều lý do khác nhau để cá nhân, người đứng đầu pháp nhân, các thành viên hộ gia đình, các thành viên tổ hợp tác… không thể trực tiếp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Pháp luật cho phép họ có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia giao dịch.

Khác với đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, đại diện theo uỷ quyền là trường hợp quan hệ đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên – bên đại diện và bên được đại diện, biểu hiện qua hợp đồng uỷ quyền hoặc giấy uỷ quyền. Nội dung uỷ quyền, phạm vi thẩm quyền đại diện và trách nhiệm của người đại diện theo uỷ quyền được xác định thông qua sự thoả thuận của người đại diện và người được đại diện.

Ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm.

Ngoại lệ, có một số trường hợp pháp luật không cho phép xác lập giao dịch thông qua người đại diện (bất kể đại diện theo pháp luật hay theo uỷ quyền) như lập di chúc…

Người đại diện (cả người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền) có thể là cá nhân hoặc pháp nhân (nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ). Ngoại lệ, riêng đối với đại diện theo uỷ quyền thì người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Câu 16: Trình bày về việc chấm dứt đại diện đối với cá nhân?

Đáp án:

Đại diện theo pháp luật cùa cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:

– Người được đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục. Trong trường hợp này người được đại diện đã đầy đủ năng lực hành vi dân sự để tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, quan hệ đại diện không cần phải tiếp tục tồn tại.

– Người đại diện hoặc người được đại diện chết làm chấm dứt tư cách chủ thể mọi quan hệ pháp luật của họ, trong đó có quan hệ đại diện.

Các trường hợp khác do pháp luật quy định.

Đại diện theo uỷ quyền của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:

– Thời hạn uỷ quyền đã hết hoặc công việc được uỷ quyền đã hoàn thành.

– Người uỷ quyền huỷ bỏ việc uỷ quyền hoặc người được uỷ quyền từ chối việc uỷ quyền. Trong trường hợp này quan hệ uỷ quyền chấm dứt theo ý chí của các chủ thể khi xuất hiện điều kiện để họ huỷ bỏ hoặc từ chối việc uỷ quyền.

– Người uỷ quyền hoặc người được uỷ quyền chết, bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị toà án tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố chết. Mỗi sự kiện trong số các sự kiện này đều làm cho việc uỷ quyền trở nên không thể thực hiện được, quan hệ đại diện phải chẩm dứt.

Câu 17: Trình bày về việc chấm dứt đại diện đối với pháp nhân?

Đáp án:

– Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt, đó là các trường hợp: hợp nhất pháp nhân, sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân, giải thể pháp nhân, pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Pháp nhân chấm dứt đồng thời làm chấm dứt đại diện theo pháp luật của pháp nhân.

– Đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp: Khi hết thời hạn uỷ quyền hoặc công việc được uỷ quyền đã hoàn thành; khi người đại diện theo pháp luật của pháp nhân huỷ bỏ việc uỷ quyền; khi pháp nhân chấm dứt hoặc người được uỷ quyền chết, bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.

Câu 18: Trình bày khái niệm thời hạn?

Đáp án:

+ Khái niệm thời hạn:

Thời hạn là một khái niệm thể hiện trình tự biến đổi của thế giới vật chất dưới góc độ triết học, thời gian luôn mang tính khách quan, không có bắt đầu và kết thúc, trô dần đều theo một quy luật duy nhất và không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, còn thời hạn là một khoảng thời gian có điểm đầu và điểm cuối xác định.

Do đó, thời hạn vừa mang tính khách quan của thời gian nói chung đồng thời lại mang tính chủ quan của thời gian nói chung đồng thời lại mang tính chủ quan của người định ra điểm đầu và điểm cuối.

Theo quy định tại Điều 144 – Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về khái niệm thời hạn như sau: “ Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác”.

Câu 19: Trình bày ý nghĩa của thời hạn?

Trong giao lưu dân sự, thời hạn có vai trò quan trọng trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể tham gia. Thời hạn với tư cách là một sự kiện pháp lý đặc biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong những trường hợp do pháp luật quy định hoặc các bên thỏa thuận.

Câu 20: Trình bày về cách phân loại thời hạn?

Đáp án:

Dựa vào tính xác định mà thời hạn được phân thành: 

+ Thời hạn xác định là loại thời hạn được quy định rõ ràng bằng cách xác định chính xác thời điểm bắt đầu, kết thúc. 

+ Thời hạn không xác định là thời hạn trong đó chỉ quy định một cách tương đối khoảng thời gian mà không xác định chính xác thời gian đó.

Trong các trường hợp này, pháp luật thường sử dụng các thuật ngữ: “kịp thời”, “khoảng thời gian hợp lý”, “khi có yêu cầu”…

Trường hợp các bên không thỏa thuận về thời điểm kết thúc thời hạn thì thời hạn kết thúc khi bên có quyền yêu cầu hoặc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.

Tuy nhiên, nếu những ngày này là ngày chủ nhật, ngày nghỉ lễ thì thời hạn cũng được xác định theo quy tắc chung – ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó mới là ngày kết thúc thời hạn.

Dựa vào trình tự xác lập mà thời hạn được phân thành ba nhóm, cụ thể như sau:

+ Thời hạn do Pháp luật quy định là thời hạn pháp luật quy định bắt buộc đối với các chủ thể tham gia giao dịch, chủ thể không được phép thay đổi thời hạn đó.

+ Thời hạn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ấn định.

+ Thời hạn do các chủ thể tự xác định.

Câu 21: Áp dụng cách tính thời hạn như thế nào?

Đáp án:

Tính thời hạn chính là việc xác định khoảng thời gian theo thời hạn là bao nhiêu. Việc tính thời hạn phải căn cứ vào loại thời hạn (theo đơn vị thời gian hay theo sự kiện), phải xác định thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của thời hạn và phải tính theo dương lịch nếu không có thỏa thuận khác.

Tại Điều 145 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 145. Áp dụng cách tính thời hạn

  1. Cách tính thời hạn được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
  2. Thời hạn được tính theo dương lịch, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Thông thường, thời hạn được tính theo các quy định trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, căn cứ vào đối tượng của quan hệ mà các bên có thể thỏa thuận về việc tính thời hạn theo các đơn vị khác nhau.

Câu 22: Thời hạn bắt đầu từ thời điểm nào theo luật định?

Đáp án:

Bộ luật dân sự 2015 có quy định về thời điểm bắt của thời hạn như sau:

Điều 147. Thời điểm bắt đầu thời hạn

  1. Khi thời hạn được xác định bằng phút, giờ thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định.
  2. Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được xác định.
  3. Khi thời hạn bắt đầu bằng một sự kiện thì ngày xảy ra sự kiện không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề của ngày xảy ra sự kiện đó.

Câu 23: Thời điểm kết thúc thời hạn được xác định như thế nào?

Đáp án:

Thời điểm kết thúc thời hạn là thời điểm cuối cùng của thời hạn, được xác định như sau:

– Nếu thời hạn tính bằng ngày thì được xác định là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn.

– Nếu thời hạn tính bằng tuần thì được xác định tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tuần cuối cùng của thời hạn. Ví dụ: Thời hạn là 03 tuần kể từ ngày thứ sáu của tuần đầu tiên (ngày 15/7/2016) thì thời điểm kết thúc của thời hạn này sẽ là 0 giờ ngày thứ sáu của tuần thứ ba (05/8/2016).

– Nếu thời hạn được tính theo tháng thì được xác định tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tháng cuối cùng của thời hạn, nếu tháng cuối cùng không có ngày tương ứng thì xác định tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của tháng đó. Ví dụ: Thời hạn là 05 tháng tính từ 30 tháng 10 năm 2016 thì thời điểm kết thúc là 30/02/2017. Tuy nhiên, tháng 2/2017 chỉ có 28 ngày nên thời điểm kết thúc cửa thời hạn này là lúc hai tư giờ ngày 28/02/2017.

– Nếu thời hạn tính bằng năm thì xác định tại thời điểm kết thúc ngày, tháng tương ứng của năm cuối cùng của thời hạn.

Trong các trường hợp trên mà ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.

Câu 24: Trình bày khái niệm, ý nghĩa của thời hiệu?

Đáp án:

+ Khái niệm:

Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định (Điều 149 BLDS năm 2015). Như vậy, thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định, các chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự không thể thoả thuận để kéo dài hoặc rút ngắn thời hạn này.

+ Ý nghĩa:

Thời hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định các quan hệ dân sự. Nếu không quy định thời hiệu, mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự luôn bị đe dọa bởi tranh chấp có thể xảy ra, làm ảnh hưởng đến quyền lợi và đời sống của họ. Hơn nữa, thời gian làm cho quá trình chứng minh các căn cứ phát sinh quan hệ dân sự trở nên phức tạp. Khi giải quyết các tranh chấp dân sự, toà án cần phải tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ để xác định sự thật khách quan nên nếu thời gian đã qua đi quá lâu, quá trình thu thập chứng cứ khó bảo đảm chính xác (giải quyết các tranh chấp về thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 – ngày Pháp lệnh thừa kế có hiệu lực pháp luật là những ví dụ thực tế xác định khó khăn này). Đối với các tổ chức, việc quy định thời hiệu buộc các đơn vị này phải kiểm soát và có trách nhiệm trong mọi hoạt động, trong sản xuất kinh doanh, bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ thể, của Nhà nước.

Câu 25: Cách tính thời hiệu theo pháp luật dân sự?

Đáp án:

Cũng giống như thời hạn, thời hiệu được xác định theo cách thức cụ thể sau:

Thời điểm bắt đầu của thời hiệu sẽ là ngày đầu tiên của thời hiệu. Nếu thời hiệu được tính bằng đơn vị ngày thì ngày bắt đầu thời hiệu chính là ngày được ấn định thời hiệu. Ví dụ như: thời hiệu khởi kiện yêu cầu thanh toán nghĩa vụ tài sản của người có quyền tài sản với người để lại di sản tính từ ngày người để lại di sản chết. Như vậy, ngày bắt đầu tính thời hiệu là ngày người để lại di sản chết. Như vậy, dù thời hiệu tính theo đơn vị tuần, tháng hay năm thì thời điểm bắt đầu đều được tính theo đơn vị ngày và là ngày đầu tiên của thời hiệu.

Thời điểm kết thúc thời hiệu là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu. Ví dụ như, thời hiệu là 06 (sáu) tháng thì thời điểm kết thúc là kết thúc ngày thứ 30 cuối cùng của tháng thứ sáu của khoảng thời gian này. Ghi nhận cách tính cụ thể này, Bộ luật Dân sự hiện hành đã quy định cụ thể tại Điều 151 của Bộ luật.

Câu 26: Trình bày các loại thời hiệu theo pháp luật dân sự?

Đáp án:

  1. Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự.
  2. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ.
  3. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
  4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu.

Câu 27: Khai nào thì được áp dụng thời hiệu?

Đáp án:

Khoản 2 Điều 149 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau:

Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.

Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.

Như vậy, có thể thấy nếu các bên đương sự không yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa án sẽ không xem xét đến vấn đề thời hiệu. Khi một chủ thế yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu thì yêu cầu phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.

Tuy nhiên, trong trường hợp người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu từ chối áp dụng thời hiệu thì Tòa án sẽ không áp dụng thời hiệu.

Câu 28: Phân tích loại thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự?

Đáp án:

– Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự: Là khoảng thời gian do luật quy định mà khi kết thúc khoảng thời gian đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn thực hiện nghĩa vụ. Ví dụ khi mua một sản phẩm điện máy luôn đi kèm với thời gian bảo hành từ nhà sản xuất hay từ người bán sản phẩm và khi kết thúc thời gian trên thì bên bán được miễn trừ nghĩa vụ bản hành đối với sản phẩm mà mình bán ra.

Điều 446 Bộ luật dân sự 2015:

Bên bán có nghĩa vụ bảo hành đối với vật mua bán trong một thời hạn, gọi là thời hạn bảo hành, nếu việc bảo hành do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Thời hạn bảo hành được tính kể từ thời điểm bên mua có nghĩa vụ phải nhân vật.

