Luật hình sự – phần chung: 80 câu hỏi ôn tập (có đáp án)

1. Khái niệm Luật Hình sự. Đối tượng & phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự.

– Luật Hình sự là hệ thống các quy phạm pháp luật xác định về các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội để quy định là tội phạm và quy định hình phạt áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân thương mại thực hiện các tội đó.

– Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là các quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước với cá nhân hoặc pháp nhân thương mại phạm tội.

– Phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự là phương pháp mệnh lệnh – phục tùng (phương pháp quyền uy). Điều này thể hiện ở việc cá nhân hoặc pháp nhân phạm tội phải chịu TNHS và chấp hành hình phạt vì nó được bảo đảm bằng cưỡng chế Nhà nước.

2. Khái niệm & cấu tạo của Bộ luật Hình sự Việt Nam.

a) Khái niệm: Bộ luật Hình sự là văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành chứa đựng bao các quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt nói chung cũng như về các tội phạm cụ thể và các khung hình phạt đối với tội phạm cụ thể đó.

b) Cấu tạo:

Lời nói đầu, Phần những quy định chung, Phần các tội phạm và Phần hiệu lực thi hành.

– Lời nói đầu

+ Xác định chức năng của LHS cũng như của BLHS trong đó đặc biệt nhấn mạnh chức năng răn đe giáo dục.

+ Khẳng định tính kế thừa của BLHS đồng thời xác định trách nhiệm thi hành Bộ luật thuộc về tất cả các cơ quan, tổ chức và toàn thể nhân dân.

– Phần những quy định chung (12 Chương, 122 điều)

+ Hình thức:

Được cấu trúc thành các Chương – Mục – Điều – Khoản – Điểm (02 chương đó là Chương VIII và Chương XII).

Được cấu trúc thành các Chương – Điều – Khoản – Điểm (12 chương).

+ Nội dung:

Quy định những vấn đề chung của Bộ luật, về tội phạm, về TNHS và về hình phạt.

– Phần các tội phạm (13 chương, 303 điều)

+ Hình thức:

Được cấu trúc thành các Chương – Mục – Điều – Khoản – Điểm (03 chương đó là Chương XVIII, Chương XXI và Chương XXIII).

Được cấu trúc thành Chương – Điều – Khoản – Điểm (10 chương).

+ Nội dung:

Bao gồm các điều luật quy định về các tội phạm cụ thể và các khung hình phạt cụ thể.

– Phần hiệu lực thi hành (01 điều, Điều 426)

– Quy định thời hiệu thi hành của Bộ luật.

>>> Xem các nội dung liên quan đến: Bộ luật hình sự 2015

c) Cấu tạo của một điều luật trong phần Các tội phạm

Mỗi điều luật phần Các tội phạm, xét về hình thức cấu trúc gồm các khoản khác nhau, nhưng xét về nội dung có hai phần là phần mô tả tội phạm (phần quy định) và phần xác định hình phạt (phần chế tài):

– Phần quy định: Là phần của điều luật mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm mà điều luật quy định.

+ Nội dung: Cho phép nhận biết được tội phạm, đủ để phân biệt tội phạm được quy định với các tội phạm khác và với trường hợp chưa phải là tội phạm mà chỉ là vi phạm.

+ Phân loại

  • Quy định giản đơn: Là quy định không có sự mô tả tội phạm mà chỉ nhắc lại tội danh.
  • Quy định mô tả: Là quy định có sự mô tả đầy đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của một tội danh, cho phép phân biệt được tội phạm và đủ để phân biệt tội phạm được quy định với các tội phạm khác và trong trường hợp cần thiết cũng đủ cho phép phân biệt với hành vi vi phạm.
  • Quy định mô tả dạng đặc biệt (quy phạm viện dẫn): Là các quy định trong đó có nội dung mô tả không được thể hiện ngay trong điều luật mà được chỉ dẫn sang điều luật khác hoặc sang văn bản pháp luật khác.

– Phần chế tài: Là phần xác định khung hình phạt có thể áp dụng đối với người đã phạm tội được mô tả ở phần quy định.

+ Khung hình phạt là giới hạn giữa mức nhẹ nhất và mức nặng nhất của hình phạt có thể áp dụng đối với người phạm tội (trong giới hạn có thể là các loại hình phạt khác nhau).

+ Mỗi điều luật thường có từ hai khung hình phạt trở lên, trong đó một khung cho trường hợp cơ bản, các khung còn lại cho trường hợp tăng nặng hay giảm nhẹ.