Câu 29: Phân tích loại thời hiệu khởi kiện?

Đáp án:

– Thời hiệu khởi kiện: Là khoảng thời gian do luật quy định mà khi kết thúc khoảng thời gian đó thì mất quyền khởi kiện. Ví dụ về thời kiện khởi kiện về hợp đồng như sau:

Điều 429. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Câu 30: Phân tích về thời hiệu hưởng quyền dân sự?

Đáp án

– Thứ nhất, Thời hiệu hưởng quyền dân sự: Là khoảng thời gian do luật quy định mà khi kết thúc khoảng thời gian đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự. Ví dụ như: với trường hợp vật bị đánh rơi, bỏ quên mà sau 1 năm kể từ ngày thông báo công khai việc nhặt được mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì vật đó mới thuộc sở hữu của người nhặt được.

– Khoản 2 Điều 230 Bộ luật dân sự 2015:

Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:

  1. Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.

CHƯƠNG IV: QUYỀN SỞ HỮU VÀ CÁC QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN 

Câu 1: Trình bày khái niệm quyền sở hữu?

Đáp án:

– Khái niệm quyền sở hữu có thể được hiểu theo nghĩa rộng, đó chính là luật pháp về sở hữu trong một hệ thống pháp luật nhất định. Vì vậy, quyền sở hữu là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2015.

– Theo nghĩa hẹp, quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trong những điều kiện nhất định. Theo nghĩa này, có thể nói quyền sở hữu chính là những quyền năng dân sự chủ quan của từng loại chủ sở hữu nhất định đối với một tài sản cụ thể, được xuất hiện trên cơ sở nội dung của quy phạm pháp luật về sở hữu.

– Ngoài ra, theo một phương diện khác, quyền sở hữu còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự – quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Vì rằng bản thân nó chính là hệ quả của sự tác động của một bộ phận pháp luật vào các quan hệ xã hội (các quan hệ sở hữu). Vì vậy, theo nghĩa này quyền sở hữu bao gồm đầy đủ ba yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự: chủ thể, khách thể, nội dung như mọi quan hệ pháp luật dân sự bất kì.

Câu 2: Trình bày về chủ thể của quan hệ sở hữu?

Đáp án:

Chủ thể của quyền sở hữu là những người tham gia quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.

– Đối với những tài sản hữu hình thì chủ thể của quyền sở hữu là những người có trong tay các tài sản theo quy định tại Chương VII, Phần thứ nhất BLDS thuộc quyền sở hữu của mình (còn gọi là chủ sở hữu) được xác lập theo những căn cứ do BLDS quy định. Chủ sở hữu trong luật dân sự là cá nhân, pháp nhân, theo như quy định tại Điều 158: “có đủ ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.

Để trở thành chủ sở hữu, trong một số trường hợp pháp luật dân sự quy định phải có những điều kiện nhất định. Đối với cá nhân, để trở thành chủ sở hữu phải có năng lực pháp luật và trong một số trường hợp phải có năng lực hành vi.

Mặt khác, có những tài sản BLDS quy định chỉ thuộc quyền sở hữu của những chủ thể riêng biệt như: Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất…(Điều 197 BLDS).

–  Đối với những tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ) thì chủ thể quyền sở hữu là những người được pháp luật dân sự công nhận. Đó là chủ sở hữu tác phẩm bao gồm: Tác giả, các đồng tác giả, cơ quan tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả, cá nhân hoặc tổ chức giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giả, người thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật của tác giả…. Trong quyền sở hữu công nghiệp, chủ sở hữu có thể được xác nhận theo văn bằng bảo hộ. Người có tên trong văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp là chủ sở hữu và có quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá v.v. được xác lập theo văn bằng bảo hộ.

Do tính chất và đặc trưng của quan hệ pháp luật về sở hữu nên một bên chủ thể luôn được xác định và có các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, còn chủ thể phía bên kia là tất cả những thành viên trong xã hội. Những thành viên này chưa được xác định cụ thể nhưng họ có nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền năng của chủ sở hữu. Nghĩa vụ này được thể hiện ở việc không được xâm phạm đến các quyền của chủ sở hữu dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ví dụ: Không được xâm phạm trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Người thuê tài sản không được sử dụng tài sản không đúng mục đích, công dụng của tài sản. Nếu bên thuê tài sản vi phạm có thể bị bên cho thuê đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 2 Điều 480 BLDS.

Ngoài ra, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, pháp luật còn quy định các thành viên trong xã hội không được tiến hành những hành vi khác làm cản trở việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu.

Câu 3: Trình bày về khách thể của quan hệ sở hữu?

Đáp án:

Khách thể là một trong ba yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Nó có thể là đối tượng của thế giới vật chất hoặc là kết quả những hoạt động sáng tạo tinh thần (trí tuệ).

Tài sản – với tư cách là khách thể của quan hệ sở hữu – đã được Điều 105 BLDS xác định như sau: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Tài sản có thể chia thành Bất động sản và động sản là hai tiêu chí để phân loại tài sản trong quyền sở hữu.

Như vậy khách thể của quan hệ sở hữu thường là tài sản, vật có giá…Ví dụ: 1 Kg vàng; 1 triệu đồng; 1 Căn nhà chung cư….

Câu 4: Trình bày về cách phân loại vật?

Đáp án:

Vật trong tự nhiên rất phong phú và đa dạng. Tuỳ thuộc vào giá trị, các đặc tính tự nhiên cũng như xã hội, ý nghĩa pháp lý của chúng trong giao lưu dân sự mà người ta phân biệt các loại vật khác nhau. Ngoài việc phân loại thành bất động sản và động sản, BLDS còn có những cách phân loại sau đây:

– Hoa lợi và lợi tức:

Dựa vào các căn cứ khác nhau trong việc “gia tăng tự nhiên” của tài sản, Điều 109 BLDS đã phân chia vật thành hoa lợi và lợi tức.

Hoa lợi là những sản vật tự nhiên có tính chất hữu cơ do tài sản mang lại. Ví dụ: Hoa quả của cây, trứng do gia cầm đẻ ra, gia súc con do gia súc mẹ sinh ra. Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác công dụng của tài sản. Thồng thường, lợi tức được tính ra thành một số tiền nhất định. Ví dụ: Khoản tiền thu được từ việc cho thuê nhà, tiền lãi thu được từ việc cho vay tài sản.

– Vật chính và vật phụ:

Trên phương diện vật lý, các vật này có thể tách rời nhau nhưng về giá trị và ý nghĩa kinh tế thì một vật chỉ có thể có giá trị khi đi kèm với vật kia. Vật chính là vật độc lập, có thể khai thác công dụng theo tính năng. Ví dụ: Ti vi là vật chính vì có thể khai thác công dụng, tính năng của tivi một cách độc lập. Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính. Ví dụ: Điều khiển từ xa của tivi, video; các dụng cụ (đồ nghề) để sửa chữa ô tô. Theo nguyên tắc chung, vật chính và vật phụ là đối tượng thống nhất, nếu các bên không có thỏa thuận gì khác thì vật phụ phải đi kèm vật chính khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật chính. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận khác như chỉ giao vật chính hoặc vật phụ mà thôi. Đương nhiên, không thể coi là vật phụ nếu bản thân nó là một bộ phận cấu thành của vật chính, như lốp ô tô đang sử dụng của một cái ô tô, nhưng lốp để dự phòng cho xe lại có thể được coi là vật phụ.

– Vật chia được và vật không chia được:

Vật chia được là những vật khi được phân chia ra thành các phần nhỏ thì mỗi phần đó vẫn giữ nguyên các tính chất ban đầu và giữ nguyên tính năng sử dụng của vật đó. Ví dụ: Xăng, dầu, gạo có thể phân chia thành nhiều phần khác nhau nhưng vẫn giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng. Vật không chia được là những vật khi phân chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Ví dụ: Giường tủ, đồng hồ, xe máy, xe đạp… Những vật không chia được khi buộc phải chia thì phải trị giá bằng tiền để chia. Người nào giữ vật phải trả cho người kia số tiền có giá trị tương đương với phần của họ.

Trong quan hệ dân sự, việc phân loại vật chia được và không chia được mang tính tương đối. Các đối tượng của quan hệ dân sự trong trường hợp này là vật không chia được những trường hợp khác là vật chia được như nhà ở và đất đai. Ví dụ: khi phân chia di sản, nếu nhà ở và đất ở chia ra được thành hai hay nhiều phần mà các chủ sở hữu đều sử dụng được thì nhà ở và đất ở là vật chia được…

– Vật tiêu hao và vật không tiêu hao:

Về phương diện vật lý, mọi vật khi sử dụng đều bị hao mòn (tiêu hao). Trong pháp lý, vật tiêu hao là những vật khi qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không còn giữ nguyên được hình dáng, tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Nó giảm trọng lượng hoặc đã biến đổi sang vật khác ở trạng thái khác. Ví dụt Phim ảnh, xi măng, vôi, cát, xăng dầu, các loại thực phẩm… Vì vậy, vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn. Vật không tiêu hao là những vật mà khi đã qua quá trình sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu của vật. Ví dụ: Nhà ở, các loại xe và máy móc, các công cụ khác…

– Vật cùng loại và vật đặc định:

Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và thường được xác định bằng những đơn vị đo lường như kilôgam, mét, lít… Ví dụ: Xăng dầu cùng loại, gạo, xi măng cùng loại của một nhà máy sản xuất… Vật cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế được cho nhau. Theo nguyên tắc chung, nếu vật cùng loại bị tiêu huỷ có thể thay thế nó bằng vật cùng loại khác. Vật đặc định là những vật có thể phân biệt với vật khác bằng các dấu hiệu đặc trưng riêng biệt của vật đó về kí hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Trong vật đặc định, người ta xác định vật độc nhất (không có vật thứ hai) và vật đặc định hoá. Khi vật đặc định độc nhất bị tiêu huỷ thì không thể thay thế bằng vật khác, quan hệ pháp luật về sở hữu đối với vật đó cũng chấm dứt. Ví dụ: Bức tranh cổ của một họa sĩ, các loại đồ cổ quý hiếm V.V.. Còn vật được đặc định hoá là trong các vật cùng loại người ta tách nó ra bằng dấu hiệu do con người đặt ra. Ví dụ: Đánh dấu đồ vật bằng những kí hiệu riêng biệt, lúa đóng vào bao riêng, thực phẩm để trong những dụng cụ riêng. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định thì phải chuyển giao đúng vật đó.

Vật đồng bộ là một tập hợp các vật mà chỉ có đầy đủ nó mới có giá trị sử dụng đầy đủ như: Bộ bàn ghế, bộ tem thư, bộ tranh, các thiết bị đồng bộ… Tập hợp các vật phải liên hệ với nhau thành chỉnh thể mà nếu thiếu một trong các phần, các bộ phận hoặc có phần hoặc bộ phận không đúng quy cách, chủng loại, thông số kĩ thuật thì không sử dụng được hoặc giá trị sử dụng của vật đó bỉ giảm sút. Có thể vật đồng bộ là những vật có “đôi” như: Đôi giày, đôi dép, đôi găng tay… Theo nguyên tắc chung, vật đồng bộ là đối tượng thống nhất trong các giao dịch dân sự. Vì vậy, khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đồng bộ thì phải chuyển giao toàn bộ các phần hoặc các bộ phận hợp thành vật đồng bộ. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận chuyển giao từng vật trong “bộ” đó. Ví dụ, chỉ chuyển giao một cái ghế hoặc chỉ một cái bàn.

– Quyền tài sản: Theo quy định tại Điều 105, Điều 115 bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền tài sản cũng được coi là tài sản nhưng có tính chất đặc thù. Chỉ những quyền nào (quyền yêu cầu) trị giá được bằng tiền và thuộc các loại quyền tài sản đã được liệt kê tại điều luật thì mới được coi là quyền tài sản. Nghĩa là, nó có thể trở thành đối tượng của một hợp đồng dân sự cụ thể.

Ngoài ra, năng lượng được xem là một loại vật đặc biệt. Nó không có hình dạng và không thể quan sát được nếu không có những phương tiện kĩ thuật chuyên dùng. Việc chiếm hữu và chuyển giao năng lượng được thực hiện theo một phương thức riêng. Nó được coi là vật cùng loại được xác định bằng kw/giờ và là đối tượng trong các hợp đồng cung ứng điện năng.

Câu 5: Trình bày về chế độ pháp lý đối với vật?

Đáp án:

Căn cứ vào giá trị và giá trị sử dụng của vật đối với xã hội về kinh tế, an ninh, quốc phòng, BLDS đã quy định về cách thức phát sinh quyền sở hữu, trình tự và các nguyên tắc dịch chuyển quyền sở hữu đối với vật. Tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình tự, phương thức dịch chuyển vật gọi là chế độ pháp lí của vật đó.

Căn cứ vào chế độ pháp lí của vật, người ta phân chia vật theo các chế độ: Vật cấm lưu thông, vật hạn chế lưu thông, vật tự do lưu thông.

– Vật cấm lưu thông: Đó là những vật vì vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế quốc dân hoặc đối với an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia… Nhà nước cấm mua bán, chuyển dịch, chuyển nhượng… Ví dụ: Vật là vũ khí quân dụng, phương tiện kĩ thuật quân sự, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, chất ma tuý V.V.. Người nào tàng trữ, sử dụng, mua bán các loại vật cấm lưu thông trên có thể bị truy tố và xét xử theo các loại tội xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại các Điều 95, Điều 96 Bộ luật hình sự.

Các vật trên không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự của công dân, tổ chức. Việc lưu thông các loại vật này do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Chính vì vậy mà mỗi hình thức sở hữu có một phạm vi khách thể khác nhau.

Ngoài ra, cũng cần thấy rằng, những tài sản thuộc sở hữu Nhà nước theo quy định tại Điều 197 BLDS như: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản… về nguyên tắc là tài sản cấm lưu thông. Nhưng để mở rộng giao lưu dân sự trong điều kiện nền kinh tế thị trường, riêng đối với loại tài sản đặc biệt là đất đai, Luật dân sự và Luật đất đai cho phép những người tuy không phải là chủ sở hữu trong những điều kiện nhất định có thể có một số quyền năng đối với các loại tài sản này.

– Vật hạn chế lưu thông: Bao gồm những vật có ý nghĩa quan trọng khác nhau trong nền kinh tế quốc dân, an ninh, quốc phòng… do đó pháp luật có những quy định riêng. Nhà nước phải kiểm soát sự dịch chuyển các loại vật đó. Những vật này pháp luật quy định không chỉ thuộc quyền sở hữu của Nhà nước mà còn có thể thuộc sở hữu của các cơ quan, tổ chức công dân. Việc chuyển dịch quyền sở hữu nhất thiết phải tuân theo những quy định riêng của pháp luật. Trong một số trường hợp phải có sự đồng ý hoặc cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì hợp đồng mới không bị coi là vô hiệu. Ví dự. Các loại vũ khí thể thao, súng săn, thanh toán bằng ngoại tệ với số lượng lớn…

– Vật tự do lưu thông: Là những vật còn lại và không có quy định cụ thể nào của pháp luật xác định trực tiếp đối với việc dịch chuyển vật đó. Pháp luật cũng không quy định cụ thể các phương thức dịch chuyển, nếu có sự dịch chuyển các tài sản này cũng không cần phải đăng kí hoặc xin phép. BLDS chỉ có những quy định chung về chuyển dịch mà thôi. Những vật này chù yếu là những tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt thông thường.

Câu 6: Trình bày nội dung của quyền sở hữu?

Đáp án: 

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền sở hữu là những quyền dân dự đối với tài sản, cụ thể Điều 158 Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận như sau: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”.

Ba quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt hợp thành nội dung của quyền sở hữu quy định trong pháp luật dân sự.

Câu 7: Phân tích nội dung quyền chiếm hữu?

Đáp án:

Theo xác nhận tại Điều 186 Bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền chiếm hữu là quyền năng của chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình, nắm giữ, chi phối tài sản thuộc sở hữu nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

Trong thực tế, chủ sở hữu thường tự mình bàng các hành vi của bản thân để thực hiện quyền chiếm hữu tài sản, hay còn gọi là quyền chiếm hữu thực tế. Trong một số trường hợp, chủ sở hữu chuyển quyền này cho người khác thông qua một hợp đồng dân sự thì chủ sở hữu vẫn thực hiện quyền kiểm soát đối với tài sản, người thực tế nắm giữ vật thay mặt chủ sở hữu chiếm hữu tài sản (chủ sở hữu gián tiếp), hay nói cách khác là người thực tế chiếm hữu vật thông qua giao dịch có quyền chiếm hữu theo nội dung giao dịch đã xác lập (khoản 1 Điều 188).

Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu chỉ chấm dứt khi chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình hoặc chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác như bán, trao đổi, tặng cho v.v. hoặc theo các căn cứ được quy định từ Điều 242 đến Điều 244 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trong đời sống thường ngày xảy ra trường hợp có những người không phải là chủ sở hữu nhưng vẫn chiếm hữu tài sản đó. Điều 179 BLDS năm 2015 đã quy định chiếm hữu không chỉ được hiểu là một quyền năng thuộc quyền sở hữu mà là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Do đó, căn cứ vào chủ thể chiếm hữu có thể phân thành hai loại là chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ một số trường hợp được pháp luật quy định như đối với tài sản bị chôn giấu, bị vùi lấp, bị chìm đắm, tài sản bị người khác đánh rơi, bỏ quên…

Căn cứ vào nhận thức của người chiếm hữu đối với việc chiếm hữu tài sản thì chiếm hữu có thể phân thành chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu không ngay tình. Điều 180 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:“Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đổi với tài sản đang chiếm hữu”.

Căn cứ này có thể xuất phát từ thực tế chủ thể chiếm hữu đồng thời cũng chính là chủ sở hữu của tài sản; hoặc quyền chiếm hữu được xác lập trên cơ sở được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản (Điều 187 BLDS); được chủ sở hữu chuyển giao tài sản thông qua giao dịch dân sự (Điều 188 BLDS). Ngoài ra, trong một số trường họp theo quy định của pháp luật, chiếm hữu của chủ thể không phải chủ sở hữu cũng được xác định là ngay tình.

Ví dụ như trường hợp chiếm hữu đối với tài sản bị người khác đánh rơi, bỏ quên, gia súc bị thất lạc, gia cầm bị thất lạc… và chủ thể nhặt được tài sản, bắt được gia súc, gia cầm… đã thực hiện đầy đủ các thủ tục thông báo tìm kiếm theo quy định của pháp luật. Điều 181 BLDS quy định:“Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyển đối với tài sản đang chiếm hữu”.

Như vậy, trước hết chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu không dựa trên bất kì căn cứ hợp pháp nào được pháp luật ghi nhận. Nhận thức của chủ thể chiếm hữu tài sản trong trường hợp này là biết rõ về việc chiếm hữu không có căn cứ hợp pháp của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm hữu; hoặc tuy về chủ quan họ không biết về việc này nhưng theo yêu cầu của pháp luật, bất kỳ chủ thể nào trong trường hợp có hành vi chiếm hữu tài sản tương ứng đều phải biết. Ví dụ: một người biết rõ tài sản có được do trộm cắp nhưng vẫn mua từ người bán do muốn mua với giá rẻ; một người mua xe máy đã qua sử dụng cần phải thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu nhưng đã không thực hiện nên đã mua phải xe máy từ người đã chiếm đoạt trái phép tài sản thì tuy nhận thức của họ là hoàn toàn không biết nhưng việc chiếm hữu của họ vẫn được xác định là không ngay tình.

Ngoài ra, việc chiếm hữu còn được xác định theo tình trạng chiếm hữu liên tục (Điều 182) và chiếm hữu công khai (Điều 183). Theo đó, chiếm hữu liên tục được hiểu là:“việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyển đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu ”.

Chiếm hữu công khai là:“việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm, tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tỉnh năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình”.

Những tình trạng chiếm hữu này là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 BLDS, cũng như là căn cứ để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cho chủ thể chiếm hữu tài sản.

Điều 184 quy định về suy đoán tình trạng và quyền của người chiếm hữu như sau:

  1. Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh. 2. Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền ”.

Trong những điều kiện nhất định, nếu việc chiếm hữu là liên tục (Điều 190), công khai (Điều 191) và trong khoảng thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình còn được hưởng quyền xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Họ có thể trở thành chủ sở hữu các tài sản đó kể từ thòi điểm bắt đầu chiếm hữu.

Câu 8: Phân tích nội dung quyền sử dụng?

Đáp án:

Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép. Nguyên tắc chung là việc khai thác những giá trị sử dụng của tài sản nhằm để thỏa mãn những nhu cầu về sinh hoạt vật chất hoặc tinh thần cho bản thân mình.

Thực hiện quyền sử dụng còn là việc dựa vào tính năng của vật mà con người khai thác lợi ích vật chất của chúng để thoả mãn các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, việc khai thác lợi ích vật chất của tài sản còn bao gồm cả việc thu nhận những kết quả của tài sản do tự nhiên mang lại như hưởng trứng do gia cầm đẻ ra, hoa quả trên cây, gia súc nhỏ do mẹ chúng sinh ra…

Như vậy, việc sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo ý chí tuỳ nghi của mình. Thông thường, chủ sở hữu trực tiếp sử dụng tài sản của mình nhưng có thể được chuyển giao cho người khác trên cơ sở một hợp đồng hợp pháp của chủ sở hữu.

Trong một số trường hợp khác mà pháp luật quy định, cơ quan hoặc tổ chức cũng có quyền sử dụng tài sản trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.Ví dụ: Cơ quan, tổ chức sử dụng tài sản bị trưng dụng.

Do sự phát triển nhanh của khoa học kĩ thuật nên có trường hợp chủ sở hữu không đủ trình độ chuyên môn để sử dụng những tài sản là các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Ví dụ: Việc sử dụng máy vi tính, xe ô tô, các thiết bị kỹ thuật khác… Trong trường hợp này chủ sở hữu phải thông qua người thứ ba để thực hiện quyền sử dụng tài sản thì mới khai thác được các lợi ích vật chất, tính năng của tài sản.

Tóm lại: Quyền sử dụng là một quyền năng mà pháp luật quy định cho chủ sở hữu (hoặc người chiếm hữu hợp pháp) được phép sử dụng các tài sản của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hoặc sản xuất, kinh doanh nhưng việc sử dụng đó không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, không được trái với đạo đức chung của xã hội.

Thông thường, khi chủ sở hữu muốn chuyển quyền sử dụng cho người khác thì phải chuyển luôn quyền chiếm hữu tài sản. Bởi lẽ, muốn khai thác công dụng của tài sản, trước hết người sử dụng phải thực hiện hành vi chiếm hữu. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có trường họp chủ sở hữu cho sử dụng tài sản mà không chuyển quyền chiếm hữu.

Câu 9: Phân tích nội dung quyền định đoạt?

Đáp án:

Chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt biểu hiện ở hai khía cạnh (góc độ):

– Định đoạt về số phận thực tế của các vật (tức là làm cho vật không còn trong thực tế nữa) như: tiêu dùng hết, huỷ bỏ, hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật.

– Định đoạt về số phận pháp ư của vật là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối với vật từ người này sang người khác.

Thông thường, định đoạt về số phận pháp lý của vật phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế… thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời hạn (trong hợp đồng cho thuê, cho mượn) hoặc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác bằng hợp đồng bán, đổi, cho…

Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với vật sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến vật đó. Ví dụ’. Tiêu dùng hết tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó. Khi bán tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của người đã bán nhưng lại làm phát sinh quyền sở hữu về tài sản đó đối với người mua.