3. Nhiệm vụ của Luật Hình sự Việt Nam? Giải thích đạo Luật Hình sự?

a) Nhiệm vụ bảo vệ của Luật Hình sự

– Đối tượng bảo vệ của ngành LHS được nêu khái quát trong Lời nói đầu của Bộ luật và tiếp đó được xác định cụ thể hơn tại Điều 1 và Điều 8 BLHS.

– Luật Hình sự bảo vệ các QHXH trên bằng cách xác định đúng, đủ và kịp thời những hành vi có thể gây nguy hại cho các đối tượng bảo vệ để quy định là tội phạm.

b) Nhiệm vụ đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

– Chống tội phạm: Là hoạt động trực diện đối với tội phạm – hoạt động phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử tội phạm.
– Phòng ngừa tội phạm: Bao gồm nhiều hoạt động khác nhau nhằm ngăn ngừa không để cho tội phạm xảy ra và đều có quan hệ mật thiết với hoạt động chống tội phạm.

– Mối quan hệ giữa phòng và chống tội phạm: Chống tội phạm có hiệu quả không chỉ có tác dụng răn đe, ngăn ngừa tội phạm mà còn có thể định hướng cho các hoạt động phòng ngừa khác.

c) Nhiệm vụ giáo dục của Luật Hình sự

– Ngành LHS không chỉ là công cụ răn đe những người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn răn đe cả những người khác.Và qua đó giáo dục người phạm tội cũng như mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tránh các hành vi phạm tội.

– Ngành LHS cũng là công cụ giáo dục ý thức tham gia chống và phòng ngừa tội phạm cho tất cả mọi người với vai trò là công dân cũng như với vai trò là thành viên của cơ quan hay tổ chức.

4. Việc áp dụng nguyên tắc tương tự trong pháp Luật Hình sự Việt Nam.

Áp dụng pháp luật tương tự là giải quyết vụ việc pháp lý cụ thể trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc khác có nội dung giống (tương tự) vụ việc đang cần giải quyết hoặc trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật chung.

Trong pháp Luật Hình sự Việt Nam không áp dụng nguyên tắc tương tự pháp luật để giải quyết các vụ án mà trong luật không có quy định.

5. Nội dung cơ bản, sự thể hiện trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) & ý nghĩa của nguyên tắc pháp chế.

a) Nguyên tắc pháp chế

– Cơ sở pháp lý:

+ Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.

+ Điều 2 BLHS quy định: “1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.

+ Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện”.

+ Điều 30 BLHS quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong

Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội”.

+ Điều 50 BLHS quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự”.

– Nội dung:

+ Các vấn đề về tội phạm và hình phạt đều phải được quy định cụ thể rõ ràng trong BLHS.

+ Việc xác định tội phạm và hình phạt trong áp dụng pháp luật đều phải dựa trên các điều luật cụ thể.

6. Nội dung cơ bản, sự thể hiện trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2917) & ý nghĩa của nguyên tắc bình đẳng trước Luật Hình sự.

b) Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật

– Cơ sở pháp lý:

+ Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”.

+ Điểm b Khoản 1 Điều 3 BLHS quy định: “Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.

+ Điểm b khoản 2 Điều 3 quy định: “Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế”.

– Nội dung:

+ Ngành LHS với các quy định về tội phạm và các quy định về hình phạt có giá trị như nhau đối với tất cả mọi người và pháp nhân thương mại nói chung và đặc biệt là đối với những người và pháp nhân thương mại đã có hành vi phạm tội nói riêng.

+ Ngành LHS không được phép quy định các đặc điểm về nhân thân là cơ sở để truy cứu TNHS.

7. Nội dung cơ bản, sự thể hiện trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) & ý nghĩa của nguyên tắc công minh.

“Nguyên tắc của luật hình sự là tư tưởng chủ đạo vào định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật hình sự, cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự thông qua một hay nhiều quy phạm của nó”.