Ở hai hình thức định đoạt trên, chúng ta thấy rằng, trong việc định đoạt số phận thực tế của vật, chủ sở hữu chỉ cần bằng hành vi của mình tác động trực tiếp đến vật. Trong việc định đoạt về số phận pháp lý chủ sở hữu phải thiết lập với chủ thể khác một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với hình thức định đoạt này, BLDS đã quy định: Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi dân sự. Nghĩa là, người đó phải có đầy đủ tư cách chủ thể. Trong những trường hợp tài sản ít giá trị (chủ yếu là động sản), việc thực hiện quyền định đoạt có thể bằng phương thức giản đơn như: Thỏa thuận miệng, chuyển giao ngay tài sản… nhưng trong những trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục thì phải tuân theo những quy định đó (Điều 193 Bộ luật dân sự năm 2015).

Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, BLDS đã quy định việc uỷ quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể uỷ quyền cho người khác định đoạt tài sản, người được uỷ quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu. Ngoài ra, vì lợi ích chung của xã hội và để bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định, Điều 196 BLDS còn quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu sẽ bị hạn chế khi có quy định cụ thể của luật. Khi những tài sản đem bán, đổi là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua. Trong trường hợp tổ chức, cá nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho tổ chức, cá nhân đó.

Trong thực tế, có những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, chủ sở hữu không uỷ quyền, việc định đoạt có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo quy định của pháp luật những người đó vẫn có quyền định đoạt. Đó là việc cơ quan, tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật, chấp hành viên ký hợp đồng bán đấu giá để thi hành án; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản nếu hết thời hạn đã thỏa thuận mà người vay không trả được tiền vay.

Trong nội dung của quyền sở hữu, từng quyền năng có thể do người không phải là chủ sở hữu thực hiện nhưng việc thực hiện đó chủ yếu không mang tính chất độc lập mà phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu. Chỉ có chủ sở hữu mới có quyền thực hiện một cách độc lập không phụ thuộc vào người khác. Việc quy định quyền của người không phải là chủ sở hữu nói lên tính năng động của quyền sở hữu luôn ở trong thế vận động trong những trường hợp nhất định. Chế định quyền sở hữu với ba quyền năng cơ bản không chỉ được xây dựng trên nguyên tắc quyền của chủ sở hữu chiếm vị trí trung tâm, là xuất phát điểm để quy định các quy chế pháp lý tương ứng mà còn có cả những quy định với những xuất phát điểm từ góc độ tài sản.

Cả ba quyền năng cụ thể tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu, chúng có mối liên quan mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền năng lại mang một ý nghĩa khác nhau. Cụ thể, quyền chiếm hữu là tiền đề quan trọng cho hai quyền kia nhưng quyền sử dụng lại có ý nghĩa thiết thực, vì chỉ có thông qua quyền năng này chủ sở hữu mới khai thác được lợi ích, công dụng của vật để thỏa mãn các nhu cầu cho mình, còn quyền định đoạt lại xác định ý nghĩa pháp lý quan trọng nhất của chủ sở hữu.

Câu 10: Trình bày các quyền khác đối với tài sản?

Đáp án:

– Khái niệm: Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.

– Quyền khác đối với tài sản bao gồm:

+ Quyền đối với bất động sản liền kề (Quy định tại Mục 1, Chương XIV Bộ luật dân sự năm 2015);

+ Quyền hưởng dụng (Quy định tại Mục 2, Chương XIV Bộ luật dân sự năm 2015);

+ Quyền bề mặt (Quy định tại Mục 3, Chương XIV Bộ luật dân sự năm 2015).

Câu 11: Trình bày căn cứ phát sinh quyền bề mặt?

Đáp án:

Tương tự như quyền hưởng dụng, quyền bề mặt có thể được xác lập theo một trong những căn cứ sau: theo quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc theo di chúc.

-Trường hợp quyền bề mặt được xác định theo quy định của pháp luật dân sự:

Theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, quyền bề mặt được xác định từ Điều 267 đến Điều 273 của Bộ luật dân sự 2015, bao gồm: Nội dung của quyền bề mặt, hiệu lực của quyền bề mặt, và phương thức xử lý tài sản khi quyền bề mặt chấm dứt.

– Trường hợp quyền bề mặt được xác định theo sự thỏa thuận giữa các bên:

Pháp luật dân sự hiện hành tôn trọng sự thỏa thuận của các bên có thẩm quyền (chủ sở hữu hợp pháp của tài sản hoặc người có quyền liên quan). Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc áp dụng quyền bề mặt, pháp luật sẽ tôn trọng thỏa thuận này.

– Trường hợp quyền bề mặt được xác định theo nội dung di chúc:

Bên cạnh việc thỏa thuận giữa các chủ thể có quyền thì quyền bề mặt còn được xác lập dựa trên nội dung di chúc. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể lập di chúc thể hiện ý chí của mình về quyền bề mặt. Di chúc ở đây được hiểu là di chúc của người có quyền sở hữu hợp pháp với thửa đất chịu hưởng quyền.

Câu 12: Trình bày hiệu lực và thời hạn của quyền bề mặt?

Đáp án:

Quyền bề mặt được xác lập cho người có quyền từ thời điểm chủ thể có quyền sử dụng đất chuyển giao mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho người có quyền bề mặt. Đây được xác định là thời điểm có hiệu lực của quyền bề mặt. Có nghĩa là kể từ thời điểm chủ sở hữu chuyển giao tài sản, người có quyền bề mặt có quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức và các quyền khác đối với tài sản đó. Tuy nhiên, nếu luật liên quan có quy định khác hoặc các bên có thoả thuận khác, quyền bề mặt sẽ được xác lập theo thời điểm được luật quy định hoặc thời điểm các bên thỏa thuận mà không căn cứ vào thời điểm chuyển giao tài sản.

Với tính chất tuyệt đối của một vật quyền, kể từ thời điểm quyền bề mặt phát sinh hiệu lực, quyền bề mặt sẽ được bảo vệ, tôn trọng và có giá trị đối kháng với các chủ thể khác trong xã hội, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Thời hạn của quyền bề mặt được xác định theo Điều 270 Bộ luật dân sự năm 2015. Theo đó, “thời hạn của quyền bề mặt được xác định theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc di chúc nhưng không vượt quá thời hạn của quyền sử dụng đất”. Nói cách khác, tùy theo căn cứ xác lập, quyền bề mặt có thời hạn khác nhau. Tuy nhiên, do quyền bề mặt chỉ là một quyền phái sinh của quyền sở hữu đối với quyền sử dụng đất nên thời hạn của quyền bề mặt không thể vượt quá thời hạn của quyền sử dụng đất.

Ví dụ: theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông A thì thửa đất có thời hạn sử dụng là 50 năm. Như vậy, quyền bề mặt của các chủ thể có quyền cũng chỉ có thời hạn tối đa là 50 năm.

Trường hợp thời hạn của quyền bề mặt không được xác định theo căn cứ xác lập (như các bên không thoả thuận, di chúc không quy định…) thì người có quyền bề mặt hoặc người có quyền sử dụng đất có thể chấm dứt quyền bề mặt bất cứ lúc nào với điều kiện phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết trước ít nhất là sáu tháng.

Câu 13: Trình bày nội dung quyền bề mặt?

Đáp án:

Khi có quyền bề mặt, chủ thể có quyền khai thác, sử dụng mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất để xây dựng công trình, trồng cây, canh tác. Khi thực hiện quyền này, người có quyền bề mặt phải đảm bảo các hoạt động của mình không được trái với quy định của Bộ luật dân sự, pháp luật về đất đai, xây dựng, quy hoạch, tài nguyên, khoáng sản và quy định khác của pháp luật có liên quan. Nếu các hoạt động này tạo dựng được các tài sản thì người có quyền bề mặt được xác lập quyền sở hữu đối với các tài sản đó (Điều 271).

Trường hợp quyền bề mặt được chuyển giao một phần hoặc toàn bộ thì chủ thể nhận chuyển giao được kế thừa quyền bề mặt theo điều kiện và trong phạm vi tương ứng với phần quyền bề mặt được chuyển giao.

Câu 14: Trình bày cách chấm dứt quyền bề mặt?

Đáp án:

Quyền bề mặt có thể chấm dứt theo một trong các căn cứ được quy định tại Điều 272 Bộ luật dân sự năm 2015, bao gồm: thời hạn hưởng quyền bề mặt đã hết; chủ thể có quyền bề mặt và chủ thể có quyền sử dụng đất là một; chủ thể có quyền bề mặt từ bỏ quyền của mình; quyền sử dụng đất có quyền bề mặt bị thu hồi theo quy định của Luật đất đai; theo thoả thuận của các bên hoặc theo quy định của luật.

Cũng như quyền hưởng dụng, do quyền bề mặt là quyền được xác lập trên tài sản thuộc sở hữu của chủ thể khác, do đó, quyền này chỉ có hiệu lực trong một khoảng thời gian hữu hạn. Hết khoảng thời gian này, chủ thể của quyền bề mặt sẽ chấm dứt các quyền khai thác bề mặt của mình. Ngoài ra, quyền bề mặt cũng sẽ chấm dứt trước thời hạn theo ý chí của chủ thể có quyền bề mặt, chủ thể có quyền sử dụng đất (ví dụ người có quyền bề mặt không còn nhu cầu khai thác bề mặt và từ bỏ quyền hoặc người có quyền bề mặt và chủ sở hữu đồng ý chấm dứt quyền bề mặt) hoặc quyền bề mặt không thể khai thác khi quyền sử dụng đất đã bị thu hồi.

Trên thực tế, người sử dụng đất có thể chuyển giao toàn bộ quyền của mình cho người có quyền bề mặt theo di chúc hoặc theo hợp đồng. Từ các căn cứ này, quyền sử dụng đất và quyền bề mặt đều thuộc về một chủ thể. Do đó, quyền bề mặt cũng đương nhiên chấm dứt.

Khi quyền bề mặt chấm dứt, người có quyền bề mặt phải trả lại mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho chủ thể có quyền sử dụng đất. Do đó, các tài sản thuộc sở hữu của họ trên bề mặt phải được xử lý trước thời hạn chấm dứt quyền bề mặt (trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác). Trường hợp người có quyền bề mặt không xử lí tài sản thì các tài sản này sẽ thuộc sở hữu của người có quyền sử dụng đất hoặc họ được thanh toán chi phí xử lý tài sản khi họ đã xử lý thay cho người có quyền bề mặt. 

Câu 15: Trình bày căn cứ phát sinh quyền hưởng dụng?

Đáp án:

Điều 258 BLDS năm 2015 quy định:“Quyền hưởng dụng được xác lập theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc”.Như vậy, quyền hưởng dụng có thể phát sinh căn cứ vào một trong ba căn cứ là: quy định của luật, thoả thuận của các bên hoặc di chúc của người chủ sở hữu tài sản.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền hưởng dụng phát sinh theo quy định của luật chưa có căn cứ trong văn bản pháp luật. Trước đây, trong cổ luật, có thể thấy các trường hợp tương tự được xác lập cho cha mẹ già được quyền sử dụng nhà thuộc sở hữu của con hoặc con chưa thành niên được quyền ở nhà của cha mẹ. Thông thường, các trường hợp phát sinh quyền hưởng dụng theo quy định của pháp luật được hình thành trên yêu cầu cần đảm bảo quyền lợi của một số chủ thể cần được bảo vệ (như người già, trẻ nhỏ, người tàn tật…).

Trong các căn cứ phát sinh quyền hưởng dụng, thoả thuận và di chúc là những căn cứ phổ biến. Theo đó, chủ sở hữu có thể bằng ý chí của mình xác lập hợp đồng với người được quyền hưởng dụng hoặc lập di chúc trao quyền sở hữu tài sản và để lại quyền hưởng dụng cho những người khác nhau được chủ sở hữu lựa chọn. Tuy nhiên, các thoả thuận trong hợp đồng cũng thể theo hướng chủ sở hữu chuyển giao quyền sờ hữu tài sản cho người khác và giữ lại quyền hưởng dụng cho mình.

Quy định cho phép chuyển giao quyền sở hữu và quyền hưởng dụng cho những chủ thể khác nhau thông qua di chúc là một bước phát triển mới và đầy tiến bộ của BLDS năm 2015.

Câu 16: Trình bày hiệu lực và thời hạn của quyền hưởng dụng?

Đáp án:

Quyền hưởng dụng được xác lập cho người có quyền hưởng dụng căn cứ trên thực tế họ đã nhận chuyển giao tài sản. Có nghĩa là kể từ thời điểm người này nhận chuyển giao tài sản, họ có quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản đó. Tuy nhiên, nếu luật liên quan có quy định khác hoặc các bên có thoả thuận khác, quyền hưởng dụng sẽ được xác lập theo thời điểm được luật quy định hoặc thời điểm các bên thỏa thuận mà không căn cứ vào thời điểm nhận chuyển giao tài sản.

Với tính chất tuyệt đối của một vật quyền, kể từ thời điểm quyền hưởng dụng phát sinh hiệu lực, quyền hưởng dụng sẽ được bảo vệ, tôn trọng và có giá trị đối kháng với các chủ thể khác trong xã hội. Thời điểm quyền hưởng dụng có hiệu lực được xác định theo thời điểm xác lập, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Thời hạn của quyền hưởng dụng được xác định theo Điều 260 BLDS năm 2015. Theo đó, thời hạn của quyền hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc do luật quy định nhưng tối đa đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên nếu người hưởng dụng là cá nhân và đến khi pháp nhân chấm dứt tồn tại nhưng tối đa là 30 năm nếu người hưởng dụng đầu tiên là pháp nhân.

Trường hợp một người được hưởng dụng suốt đời nhưng cho phép người khác khai thác, sử dụng đối tượng của quyền hưởng dụng thì thời hạn tối đa thực hiện quyền khai thác, sử dụng kết thúc khi người hưởng dụng đầu tiên chết.

Đối với pháp nhân khi được hưởng dụng đến khi giải thể hoặc 50 năm… nhưng sau đó cho phép pháp nhân khác khai thác, sử dụng đối tượng của quyền hưởng dụng thì thời hạn tối đa mà pháp nhân thứ hai khai thác, sử dụng là không quá 30 năm tính từ thời điểm pháp nhân đầu tiên bắt đầu hưởng dụng.

Câu 17: Trình bày căn cứ chấm dứt quyền hưởng dụng?

Đáp án:

Điều 265 BLDS năm 2015 xác định 7 trường hợp chấm dứt quyền hưởng dụng, bao gồm: thời hạn quyền hưởng dụng đã hết; theo thoả thuận của các bên; người hưởng dụng trở thành chủ sở hữu tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng; người hưởng dụng từ bỏ hoặc không thực hiện quyền hưởng dụng trong thời hạn do luật định; tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng không còn; theo quyết định của toà án và các căn cứ khác theo quy định của luật.

Quyền hưởng dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc sở hữu của người khác trong một thời hạn nhất định do đó, khi hết thời hạn này, quyền hưởng dụng đương nhiên chấm dứt. Tuy nhiên, khi chưa hết thời hạn, quyền hưởng dụng cũng có thể chấm dứt nếu người hưởng dụng và chủ sở hữu của tài sản thỏa thuận chấm dứt quyền hưởng dụng hoặc nếu người hưởng dụng tự từ bỏ, không thực hiện quyền của mình. Quyền hưởng dụng là quyền đối vật, do đó, khi tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng không còn thì quyền hưởng dụng không còn đối tượng để tác động, khai thác nên sẽ chấm dứt. Trên thực tế, có những trường hợp người hưởng dụng được chuyển giao cà quyền sở hữu tài sản nên họ trở thành chủ sở hữu tài sản và chấm dứt tư cách người có quyền hưởng dụng đối với tài sản này. Ngoài ra, theo quyết định của tòa án hoặc các căn cứ khác theo quy định của luật thì quyền hưởng dụng cũng chấm dứt.

Câu 18: Trình bày nguyên tắc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề?

Đáp án:

Việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề theo thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:

  1. Bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc khai thác bất động sản hưởng quyền phù hợp với mục đích sử dụng của cả bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền;
  2. Không được lạm dụng quyền đối với bất động sản chịu hưởng quyền;
  3. Không được thực hiện hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện quyền đối với bất động sản hưởng quyền trở nên khó khăn.

Câu 19: Trình bày các trường hợp chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề?

Đáp án:

Quyền đối với bất động sản liền kề chấm dứt trong trường hợp sau đây:

  1. Bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền thuộc quyền sở hữu của một người;
  2. Việc sử dụng, khai thác bất động sản không còn làm phát sinh nhu cầu hưởng quyền;
  3. Theo thỏa thuận của các bên;
  4. Trường hợp khác theo quy định của luật.

Câu 20: So sánh sự giống và khác nhau giữa quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản?

Đáp án:

  1. Giống nhau:

– Là các vấn đề quyết định về quyền sở hữu của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.

– Là những quy định về nguyên tắc xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trong Bộ luật dân sự 2015.. . 

  1. Khác nhau:

– Quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng.

– Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.

Câu 21: Ý nghĩa của quyền sở hữu trong giao dịch dân sự?

Đáp án:

Ý nghĩa trong thực tiễn giao dịch dân sự và áp dụng pháp luật dân sự ở Việt Nam: Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập , thực hiện trong trường hợp bộ luật dân sự, luật khác có liên quan đến quyết định, quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao trừ trường hợp bộ luật dân sự, luật khác có liên quan khác, chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không để trái với quy định của pháp luật.

Câu 22: Trình bày khái niệm, căn cứ xác lập quyền sở hữu?

Đáp án:

Căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu là những sự kiện xảy ra trong đời sống thực tế nhưng có ý nghĩa pháp lí do BLDS quy định mà thông qua đó làm phát sinh quyền sở hữu của một hoặc nhiều chủ thể đối với tài sản nhất định.

Các căn cứ xác lập quyền sở hữu là những sự kiện pháp lý do BLDS quy định. Dựa vào nguồn gốc của những sự kiện pháp lý, người ta có thể phân chia làm ba nhóm sau:

+ Xác lập theo hợp đồng hoặc từ hành vi pháp lý đơn phương

Hợp đồng là một sự kiện pháp lý trên cơ sở thỏa thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể làm phát sinh sự chuyển dịch quyền sở hữu đối với tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Các hợp đồng mua bán, tặng cho, cho vay,.. nếu được xác lập phù hợp với quy định của BLDS thì những người được chuyển giao tài sản thông qua các giao dịch hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản đó.

Những tài sản theo quy định của pháp luật phải đăng kí, sang tên, xin phép thì quyền sở hữu được xác lập từ thời điểm hoàn tất các thủ tục đó. Nghĩa là bằng hợp đồng dân sự hợp pháp mà quyền sở hữu đối với vật của người này chấm dứt nhưng lại làm xuất hiện quyền sở hữu đối với vật của người khác.

Tương tự, việc nhận tài sản từ di sản thừa kế của người chết theo di chúc hoặc những người được hưởng trong hứa thưởng và thi có giải có quyền sở hữu đối với tài sản đã nhận theo di chúc hoặc tài sản đã nhận thưởng.

+ Xác lập theo quy định của pháp luật

Đây là những sự kiện pháp lý mà theo quy định của BLDS, quyền sở hữu được xác lập bao gồm:

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

Kết quả của lao động sản xuất là sự hoạt động của con người trong quá trình tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà trước hết là cho bản thân chủ thể đó. Nguồn gốc ban đầu của tài sản là lao động, vì vậy ai đã bỏ sức lao động ra thì có quyền sở hữu đối với những thu nhập có được do lao động hoặc do sản xuất kinh doanh hợp pháp (Điều 222 BLDS). Đối với hoa lợi, lợi tức, quyền sở hữu được xác lập theo quy định của pháp luật. Cụ thể:

– Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được tài sản đó.

– Người tiến hành hoạt động sáng tạo có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ hoạt động sáng tạo theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ.

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản trong trường hợp sáp nhập, trộn lẫn và chế biến

Do các sự kiện sáp nhập, trộn lẫn, chế biến là sự hợp nhất tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau. Kể từ thời điểm sáp nhập, trộn lẫn, vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung hoặc riêng của các chủ sở hữu đó. Những chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán phần giá trị tài sản. Cụ thể:

– Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được sáp nhập với nhau tạo thành vật không chia được và không thể xác định tài sản đem sáp nhập là vật chính hoặc vật phụ thì vật mới được tạo thành là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó; nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành, chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được trộn lẫn với nhau tạo thành vật mới không chia được thì vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó, kể từ thời điểm trộn lẫn.

– Chủ sở hữu của nguyên vật liệu được đem chế biến tạo thành vật mới là chủ sở hữu của vật mới được tạo thành.

+ Người dùng nguyên vật liệu thuộc sở hữu của người khác để chế biến mà ngay tình thì trở thành chủ sở hữu của tài sản mới nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó.

+ Trường hợp người chế biến không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại.

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do các sự kiện không xác định được chủ sở hữu hoặc do bị chôn giấu, đánh rơi, bỏ quên

Cơ sở của việc xác lập quyền sở hữu theo những sự kiện trên không phải chỉ đơn giản là các hành vi phát hiện, tìm thấy, nhặt được. Ngoài những sự kiện trên, pháp luật quy định phải sau một thời gian nhất định tương ứng với mỗi sự kiện và giá trị của tài sản đó mà quyền sở hữu mới được xác lập. Ví dụ: Đối với tài sản bị đánh rơi, bỏ quên phải sau một năm kể từ ngày thông báo công khai về tài sản nhặt được, nếu giá trị bằng hoặc thấp hơn mười lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì vật đó thuộc sở hữu của người nhặt được. Cụ thể:

– Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.

– Người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.

– Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

Trong trường hợp tìm thấy tài sản bị chôn giấu hoặc bị vùi lấp, bị chìm đắm thì quyền sở hữu được xác lập có thể thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. ĐIểm a và b Khoản 2 Điều 229 BLDS quy định như sau:

– Tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật;

– Tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do các sự kiện gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên

Đối với những sự kiện này, người bắt được ngoài việc thông báo công khai, phải sau một thời hạn tùy thuộc vào đối tượng thất lạc thì quyền sở hữu mới được xác lập. Cụ thể:

– Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.

– Trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì người bắt được phải thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia cầm.

– Khi vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ.

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do được thừa kế tài sản theo pháp luật

Thông qua việc nhận di sản thừa kế theo pháp luật, quyền sở hữu của một người nào đó được xác lập đối với các tài sản mà họ đã nhận từ di sản của người chết.

Xác lập theo những căn cứ riêng biệt

Ngoài những căn cứ có tính phổ biến nêu trên, quyền sở hữu còn có thể được xác lập theo những căn cứ riêng khác. Đó chính là các bản án, quyết định của tòa án (quyết định hòa giải thành) hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.Ví dụ: Công nhận quyền sở hữu cá nhân của mỗi người sau khi chia tài sản chung hợp nhất của vợ chồng trong các bản án, quyết định li hôn; các quyết định hòa giải nhà ở của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Quyền sở hữu của một chủ thể có thể được xác lập theo thời hiệu khi có các điều kiện do pháp luật quy định như: Một người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì người ấy trở thành chủ sở hữu tài sản đó. Khi đó, quyền sở hữu sẽ được xác lập và được công nhận kể từ thời điểm người đó bắt đầu chiếm hữu. Tuy nhiên, quy định về thời hiệu này không áp dụng nếu BLDS hoặc luật khác có liên quan quy định khác.

Đối với các tài sản bị tịch thu (Điều 244 BLDS), bị trưng mua (Điều 243 BLDS) về nguyên tắc đây là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với một chủ thể nhất định nhưng đó lại là căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu toàn dân.

Nếu dựa vào quy trình hình thành và thay đổi quyền sở hữu thì các căn cứ xác lập quyền sở hữu có thể chia thành:

– Căn cứ đầu tiên: là những sự kiện pháp lí do đó mà quyền sở hữu được xác lập đầu tiên đối với vật. Theo căn cứ này quyền sở hữu mới phát sinh không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu trước đó. Ví dụ: sản phẩm mới được tạo ra trong quá trình sản xuất hoặc việc nhận những kết quả các các tài sản mang lại.