Công minh trong luật hình sự được hiểu như một khái niệm nhằm đánh giá, đo lường sự hiệu quả của việc ban hành các quy phạm pháp luật hình sự, là sự đánh giá tương xứng giữa sự phù hợp của nội dung quy phạm với các tình yếu tố thực tế khi áp dụng vào thực tiễn, đảm bảo phát huy tác dụng tối đa của các quy phạm khi áp dụng vào thực tiễn vụ việc hình sự nhằm thực hiện nhiệm vụ của BLHS. Biểu hiện cụ thể của nguyên tắc này là:

1) Hình phạt, các biện pháp tư pháp và các quy định hình sự khác áp dụng đối với người phạm tội cần đảm bảo sự phù hợp với tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, động cơ và mục đích phạm tội, mức độ lỗi cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phù hợp với nhân thân người phạm tội;

2) Trong BLHS có các quy phạm mang tính chất tùy nghi để giúp Tòa án chủ động trong việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với từng tội phạm cụ thể qua đó áp dụng một cách hợp lý, hợp tình, phát huy hiệu quả mục đích của hình phạt và các biện pháp hình sự khác;

3) Không một hành vi phạm một tội nhất định nào bị xử lý quá một lần.

8. Nội dung cơ bản, sự thể hiện trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) & ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo.

d) Nguyên tắc nhân đạo

– Thể hiện ở nguyên tắc xử lý tội phạm, về các hình phạt và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội.

+ Nguyên tắc xử lý tội phạm

Điểm d Khoản 1 Điều 3 BLHS quy định: “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”.

Điểm d Khoản 2 Điều 3 BLHS quy định: “Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra”.

+ Các hình phạt và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội

Về mục đích của hình phạt Điều 31 BLHS quy định: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.

Đối với hai hình phạt nghiêm khắc nhất là hình phạt tù chung thân và tử hình, LHS đã giới hạn phạm vi áp dụng nhằm thể hiện tính nhân đạo.

Điều 39 BLHS quy định: “Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.
Khoản 2 Điều 40 BLHS quy định: “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.”

– Thể hiện ở quyết định hình phạt, về TNHS của người chưa thành niên, về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo), về miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, về xóa án tích…

9. Nội dung cơ bản, sự thể hiện trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) & ý nghĩa của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự.

Cũng như các nguyên tắc khác, nguyên tắc phân hóa TNHS phải được thể hiện trong xây dựng luật hình sự cũng như trong áp dụng luật hình sự. Trong áp dụng luật hình sự, nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc cá thể hóa TNHS hay là nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Theo đó, phân hóa TNHS trong luật là cơ sở pháp lý cần thiết cho việc cá thể hóa TNHS trong áp dụng.

Các biểu hiện của phân hóa TNHS trong luật có thể là:

+ Phân loại tội phạm thành các nhóm tội khác nhau để có các quy định khác nhau về TNHS;

+ Đa dạng hóa hệ thống hình phạt;

+ Phân hóa chế tài của mỗi tội thành nhiều khung hình phạt khác nhau;…

Thể hiện nguyên tắc này, tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 BLHS xác định các đối tượng cần nghiêm trị và khoan hồng dựa trên các căn cứ khác nhau. Ví dụ như người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, tái phạm nguy hiểm, côn đồ, ngoan cố chống đối, lợi dụng chức vụ, hoặc có thủ đoạn xảo quyệt,… cần phải nghiêm trị. Trái với đó là những người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm,… thì sẽ được thưởng khoan hồng.

Nội dung phân hóa trên đây được cụ thể hóa tại các Điều 51 và 52 BLHS, quy định về các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, cũng như cụ thể hóa ở dấu hiệu khung hình phạt của một số đối tượng. Nội dung này cũng cần được chú ý khi áp dụng LHS để cá thể hóa TNHS.

10. Nội dung cơ bản, sự thể hiện trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) & ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm do lỗi.

Nguyên tắc có lỗi là nguyên tắc chỉ cho phép truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện khi người đó có lỗi trong việc thực hiện hành vi này.

– Thứ nhất, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, khi hành vi đó được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Lỗi là một trong những cơ sở của trách nhiệm hình sự, không có lỗi thì không có tội.

– Thứ hai, lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có của tất cả các cấu thành tội phạm, là vấn đề phải chứng minh trong tố tụng hình sự, việc xác định lỗi là điều không thể thiếu trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử từ đó xác định được chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay không, mức độ nguy hiểm cho xã hội đến đâu để áp dụng trách nhiệm phù hợp với chủ thể.

– Thứ ba, nguyên tắc có lỗi không cho phép quy tội khách quan, có nghĩa là không truy cứu trách nhiệm hình sự một người người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi chưa xác định được lỗi của họ, không được xác định tội danh và xem xét hậu quả để xác định hình phạt khi chưa xác định lỗi của người phạm tội.