– Căn cứ kế tục: là những sự kiện pháp lí xác lập quyền sở hữu mới trên cơ sở chuyển dịch quyền theo ý chí của chủ sở hữu cũ thông qua các hợp đồng dân sự hợp pháp hoặc do thừa kế. Đối với các căn cứ kế tục, chủ sở hữu mới phải chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ liên quan đến tài sản đã chuyển giao của chủ sở hữu cũ với người thứ ba.

Ví dụ: người đã mua nhà của chủ sở hữu nhưng nhà đó chủ sở hữu đang cho người khác thuê mà hợp đồng thuê chưa hết kỳ hạn thì chủ sở hữu mới không có quyền hủy bỏ hợp đồng thuê của chủ sở hữu cũ với người thuê khi chưa hết kỳ hạn thuê.

Câu 23: Trình bày căn cứ chấm dứt quyền sở hữu?

Đáp án:

Về nguyên tắc chung, những căn cứ xác lập quyền sở hữu cũng đồng thời là những căn cứ chấm dứt quyền sở hữu. Việc chấm dứt quyền sở hữu cũng có thể theo ý chí của chủ sở hữu hoặc do pháp luật quy định.

+ Chấm dứt quyền sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu:

Hợp đồng là căn cứ chủ yếu xác lập quyền sở hữu thì đồng thời cũng là căn cứ chủ yếu làm chấm dứt quyền sở hữu. Khi chủ sở hữu theo ý chí của mình thông qua các hợp đồng dân sự chuyển giao quyền sở hữu đó cho người khác thì quyền sở hữu đối với tài sản của người đó chấm dứt từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao.

Ngoài các hợp đồng, chủ sở hữu theo ý chí của mình còn có quyền tự chấm dứt bằng cách tuyên bố hoặc thực hiện các hành vi từ bỏ quyền sở hữu. Trong một số trường hợp, việc từ bỏ phải tuân theo quy định của pháp luật nếu việc từ bỏ có thể gây hại đến trật tự, an toàn xã hội hoặc làm ô nhiễm môi trường.

+ Chấm dứt quyền sở hữu theo những căn cứ do pháp luật quy định:

Đó là những trường hợp chấm dứt quyền sở hữu của một chủ sở hữu nhất định trên cơ sở những sự kiện pháp lí do pháp luật quy định mà không phụ thuộc vào ý chí của người đó. Những sự kiện pháp lí này bao gồm:

Trong những điều kiện nhất định do pháp luật quy định (sự kiện thực tế, thời gian) và đã công nhận quyền sở hữu khi vật bị đánh rơi, bỏ quên, gia súc gia cầm bị thất lạc., cho một người theo quy định tại các điều từ Điều 230 đến Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền sở hữu của những người có tài sản đó chấm dứt.

Việc xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu theo quyết định của toà án hoặc bị tịch thu theo bản án của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì quyền sở hữu đối với tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu chấm dứt tại thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người nhận tài sản đó.

Khi tài sản của chủ sở hữu bị trưng mua hoặc bị tịch thu theo bản án của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì quyền sở hữu của người có tài sản chấm dứt kể từ thời điểm bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, khi tài sản bị tiêu huỷ thì quyền sở hữu của người có tài sản cũng chấm dứt tại thời điểm tài sản bị tiêu huỷ.

Câu 24: Trình bày khái niệm hình thức sở hữu?

Đáp án:

Hình thức sở hữu là cách thức chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong một chế độ sở hữu.

Trong chế độ sở hữu có thể có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu có những chủ sở hữu nhất định. Mỗi hình thức sở hữu có những đặc trưng riêng, nên pháp luật cũng có những quy định riêng thích hợp với mỗi loại hình thức sở hữu cụ thể.

Pháp luật dân sự Việt Nam quy định mỗi hình thức sở hữu, chủ sở hữu có những cách thức thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong những giới hạn và phạm vi khác nhau.

Câu 25: Trình bày về hình thức sở hữu toàn dân?

Đáp án:

Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đảm bảo đúng mục đích sử dụng

Sở hữu toàn dân chúng ta hiểu đơn giản đó là tài sản chung của toàn bộ người dân Việt Nam như khoáng sản, lãnh thổ, đất đai…Và nhà nước là đại diện pháp lý có trách nhiệm bảo vệ, quản lý các tài sản này.

Về quyền sở hữu toàn dân khi được giao cho doanh nghiệp, đơn vị vũ trang, cơ quan nhà nước hoặc đơn vị cá nhân đều phải tuân thủ thực hiện nghĩa vụ đầy đủ với nhà nước đồng thời nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quản lý sử dụng tài sản đó ( điều 200 đến 204).

Câu 26: Trình bày về hình thức sở hữu riêng?

Đáp án:

Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc pháp nhân và tài sản hợp pháp về sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị

Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản sở hữu riêng của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác không gây ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Câu 27: Trình bày về hình thức sở hữu chung?

Đáp án:

 Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất

-) Sở hữu chung theo phần: Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung và mỗi chủ sở hữu có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình

-) Sở hữu chung hợp nhất: là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung đồng thời các chủ sở hữu có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung ( bao gồm cả sở hữu chung hợp nhất không phân chia và phân chia)

Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất

Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (Điều 209 Bộ luật dân sự 2015)

– Các trường hợp sở hữu chung theo phần

+ Sở hữu chung của thành viên trong gia đình

Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.

Lưu ý: Đối với sở hữu chung của thành viên trong gia đình thì việc sở hữu định đoạt sử dụng tài sản theo thỏa thuận của các thành viên trong gia đình nghĩa là có thể là tài sản chung hợp nhất hoặc phân chia theo phần. trường hợp không thỏa thuận thì áp dụng hình thức sở hữu chung theo phần

+ Sở hữu chung trong nhà chung cư: Trường hợp có thỏa thuận khác

Về sở hữu chung hợp nhất:

Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. (Điều 210 Bộ luật dân sự 2015)

– Trường hợp sở hữu chung hợp nhất:

+ Sở hữu chung của vợ chồng

Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng

  1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
  2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
  3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
  4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
  5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.

+ Sở hữu chung trong nhà chung cư

Điều 214. Sở hữu chung trong nhà chung cư

  1. Phần diện tích, trang thiết bị và các tài sản khác dùng chung trong nhà chung cư theo quy định của Luật nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và không phân chia, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc tất cả các chủ sở hữu có thỏa thuận khác.
  2. Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng tài sản quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc có thỏa thuận khác.

Ngoài hình thức sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần, Bộ luật dân sự 2015 còn ghi nhận sở hữu chung hỗn hợp. Đây thực chất là hình thức sở hữu chung theo phần với chủ thể quyền sở hữu đặc thù hơn khi do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.

Điều 215. Sở hữu chung hỗn hợp

  1. Sở hữu chung hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.
  2. Tài sản được hình thành từ nguồn vốn góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận hợp pháp thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp.
  3. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân theo quy định tại Điều 209 của Bộ luật này và quy định của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận.

Câu 28: Ý nghĩa các hình thức sở hữu theo bộ luật dân sự 2015?

Đáp án:

Thứ nhất, sự phân loại này bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ghi nhận tại các điều 32, 51 và 53, đồng thời cũng phù hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành.

Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do đó, có thể xác định Nhà nước chính là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản này. Vì vậy, trên cơ sở sở hữu toàn dân, Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản công.

Thứ ba, tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân là một hình thức sở hữu đặc biệt, không thể coi là một dạng của sở hữu riêng hoặc sở hữu chung, do đó, các quy định này tạo ra một chế độ pháp lý riêng biệt đối với hình thức sở hữu này.

Câu 29: Trình bày về phương thức kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản?

Đáp án:

Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nói cách khác:“chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 160 Bộ luật dân sự).

Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, Bộ luật dân sự đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện quyền của mình, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở trái pháp luật.

Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sàn không thuộc quyền sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật.

Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này,Bộ luật dân sự cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ, yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngoài việc công nhận quyền trên, Điều 169 Bộ luật dân sự còn quy định: chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.

Phương thức kiện này nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.

Câu 30: Trình bày về quyền chiếm hữu của chủ sở hữu?

Đáp án:

– Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình. Như vậy chủ sở hữu là người được toàn quyền chiếm hữu tài sản, tức là được nắm giữ và chi phối tài sản một cách trực tiếp mà không phải dựa vào ý chí của các chủ thể khác.

– Mặc dù là chủ thể có toàn quyền chiếm hữu nhưng việc chiếm hữu đó không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đó là những điều cấm không được làm của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào và những điều cấm đó sẽ giới hạn quyền chiếm hữu của chủ sở hữu, không cho họ gây thiệt hại cho xã hội và những chủ thể khác.

CHƯƠNG V: QUYỀN THỪA KẾ 

Câu 1: Trình bày khái niệm quyền thừa kế?

Đáp án:

Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình tự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống. Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.

Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa chủ quan là quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản. Quyền chủ quan này phải phù hợp với các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng.

Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác. Những người có quyền nhận di sản cố thể nhận hoặc không nhận di sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Đối tượng của thừa kế là các tài sản, quyền tài sản thuộc quyền của người đã chết để lại (trong một số trường hợp người để lại tài sản có thể chỉ để lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản). Tuy nhiên, một số quyền tài sản gắn liền với nhân thân người đã chết không thể chuyển cho những người thừa kế (tiền cấp dưỡng…) vì pháp luật quy định chỉ người đó mới có quyền được hưởng.

Câu 2: Mối quan hệ giữa quyền thừa kế với quyền sở hữu?

Đáp án:

Khi xã hội phân chia thành giai cấp, xuất hiện nhà nước, việc chiếm giữ những của cải vật chất trong xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị xã hội. Vì vậy, quyền sở hữu hiểu theo nghĩa khách quan là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước quy định nhằm điều chỉnh những quan hệ về sở hữu đối với các lợi ích vật chất trong xã hội. Những quy phạm pháp luật đó xác nhận, quy định và bảo vệ quyền sở hữu của các sở hữu chủ trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Quyền thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành quy định các điều kiện, trinh tự dịch chuyển những tài sản của người đã chết cho những người còn sống.

Quyền sở hữu và quyền thừa kế đều là những phạm trù pháp lí, song song tồn tại trong cùng một hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Giữa chúng có mối liên quan mật thiết và chặt chẽ, từ chỗ pháp luật quy định cho công dân có quyền sở hữu tài sản và cũng dựa vào đó pháp luật quy định cho họ các quyền năng trong quan hệ thừa kế.

Trong xã hội phong kiến hoặc trong xã hội tư bản – những xã hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì thừa kể là thừa hưởng tư liệu sản xuất của người đã chết để duy trì sự bóc lột sức lao động người khác và củng cố địa vị xã hội của những người thừa kế. Trong chế độ XHCN, một chế độ dựa trên nền tảng công hữu hoá tư liệu sản xuất chủ yếu như đất đai, rừng núi, sông, hồ… nhà nước là người đại diện cho nhân dân nắm giữ tư liệu sản xuất để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước và bảo vệ an ninh quốc phòng. Quyền thừa kế là thừa hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp mà nhà nước cho phép chuyển dịch. Đối tượng của thừa kế là những tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng như: nhà máy, cổ phần và các máy móc phục vụ cho sản xuất công, nông nghiệp…

Công dân có quyền để lại thừa kế những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác, Nhà nước không hạn chế quyền để lại thừa kế và quyền nhận thừa kế của công dân (trừ trường hợp vi phạm Điều 621 bộ luật dân sự năm 2015). Mặt khác, Nhà nước khuyến khích công dân bằng sức lao động của mình tạo ra nhiều của cải cho xã hội, làm giàu cho gia đình, làm cho đất nước văn minh và phồn vinh.

Câu 3: Phân tích bản chất của quyền thừa kế?

Đáp án:

Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật của các quốc gia ghi nhận. Tuy vậy, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau sự quy định cũng khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu trong xã hội đó. Trong xã hội mà nền tảng kinh tế của chúng được dựa vào chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì thừa kế sẽ bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột trong xã hội đó.