– Thứ tư, lỗi phản ánh được tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, lỗi cố ý sẽ nặng hơn so với lỗi vô ý.

Nguyên tắc có lỗi được thừa nhận xuất phát từ chức năng giáo dục của ngành luật hình sự. Chức năng này sẽ không thể thực hiện được khi truy cứu trách nhiệm hình sự một người mà họ không có lỗi khi thực hiện hành vi phạm tội.

11. Những điểm mới chủ yếu về chế định tội phạm và phân loại tội phạm trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Các quy phạm của chế định quan trọng thứ hai của pháp luật hình sự Việt Nam sau pháp điển hóa lần thứ ba được ghi nhận tại Chương III “Tội phạm” trong Bộ luật Hình sự năm 2015 vối 12 điều (các điều 8-19).

Trước hết đó là sự thay đổi về cơ cấu vì lần đầu tiên trong Chương III “Tội phạm” của Bộ luật Hình sự năm 2015, nhà làm luật đã khắc phục được sự bất hợp lý trong Bộ luật Hình sự (năm 1985) và Bộ luật Hình sự (năm 1999), đưa các quy định về bốn trường hợp không phải là tội phạm như: sự kiện bất ngờ, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, phòng vệ chính đáng và, tình thế cấp thiết ra khỏi sự ghi nhận chung với các quy định về tội phạm (Chương III) để ghi nhận riêng biệt bốn trường hợp này trong một chương độc lập và hoàn toàn mới, Chương IV “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” với 07 điều luật (các điều 20-26).

Các quy phạm về phân loại tội phạm được ghi nhận tại Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 với tư cách là một chế định độc lập thuộc chế định về tội phạm mà việc phân tích nội hàm của nó đã cho thấy các đặc điểm cơ bản sau:

a. Đặc điểm thứ nhất về chế định nhỏ về phân loại tội phạm

Về chế định này đang phân tích đã được nhà làm luật tách ra khỏi Điều 8 “Khái niệm tội phạm” và để quy định thành Điều 9 “Phân loại tội phạm” tương ứng với bốn loại tội phạm tại bốn điểm a, b, c và d của khoản 1 (vì trong Bộ luật Hình sự (năm 1999) chế định này tuy đã được quy định riêng biệt tại khoản 2 Điều 8 nhưng “phân loại tội phạm” vẫn bị ghi nhận cùng chung trong Điều 8).

b. Đặc điểm thứ hai

Bên cạnh việc giữ nguyên tiêu chí “mức cao nhất của khung hình phạt” đối với bốn loại tội phạm như trong Bộ luật Hình sự (năm 1999) thì nhà làm luật đã thay đổi phạm trù “gây nguy hại… cho xã hội” ở vế sau khái niệm của mỗi loại trong bốn loại tội phạm theo cách phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự (năm 1999) bằng phạm trù “có tính chất và mức độ nguy hiểm” cho chính xác và phù hợp đúng với căn cứ đã nêu của “hành vi phạm tội” theo cách phân loại tội phạm do cá nhân thực hiện tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015; và Ghi nhận bổ sung thêm cụm từ “do Bộ luật này quy định” vì trong Bộ luật Hình sự (năm 1999) không ghi nhận chủ thể quy định hình phạt là chủ thể nào.

c. Đặc điểm thứ ba

Sự phân loại tội phạm do cá nhân thực hiện tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng được nhà làm luật bổ sung một số thay đổi liên quan đến khung hình phạt đốì với ba loại tội quy định tại ba điểm a, b và c như sau:

– Đối với tội ít nghiêm trọng thì ngoài việc giữ nguyên mức cao nhất của khung hình phạt là “đến 03 năm” như Bộ luật Hình sự (năm 1999), còn bổ sung thêm hai loại hình phạt nữa là “phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ” (điểm a).

– Đối với tội nghiêm trọng thì ngoài việc giữ nguyên mức cao nhất của khung hình phạt là “đến 07 năm tù” như Bộ luật Hình sự (năm 1999), còn bổ sung thêm mức tối thiểu nữa là “từ trên 03 năm tù…” (điểm b).

– Đối với tội rất nghiêm trọng thì ngoài việc giữ nguyên mức cao nhất của khung hình phạt là “đến 15 năm tù” như Bộ luật Hình sự (năm 1999), còn bổ sung thêm mức tối thiểu nữa là “từ trên 07 năm tù…” (điểm c).

– Đối với tội đặc biệt nghiêm trọng thì ngoài việc giữ nguyên mức cao nhất của khung hình phạt là phạt “trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” (như Bộ luật Hình sự năm 1999), còn bổ sung một số thuật ngữ là “từ… đến 20 năm tù” để cụ thể hóa rõ hơn mức tối thiểu nữa vào đằng trước và sau hình phạt tù đã nêu trước đây của Bộ luật Hình sự (năm 1999) thành “trên 15 nám đến 20 năm tù” (điểm d).

d. Đặc điểm thứ tư

Riêng quy phạm mới về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện tại khoản 2 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng khẳng định quan điểm của nhà làm luật là dựa trên sự phân loại tội phạm do cá nhân (thể nhân) thực hiện nhưng chỉ “căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi” (theo quy định tại khoản 1 Điều 9) và dựa trên các quy phạm tương ứng đối với các tội phạm được ghi nhận tại Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự chỉ đối vói riêng 33 cấu thành tội phạm được quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Như vậy, việc phân tích quy phạm về phân loại tội phạm mối đốì với pháp nhân thương mại tại khoản 2 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho thấy:

– Về mặt hình thức, quy phạm này là mới vì đã bổ sung thêm vào sau khi Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017 vì so với Bộ luật Hình sự năm 2015 (khi chưa được sửa đổi, bổ sung) thì tại thời điểm mổi thông qua (vào cuôì năm 2015) chưa có quy phạm phân loại tội phạm này;

– Về mặt nội hàm, không có gì mới vì cũng là bốn loại tội phạm tương ứng vối bốn khoản (từ khoản 1 đến khoản 4).

12. Phân tích đặc điểm thứ nhất của tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội (tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm)?

a) Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội:

Hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm được hiểu dưới 2 góc độ: Gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội về khách quan và có lỗi về chủ quan.

* Về khách quan:

– Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các QHXH được LHS bảo vệ (trong đó các QHXH quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS).

+ Gây ra thiệt hại đáng kể: Là làm biến đổi tình trạng của QHXH hoặc đối tượng bị tác động được LHS bảo vệ ở mức độ đáng kể.

(-) Có loại hành vi khi thực hiện luôn gây ra thiệt hại đáng kể và luôn bị coi là tội phạm mà không thể là VPPL khác.
Ví dụ: Hành vi giết người, hành vi hiếp dâm, hành vi cướp tài sản… (Điều 123, Điều 141, Điều 168 BLHS).

(-) Có loại hành vi khi thực hiện chưa gây ra thiệt hại đáng kể, chưa phải là tội phạm nhưng nếu có thêm các dấu hiệu khác (dấu hiệu về định tính và định lượng) thì lại gây ra thiệt hại đáng kể và là tội phạm.

Ví dụ: Hành vi trồng cây thuốc phiện. Riêng hành vi này chưa có đặc điểm nguy hiểm đáng kể, phải có thêm dấu hiệu khác là “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bi kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” thì hành vi lại có đặc điểm nguy hiểm đáng kể (Điều 247 BLHS).

+ Đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể: Là chưa làm biến đổi tình trạng của QHXH hoặc đối tượng bị tác động được LHS bảo vệ nhưng đã đặt chúng ở trong tình trạng nguy hiểm đáng kể.

(-) Có loại hành vi khi thực hiện luôn đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể, luôn là tội phạm mà không thể là vi phạm pháp luật khác.

Ví dụ: Hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109 BLHS). Hành vi này tuy chưa lật đổ được chính quyền nhân dân, nhưng đã đe dọa đến sự tồn tai, an toàn của chính quyền nhân dân đã đặt QHXH này trong sự nguy hiểm đáng kể.

(-) Có loại hành vi khi thực hiện chưa đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể, chưa phải là tội phạm nhưng có thêm các dấu hiệu khác (dấu hiệu về định tính và định lượng) thì lại đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể và là tội phạm.

Ví dụ: Hành vi đe dọa giết người. Riêng hành vi này thì chưa đe dọa gây thiệt hại đáng kể nhưng nếu có thêm dấu hiệu “có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện” thì hành vi này lại đe dọa gây thiệt hại đáng kể (Điều 133 BLHS).

Các QHXH bị gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể (được coi là đối tượng tác động của tội phạm) phải là những QHXH được LHS bảo vệ (được xác định ở Điều 1 và Điều 8 BLHS).

+ Về chủ quan: Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội còn bao gồm cả yếu tố lỗi. (Như chúng ta đã biết, xử sự của con người bao giờ cũng là sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan; hai mặt này bao giờ cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau). Đặc điểm có lỗi là bộ phận hợp thành của đặc điểm nguy hiểm cho xã hội, không thể có hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm mà không có lỗi. Tuy nhiên, để nhấn mạnh nguyên tắc có lỗi, LHS Việt Nam tách đặc điểm có lỗi là dấu hiệu độc lập của tội phạm.

+ Những tình tiết là căn cứ đánh giá đặc điểm nguy hiểm cho xã hội của hành vi
Để đánh giá đặc điểm nguy hiểm cho xã hội của hành vi được dựa trên cơ sở các căn cứ sau:

1. Tính chất của QHXH bị xâm hại

Ví dụ: Hành vi cắt đứt đường dây thông tin liên lạc của Quốc gia.
Nếu nhằm chống chính quyền nhân dân thì sẽ xâm hại đến an ninh Quốc gia và có tính nguy hiểm cao (Điều 114 Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước CHXHCN Việt Nam); nếu để bán lấy tiền thì sẽ xâm hại đến trật tự an toàn xã hội và có tính nguy hiểm thấp hơn (Điều 303 Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh Quốc gia).

2. Tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao gồm cả tính chất của phương pháp, thủ đoạn, công cụ và phương tiện phạm tội

Ví dụ: Hành vi giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người, hoặc bằng cách lợi dụng nghề nghiệp thì nguy hiểm hơn không sử dụng các phương pháp, thủ đoạn đó (Điều 123 BLHS).

3. Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho QHXH bị xâm hại (biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như mức độ gây thương tật, giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng hóa phạm pháp…)

Ví dụ: Hành vi hủy hoại tài sản, nhưng tài sản có giá trị tái sản càng lớn thì tính chất nguy hiểm cho xã hội càng lớn (Điều 178 BLHS).

4. Tính chất và mức độ lỗi

Ví dụ: Cũng là hành vi làm lộ bí mật Nhà nước nếu với lỗi cố ý thì bao giờ cũng nguy hiểm hơn với lỗi vô ý (Điều 337, 338 BLHS).

5. Động cơ, mục đích của người có hành vi phạm tội

Ví dụ: Hành vi mua bán người vì động cơ đê hèn (điểm b khoản 2), hoặc để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm b khoản 3) có tính nguy hiểm hơn so với hành vi mua bán trẻ em vì động cơ vô lí đơn thuần (khoản 1, Điều 150).

6. Hoàn cảnh chính trị – xã hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra

Ví dụ: Hành vi chống mệnh lệnh trong chiến đấu (điểm a khoản 3) có tính nguy hiểm cao hơn so với hành vi chống mệnh lệnh trong huấn luyện, thường trực sẵn sàng chiến đấu trong thời bình (khoản 1) (Điều 394 BLHS Tội chống mệnh lệnh).

7. Nhân thân của người có hành vi phạm tội

Nhân thân là tổng hợp các đặc điểm riêng của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết TNHS của họ như: độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, hoàn cảnh gia đình, tiền án, tiền sự…

Ví dụ: Hành vi cướp tài sản của người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp (điểm b khoản 2) thì nguy hiểm hơn đối với người không có tính chất chuyên nghiệp (Điều 168 BLHS)

Những tình tiết trên đây không những có ý nghĩa đối với người áp dụng LHS mà trước hết nó là cơ sở để các nhà làm luật xác định những hành vi nào là nguy hiểm cho xã hội và cấu thành tội phạm để quy định trong BLHS .

* Vị trí, ý nghĩa của đặc điểm nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

+ Là đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những đặc điểm (dấu hiệu) khác của tội phạm.

+ Là căn cứ để phân biệt hành vi là tội phạm với những hành vi vi phạm khác.

+ Là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc phân hóa TNHS được chính xác.

13. Phân tích đặc điểm thứ hai của tội phạm. Tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự (tính trái pháp luật hình sự của tội phạm)

Đặc điểm tội phạm là hành vi trái pháp Luật Hình sự.

– Theo Điều 8 BLHS, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu được quy định trong BLHS. Vậy tính trái pháp Luật Hình sự là dấu hiệu đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội phạm.

– Luật Hình sự Việt Nam coi tính trái pháp Luật Hình sự là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất mà chỉ là dấu hiệu biểu hiện mặt hình thức pháp lí của dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội – dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Hai dấu hiệu này có mối quan hệ biện chứng của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức

14. Phân tích đặc điểm thứ 3 của tội phạm. Tội phạm là hành vi được thực hiện một cách có lỗi (tính chất lỗi của tội phạm)

Đặc điểm tội phạm là hành vi được thực hiện một cách có lỗi.

Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

Căn cứ vào yếu tố lý trí và ý chí, chia thành: Lỗi cố ý và lỗi vô ý

+ Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra.

+ Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả mặc dù không mong muốn hậu quả xảy ra những có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

+ Lỗi vô ý do cẩu thả: là lỗi mà người thực hiện hành vi không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả.

+ Lỗi vô ý do quá tự tin: là lỗi mà người thực hiện hành vi có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

15. Phân tích đặc điểm thứ 4 của tội phạm. Tính chịu hình phạt.

Đặc điểm phải chịnh hình phạt của tội phạm.

– Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm trừng trị, giáo dục người phạm tội và giáo dục người khác.

– Đặc điểm phải chịu hình phạt là đặc điểm của tội phạm nhưng không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm như đặc điểm nguy hiểm cho xã hội và đặc điểm trái pháp Luật Hình sự.
Đây chỉ là đặc điểm kèm theo của đặc điểm nguy hiểm cho xã hội và đặc điểm trái pháp Luật Hình sự. Do vậy, Điều 8 BLHS không đề cập đặc điểm này trong khái niệm tội phạm.
Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người có hành vi phạm tội, không thể áp dụng hình phạt khi không có tội phạm xảy ra.

– Đặc điểm phải chịu hình phạt thể hiện là bất kì hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa phải chịu hình phạt.

16. Phân tích điểm khác nhau giữa tội phạm với vi phạm pháp luật khác?

Căn cứ để phân biệt Tội phạm Vi phạm pháp luật khác
Về mặt nội dung chính trị – xã hội Tội phạm là những hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội (*) Vi phạm pháp luật khác là những hành vi có tính nguy hiểm chưa đáng kể cho xã hội.
Về mặt hình thức pháp lý Quy định trong BLHS Quy định trong các văn bản của các ngành luật khác.
Về mặt hậu quả pháp lý Bị xử lý bằng hình phạt và để lại án tích Bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước ít nghiêm khắc hơn và không để lại an tích.

Các tiêu chí phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác

a, Đối với cơ quan xây dựng luật:

Đối với cơ quan xây dựng luật, tiêu chí phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác là mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội.

. Tội phạm là hành vi có tính “nguy hiểm đáng kể” cho xã hội. Để đánh giá hành vi có tính nguy hiểm đáng kể hay không đáng kể để quy định là tội phạm hay chỉ là vi phạm pháp luật khác, cơ quan xây dựng luật có thể căn cứ vào sự đánh giá tổng hợp của nhiều loại tình tiết khách quan và chủ quan, ttong đó đặc biệt chú ý đến những loại tình tiết sau:

– Tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại;

– Tính chất và mức độ thiệt hại gây ra hoặc có thể gây ra cho các quan hệ xã hội;

– Tính chất của lỗi…

b, Đối với cơ quan giải thích pháp luật

Đối với cơ quan giải thích pháp luật, tiêu chí phân biệt giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác cũng là mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội.

Để giải thích hành vi đã được quy định trong luật hình sự khi nào có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, các nhà giải thích thường dựa vào các căn cứ sau:

– Tính chất và mức độ của thiệt hại;

– Tính chất của thủ đoạn phạm tội;

– Tính chất của động cơ phạm tội.

 c, Đối với người áp dụng pháp luật

Đối với người áp dụng pháp luật, tiêu chí phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác trước hết là dấu hiệu có được quy định trong luật hình sự hay không.

Đối với những trường hợp (đã được quy định, chưa được giải thích hoặc đã được giải thích nhưng chưa cụ thể) đòi hỏi người áp dụng phải tự xác định hành vi có tính nguy hiểm đáng kể hay không thì căn cứ giúp việc xác định có là tội phạm hay không cũng tương tự như ở trường hợp b, nghĩa là có thể căn cứ vào:

– Tính chất và mức độ thiệt hại;

– Tính chất của phương pháp, thủ đoạn, của công cụ, phương tiện phạm tội;

– Mức độ lỗi.

17. Nội dung cơ bản của những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Khoản 2 Điều 2 BLHS 2015“Chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội quy định tại Điều 76 Bộ luật này”.

Khoản 1 Điều 8 BLHS quy định pháp nhân thương mại cũng có thể là chủ thể phạm tội và phải chịu hình phạt theo quy định của BLHS.

Điều 75. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;

b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;

c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;

d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này

– Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm sau đây:

1. Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản); Điều 234 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã);

2. Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản); Điều 243 (tội hủy hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại).

18. Các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về những nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội.

Những nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 (sửa đổi. bổ sung năm 2017)

1. Đối với người phạm tội:

a) Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;
c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra;
đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục;
e) Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện;
g) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.

19. Nội dung cơ bản, sự thể hiện trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm do lỗi.

Nội dung cơ bản:

+ Ngành Luật Hình sự truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi gây thiệt hại cho xã hội chỉ khi người đó có lỗi.

+ Hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng chủ thể không có lỗi đối với việc đó thì không bị coi là tội phạm và chủ thể không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thể hiện tại Điều 8 BLHS đã khẳng định tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.

1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

20. Hiệu lực của đạo Luật Hình sự theo không gian.

Hiệu lực theo không gian của BLHS:

+ Nguyên tắc lãnh thổ
Khoản 1 Điều 5 BLHS quy định: “Bộ luật Hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam”.
Khoản 2 Điều 5 BLHS quy định: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.

+ Nguyên tắc quốc tịch

Nguyên tắc quốc tịch có 02 loại: Nguyên tắc quốc tịch chủ động (theo quốc tịch của người phạm tội) và nguyên tắc quốc tịch bị động (theo quốc tịch của nạn nhân).

Khoản 1 Điều 6 BLHS quy định: “Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này

Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam”.

Khoản 2 Điều 6 BLHS quy định: “Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

+ Nguyên tắc bảo đảm an ninh quốc gia: Khoản 2 Điều 6 BLHS.

+ Nguyên tắc phổ cập

Khoản 2 Điều 6 BLHS quy định: “Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

Khoản 3 Điều 6 BLHS quy định: “Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định”.

21. Hiệu lực của đạo Luật Hình sự về thời gian.

Hiệu lực về thời gian của BLHS:

– Khoản 1 Điều 7 BLHS quy định: “Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện”.

=> Với quy định này, các điều luật cũng như BLHS nói chung chỉ có hiệu lực đối với tội phạm xảy ra sau khi điều luật, bộ luật có hiệu lực thi hành.

– Khoản 2 Điều 7 BLHS quy định: “Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.

=> Với quy định này, những điều luật có nội dung quy định không có lợi cho người phạm tội đều không có hiệu lực trở về trước.

– Khoản 3 Điều 7 BLHS quy định: “Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.

=> Với quy định này, những điều luật có nội dung có lợi cho người phạm tội được phép có hiệu lực trở về trước.

22. Vấn đề hiệu lực hồi tố của đạo Luật Hình sự

Trường hợp Nhà nước quy định áp dụng một đạo Luật Hình sự để giải quyết TNHS với tội phạm xảy ra trước khi ban hành đạo luật đó ta nói rằng đạo Luật Hình sự có hiệu lực hồi tố.

Hồi tố là một dạng hiệu lực pháp luật của văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được coi là tính bắt buộc thi hành của văn bản trong một giai đoạn nhất định, trên một không gian nhất định và với những chủ thể pháp luật nhất định.

BLHS năm 2015 của Nhà nước ta quy định cơ bản về hiệu lực theo thời gian của bộ luật.

Xuất phát từ nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi tội phạm phải được quy định trong Luật Hình sự “không có tội nếu không có luật”. Theo nguyên tắc này đạo Luật Hình sự chỉ có hiệu lực thi hành đối với tội phạm xảy ra khi đạo luật đó có hiệu lực thi hành và trước khi đạo luật đó mất hiệu lực . Nếu hành vi đã được thực hiện trước khi có luật thì không thể áp dụng điều luật để buộc họ chịu TNHS.

Tuy nhiên xuất phát từ tinh thần nhân đạo XHCN, Nhà nước quy định hồi tố hình sự với một số trường hợp cụ thể. Vấn đề hiệu lực hồi tố trong Luật Hình sự được duy trì với nguyên tắc là cho phép áp dụng những quy định có lợi cho người phạm tội.

23. Khái niệm tội phạm.

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. (Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)).

24. Những đặc điểm cơ bản của tội phạm.

Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội:

– Hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm được hiểu dưới hai góc độ: Gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội về khách quan và