Quyền thừa kế có quan hệ chặt chẽ với quyền sở hữu, hình thức sở hữu quyết định việc thừa kế trong xã hội, vì vậy quyền thừa kế mang bản chất giai cấp sâu sắc.

Thừa kế là sự kế quyền tổng hợp của những người sống đối với quyền, nghĩa vụ của người đã khuất. Việc kế quyền toàn bộ hay một bộ phận quyền, nghĩa vụ do người chết để lại còn phụ thuộc vào các quy định của pháp luật và ý chí của người để lại di sản, người hưởng di sản.

Trong chế độ phong kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội; di sản của họ để lại cho con cháu không những chỉ là truyền lại quyền lực về kinh tế, mà còn là sự truyền lại quyền lực về chính trị để duy trì sự áp bức, bóc lột của những giai cấp đó đối với nhân dân lao động. Trong các xã hội có các chế độ sở hữu khác nhau thừa kế là một trong những phương thức để củng cố và phát triển chế độ sở hữu đó.

Sự kế thừa, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác là quy luật khách quan nhưng các quan hệ thừa kế ở mỗi chế độ xã hội được giải quyết như thế nào là do chủ quan con người quyết định. Quyền sở hữu cá nhân là cơ sở khách quan của việc thừa kế. Vì vậy, quyền thừa kế trong điều kiện của nước ta hiện nay được thể hiện như một phương tiện để củng cố sở hữu của công dân, củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình; bảo vệ lợi ích của những người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.

Pháp luật của Nhà nước ta bảo vệ những lợi ích cơ bản của mỗi người lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội, góp phần xóa bỏ những tàn tích của chế độ thừa kế do xã hội thực dân phong kiến để lại, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, làm cho nhân dân lao động yên tâm lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Quyền thừa kế xuất phát từ quan điểm coi gia đình là tế bào xã hội, phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi thành viên và sự ổn định của từng gia đình. Mặt khác, thông qua quyền thừa kế, giáo dục tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên đối với gia đình. Do đó, xác định diện những người thừa kế cũng như phương thức chia di sản thừa kế trong pháp luật về thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các chức năng vai trò, xã hội của nó.

Câu 4: Trình bày chủ thể của quyền thừa kế?

Đáp án:

  • Quyền thừa kế của người để lại di sản:

Theo Bộ luật dân sự 2015 thì mọi cá nhân đều có quyền định đoạt tài sản của mình thể hiện dưới dạng di chúc trước khi qua đời. Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, thành phần, tôn giáo, địa vị chính trị xã hội…đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

– Trường hợp có di chúc của người chết để lại thì việc phân chia di sản phải tuân theo ý nguyện của người lập di chúc đã ghi rõ trong di chúc.

– Trường hợp người chết không có di chúc để lại thì việc phân chia di sản sẽ tuân theo quy định của pháp luật về thừa kế tại Bộ luật dân sự 2015.

  1. Quyền thừa kế của người nhận di sản:

Mọi cá nhân đều có quyền nhận di sản trong trường hợp thuộc diện nhận di sản theo pháp luật hoặc theo di chúc. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

– Trường hợp người nhận di sản theo di chúc thì căn cứ vào quyền thừa kế của họ, họ sẽ được hưởng phần di sản mà người đã chết để lại theo đúng những điều khoản trong di chúc. Người được thừa kế theo di chúc có thể là bất kỳ ai theo ý chí của người lập di chúc.

Lưu ý: Người được thừa kế theo di chúc không được là người làm chứng cho di chúc hoặc công chứng, chứng thực di chúc.

– Trường hợp người nhận di sản theo quy định của pháp luật thì căn cứ vào hàng thừa kế để xác định phần di sản mà họ sẽ nhận được. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Câu 5: Trình bày về thời điểm mở thừa kế?

Đáp án:

Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 611 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.

Việc xác định thời điểm mở thừa kế rất quan trọng. Kể từ thời điểm đó, xác định được chính xác tài sản, quyền và nghĩa vụ về tài sản của người để lại thừa kế gồm cả những gì và đến khi chia di sản còn bao nhiêu. Thời điểm mở thừa kế là căn cứ xác định những người thừa kế của người đã chết, vì người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại dị sản chết,

Trong trường hợp Tòa án đã tuyên bố một người là đã chết, thì tùy từng trường hợp tòa án xác định ngày chết của người đó; nếu không xác định được ngày chết, thì ngày quyết định của Toà án tuyên bố người đó đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày người đó chết.

Ví dụ :Trong một tai nạn máy bay, lũ lụt… theo yêu cầu của thân nhân người bị tai nạn, đề nghị Toà án tuyên bố ngưởi chết, mà qua điều traa xác minh, nếu biết chính xác được ngày xảy ra tai nạn, thì Toà án có thể tuyên bố ngày chết của người bị tai nạn là ngày xảy ra tai nạn.

Câu 6: Trình bày về địa điểm mở thừa kế?

Đáp án:

Khoản 2 Điều 611 BLDS quy định: “Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.”

Địa điểm mở thừa kế được xác định theo đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, phường. thị trấn)

BLDS quy định địa điểm mờ thừa kế, vì ở nơi đó thường phải tiến hành những công việc như: Kiểm kê ngay tài sản của người đã chết (trong trường hợp cần thiết); xác định những ai là người thừa kế theo di chúc hoặc theo luật; người từ chối nhận di sản…

Ngoài ra, nếu có người trong diện thừa kế từ chấp nhận di sản, thì phải thông báo cho cơ quan Công chúng nhà nước hoặc UBND xã. phường, thị trấn nơi mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản. Hơn nữa, trong trường hợp có tranh chấp thì Tòa án nhân dân nơi mở thừa kế có thẩm quyền giải quyết.

Trong thực tế, một người trước khi chết có thể ở nhiều nơi khác nhau, do đó, BLDS quy định địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.

Câu 7: Trình bày nội dung về di sản thừa kế?

Đáp án:

Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho những người còn sống. Điều 612 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”

Như vậy, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết, quyền về tài sản của người đó. Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà nước bảo hộ. Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định:

– Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.

– Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.

Tất cả tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại thừa kế theo quy định của Hiến pháp đều là di sản. Di sản thừa kế bao gồm: Tài sản riêng của người chết; phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác; quyền về tài sản do người chết để lại.

Câu 8: Trình bày quy định về tài sản riêng của người đã chết?

Đáp án:

Tài sản riêng của người chết là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập hợp pháp (như tiền lương, tiền được trả công lao động, tiền thưởng, tiền nhuận bút, tiền trúng thưởng xổ số,..) tài sản được tặng cho, được thừa kế, tư liệu sinh hoạt riêng ( như quần áo, giường tủ, xe máy, ô tô, vô tuyến,..) nhà ở, tư liệu sản xuất các loại, vốn dùng để sản xuất kinh doanh.

– Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức hoặc được dùng làm của cải để dành.

– Nhà ở; diện tích mà người có nhà ị cải tại xã hội công nghiệp, được nhà nước để lại cho để ở và xác định là thuộc quyền sở hữu của người đó. Nhà do được thừa kế, tặng cho, mua, trao đổi hoặc tự xây dựng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép và đã làm thủ tục sang tên, trước bạ.

– Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của những người sản xuất cá thể hoặc của các tư nhân được sản xuất kinh doanh hợp pháp.

– Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.

– Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó.

Câu 9: Trình bày quy định về phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác?

Đáp án:

Trên thực tế có nhiều trường hợp do nhiều người cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh nên có khối tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người (đồng chủ sở hữu đối với một khối tài sản nhất định). Nếu một trong đồng chủ sở hữu chết thì di sản thừa kế của người chết là phần tài sản thuộc sở hữu của người đó đã đóng góp trong khối tài sản chung.

Khác với hình thức sở hữu chung theo phần, tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Khoản 1 Điều 213 BLDS quy định Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người, có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết như sau:

– Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

+ Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

– Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của BLDS

– Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định nêu trên, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.

Câu 10: Trình bày quy định quyền về tài sản do người chết để lại?

Đáp án:

Đó là các quyền dân sự được phát sinh từ các quan hệ hợp đồng hoặc do việc bồi thường thiệt hại mà trước khi chết họ đã tham gia vào những quan hệ này như quyền đòi nợ, đòi lại tài sản cho thuê hoặc cho mượn, chuộc lại tài sản đã thế chấp, cầm cố, yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,..

Ngoài những quyền tài sản nói trên, quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp cũng là di sản thừa kế. Chủ sở hữu quyền tác giả để lại thừa kế quyền tài sản như quyền hưởng nhuận bút và các lợi ích vật chất khác. Đối với quyền sở hữu công nghiệp- một loại tài sản có tính chất đặc thù nên những quy định về thừa kế đối với quyền sở hữu công nghiệp cũng có những nét riêng. Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ 2005, quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp được cấp văn bằng bảo hộ thì được bảo hộ trong thời hạn văn bằng bảo hộ có hiệu lực (văn bằng có thể được gia hạn theo quy định của pháp luật)

Việc quy định về quyền tài sản do người chết để lại là di sản thừa kế góp phần bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường tinh thần trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, các quyền về tài sản gắn liền với nhân thân của người chết (quyền hưởng trợ cấp, tiền lương hữu) không là di sản thừa kế.

Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, Nhà nước là người quản lí toàn bộ đất đại và giao cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Để tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức đầu tư công sức vào sản xuất Nhà nước cho phép cá nhân có 5 quyền, trong đó có quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất. Tùy loại đất khác nhau mà quyền thừa kế cũng được quy định khác nhau.

Câu 11: Trình bày quy định chung về người quản lý di sản thừa kế?

Đáp án:

Trong trường hợp người lập di chúc không chỉ định và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản, thì những người đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.

Người quản lý di sản lập danh mục tài sản, thu hồi tài sản là di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu; bảo quản di sản, không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt di sản dưới bất kỳ hình thức nào; thông báo về di sản cho những người thừa kế và giao lại tài sản cho những người thừa kế. Người quản lí di sản có các quyền: đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế; được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.

Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý thì người quản lý di sản là cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Câu 12: Trình bày nghĩa vụ của người quản lý di sản?

Đáp án:

Theo quy định tại Điều 617 Bộ luật dân sự, người quản lý di sản thừa kế có những nghĩa vụ cơ bàn sau:

– Lập danh mục di sản, thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Bảo quản di sản, không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản.

Người quản lý di sản thừa kế không phải là sở hữu chủ nên không có quyền định đoạt tài sản mà mình đang quản lý. Việc định đoạt những tài sản đó thuộc về những người thừa kế, do đó nếu muốn bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp… thì phải được tất cả những người thừa kế đồng ý bằng văn bản.

– Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế.

Nếu có nhiều người thừa kế theo di chúc hoặc theo luật thì phải thông báo cho tất cả những người có quyền thừa kế để họ biết cụ thể về di sản thừa kế biết được quyền và nghĩa vụ của họ liên quan đến việc thừa kế.

– Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại.

Nghĩa vụ của người quản lí di sản là phải bảo quản tài sản, không làm hư hỏng, mất tài sản… Trường hợp người quản lý di sản có lỗi để di sản bị hao hụt, mất… thì phải bồi thường cho những người thừa kế.

– Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Người quản lý di sản có quyền quản lý trong một thời gian nhất định theo thoả thuận của những người thừa kế. Trong trường hợp người lập di chúc chỉ định người quản lý di sản thì người này sẽ quản lý đến khi nào tất cả những người thừa kế yêu cầu chuyển di sản để họ chia nhau, người quản lý di sản phải giao lại theo yêu cầu của họ. Mục đích cử người quản lý di sản là để tránh sự mất mát, hư hỏng và có người bảo quản tài sản khi chưa chia.

Câu 13: Trình bày quyền của người quản lý di sản?

Đáp án:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 618 Bộ luật dân sự năm 2015, người quản lý di sản theo thỏa thuận hoặc do người lập di chúc cử ra có các quyền sau:

– Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế.

Người quản lý di sản thực tế là người đại diện của những người thừa kế trong việc thu hồi, bảo quản, thanh toán các nghĩa vụ liên quan đến tài sản đổi với người thứ ba.

– Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật dân sự có các quyền sau:

– Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế.

– Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.

– Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

– Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Quyền của người quản lý di sản theo quy định tại Điều 618 Bộ luật dân sự đã bảo đảm quyền và lợi ích cơ bản của người quản lý di sản trong việc thanh toán chi phí bảo quản di sản. Từ thời điểm mở thừa kế, cho đến khi di sản thừa kế được chia cho những người thừa kế có quyền hưởng hoặc theo di chúc hoặc theo pháp luật là một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, việc quản lí di sản thừa kế chưa chia là cần thiết, tránh mất mát, hao hụt, hư hỏng. Nhằm bảo quản di sản thừa kế chưa chia, người quản lí di sản có thể tìm những giải pháp tốt nhất để bảo quản di sản như mua sắm vật liệu che mưa, che nắng, bảo quản tránh hư hỏng, hao hụt, tiêu huỷ theo thời gian trong môi trường cụ thể hoặc phải thuê kho, thuê mặt bằng để tập kết và bảo quản di sản là những động sản, xây dựng hàng rào để bảo quản nhà cửa, bảo vệ vật nuôi, bảo quản cây trồng và những tài sản thuộc di sản thừa kế… Vì vậy, pháp luật quy định người quản lý di sản được hoàn trả chi phí hợp lý để bảo quản di sản (khoản 3 Điều 618 Bộ luật dân sự).

Câu 14: Trình bày về các trường hợp không được hưởng di sản thừa kế?

Đáp án:

Trong quan hệ thừa kế, những người là vợ, chồng, con của người chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc là những người được hưởng thừa kế của người chết. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp họ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình, có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, trái với thuần phong mỹ tục của Việt Nam, xâm phạm đến danh sự, uy tín, tính mạng, sức khỏe của bố, mẹ, anh, em, vợ, chồng,.. Người có những hành vi như vậy không được quyền hưởng di sản của người để lại thừa kế. Khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định những người không được quyền hưởng di sản gồm:

– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

– Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

– Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 621 BLDS đã quy định nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người theo quy định không được quyền hưởng di sản , nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc thì những người đó vẫn được hưởng di sản.

Câu 15: Phân tích quy định về việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm?

Đáp án:

Tại Điều 619 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về việc thừa kế trong trường hợp chết cùng thời điểm như sau:“Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật này.”

     Đối chiếu sang Điều 652 về thừa kế thế vị theo Bộ Luật Dân sự 2015 ta có: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

     Về nguyên tắc, kể từ thời điểm người để lại di sản chết (thời điểm mở thừa kế), di sản sẽ được chia cho những người thừa kế của người chết theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đối với người thừa kế là cá nhân, thì người đó phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế, sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế.

Trong thực tế, có nhiều trường hợp người có quyền thừa kế di sản của nhau cùng chết trong một tai nạn làm chết nhiều người cùng một lúc như đắm tàu, tai nạn xe lửa, tai nạn máy bay, động đất, v.v.., việc xác định người nào chết trước, người nào chết sau có ý nghĩa quan trọng, vì người chết sau là người thừa kế di sản của người chết trước. Trong trường hợp không có đủ chứng cứ xác định ai chết trước ai chết sau thì ta coi như họ là những người chết cùng một thời điểm khi đó, thừa kế trong trường hợp chết cùng thời điểm sẽ được giải quyết như sau: vì người được quyền hưởng thừa kế đó không còn sống tại thời điểm mở thừa kế nên họ sẽ không được hưởng tài sản thừa kế của nhau và không được thừa kế di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng. Trừ trường hợp thừa kế thế vị đã nêu ở trên. Tức là trong trường hợp bố, mẹ mất cùng một thời điểm với ông nội hoặc bà nội thì con sẽ được thừa kế thế vị thay thế bố, mẹ nhận di sản thừa kế của ông, bà.

Câu 16: Quy định về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế?

Đáp án:

Điều 623. Thời hiệu thừa kế

  1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
  2. a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
  3. b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
  4. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
  5. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Như vậy thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế đối với bất động sản là 30 năm kể từ ngày bố bạn mất. Như vậy trong trường hợp này anh chị em nhà bạn vẫn có quyền yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật.

Câu 17: Trình bày về hình thức và nội dung của di chúc?

Đáp án:

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:

– Ngày, tháng, năm lập di chúc;

– Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

– Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

– Di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung nêu trên, di chúc có thể có các nội dung khác.

Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

Câu 18: Trình bày về hiệu lực pháp luật của di chúc?

Đáp án:

Hiệu lực pháp luật của di chúc là giá trị pháp lý của di chúc được thực hiện trên thực tế theo đúng nội dung của di chúc, phù hợp với các quy định của pháp luật.

Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.

Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

– Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

– Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

– Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

– Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.

– Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.

– Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.

Câu 19: Trình bày nguyên tắc phân chia di sản theo di chúc?

Đáp án:

Việc phân chia di sản theo di chúc được thực hiện theo nguyên tắc thực hiện theo ý chí của người lập di chúc, tôn trọng sự định đoạt, quyết định tài sản của người lập di chúc. Nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 659 Bộ luật Dân sự 2015:

“1. Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

  1. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
  2. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.”

Câu 20: Trình bày quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật?

Đáp án:

Căn cứ khoản 1, Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015, những trường hợp áp dụng chia thừa kế theo pháp luật bao gồm:

  • Trường hợp thứ nhất: Không có di chúc.
  • Trường hợp thứ hai: Có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Di chúc không hợp pháp sẽ không có hiệu lực pháp luật, rơi vào trường hợp vi phạm điều kiện chung của giao dịch dân sự theo Điều 177 và điều kiện về di chúc hợp pháp theo Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015.
  • Trường hợp thứ ba: Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
  • Trường hợp thứ tư: Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản.
  • Trường hợp thứ năm: Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà từ chối nhận di sản.
  • Trường hợp thứ sáu: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc.

Câu 21: Trình bày quy định về thừa kế kế vị?

Đáp án:

Theo nguyên tắc chung trong luật thừa kế tài sản, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm thừa kế.

Nhưng pháp luật thừa kế nước ta còn quy định trường hợp khi con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu của người đó được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống.

Nếu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắc được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Những trường hợp này được gọi là thừa kế thế vị.

Căn cứ Điều 652 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thừa kế thế vị như sau:

“Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

Vậy thừa kế thế vị là việc các con (cháu, chắt) được thay vào vị trí của bố hoặc mẹ (ông, bà) để hưởng di sản của ông bà ( hoặc cụ) trong trường hợp bố hoặc mẹ (ông hoặc bà) chết trước hoặc chết cùng ông, bà (hoặc cụ).

Những người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản mà bố, mẹ mình (hoặc ông bà) đáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia đều di sản đối với những người thừa kế khác.

Câu 22: Thời điểm di sản thuộc quyền sở hữu của người thừa kế?

Đáp án:

Từ thời điểm mở thừa kế đến thời điểm phân chia di sản theo luật thừa kế, di sản cần bảo quản khỏi bị hư hỏng, mất mát. Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Vì vậy, sau khi người có tài sản chết, di sản thuộc quyền sở hữu của người thừa kế kể từ thời điểm người thừa kế nhận đi sản. Trường hợp di sản là tài sần phải đăng ký quyền sở hữu thì sau khi đăng ký có quyền sở hữu thì người thừa kế có quyền sở hữu. Như vậy cần phân biệt hai trường hợp di sản là tài sản đăng ký quyền sở hữu:

– Về nguyên tắc người thừa kế thể hiện nhận di sản thì di sản thực tế của họ (chiếm hữu thực tế).

– Người thừa kế là chủ sở hữu tài sản đó kể từ khi được cấp giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu.

Vấn đề trên sẽ liên quan đến thời hiệu của việc thừa kế và quyền sở hữu phát sinh theo thời hiệu. Kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế nhận di sản nhưng không yêu cầu chia di sản, nếu người nào chiếm hữu ngay tình di sản đó 30 năm sẽ có quyền sở hữu (Điều 236 Bộ luật dân sự 2015).

Câu 23: Trình bày về việc giao di sản chưa chia?

Đáp án:

Sau khi mở thừa kế, việc giao di sản chưa chia cho ai bảo quản, do những người thừa kế quyết định (trừ trường hợp trong di chúc người để lại di sản chỉ định người quản lý di sản và phân chia tài sản). Có những tài sản do người thừa kế sử dụng (như cha, mẹ đã cho con sử dụng một ngôi nhà, hoặc cố những tài sản chưa được giao cho ai sử dụng, quản lý).

Những người thừa kế có thể cho người đang sử dụng được tiếp tục sử dụng tài sản cho đến khi chia di sản, nhưng đối với tài sản chưa giao cho người nào quản lý, thì những người thừa kế thỏa thuận giao cho ai quản lý phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Khi có yêu cầu chia di sản thừa kế sẽ chia nhưng cần phải thanh toán các chi phí bảo quản di sản, các nghĩa vụ của người chết chưa thực hiện.

Câu 24: Trình bày quy định về việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại?

Đáp án:

Người hưởng thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp người chết để lại nhiều nghĩa vụ mà di sản thừa kế không đủ để thanh toán. Vì vậy, theo Điều 658 quy định thứ tự ưu tiện thanh toán như sau:

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

– Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

– Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

– Chi phí cho việc bảo quản di sản.

– Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

– Tiền công lao động.

– Tiền bồi thường thiệt hại.

– Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

– Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

– Tiền phạt.

– Các chi phí khác.

Sau khi đã thanh toán nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo thứ tự ưu tiên và các khoản chi phí khác liên quan đến thừa kế, số tài sản còn lại sẽ được phân chia cho những người thừa kế theo luật thừa kế.

Câu 25: Trình bày về cách phân chia di sản thừa kế?

Đáp án:

  1. Phân chia di sản theo di chúc:

– Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

  1. Phân chia di sản theo pháp luật:

Căn cứ quy định tại Điều 659 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về phân chia di sản theo pháp luật thì việc phân chia di sản theo pháp luật sẽ được tiến hành như sau:

  1. Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
  2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

Câu 26: Trình bày về quy định hạn chế phân chia di sản?

Đáp án:

Căn cứ theo quy định tại Điều 661 Bộ Luật Dân sự 2015, di sản bị hạn chế phân chia  trong trường hợp theo ý chí của người lập di chức hoặc theo thoả thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mói được đem chia.

Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.

Câu 27: Phân chia di sản trong các trường hợp cụ thể?

Đáp án:

Căn cứ theo quy định tại Điều 662 Bộ Luật Dân sự 2015, việc phân chia đi sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì được giải quyết như sau:

– Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Câu 28: Trình bày về thời hiệu phân chia di sản?

Đáp án:

Căn cứ theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

– Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ Luật Dân sự 2015

– Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 623 Bộ Luật Dân sự 2015.

Câu 29: Trình bày về nghĩa vụ của người quản lý di sản?

Đáp án:

Trường hợp người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý 

Những chủ thể quản lý di sản trên có nghĩa vụ như sau:

– Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

– Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

– Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

– Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

– Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Trường hợp người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản:

Chủ thể quản lý di sản trên có nghĩa vụ sau đây:

– Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

– Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

– Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

– Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Câu 30: Phân tích các điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp?

Đáp án:

Để di chúc hợp pháp thì phải đáp ứng tất cả các điều kiện sau:

  1. Chủ thể lập di chúc

Những người sau đây có quyền lập di chúc:

– Người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc;

– Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực;

  1. Nội dung của di chúc

– Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội:

+ Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định;

+ Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

– Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:

+ Ngày, tháng, năm lập di chúc;

+ Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

+ Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

+ Di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác.

– Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

  1. Hình thức của di chúc

Di chúc có thể được lập bằng các hình thức sau đây:

* Di chúc miệng (Xem thêm Điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng)

* Di chúc bằng văn bản, bao gồm:

– Di chúc bằng văn bản có người làm chứng:

Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân thủ các điều kiện tại mục (1), (2) và những người sau đây không được làm chứng:

+ Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.

+ Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

+ Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

– Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân thủ các điều kiện tại mục (1), (2).

– Di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.

Những người sau đây không được công chứng, chứng thực di chúc:

+ Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.

+ Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.

+ Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

– Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực

Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện tại mục (1), (2).

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *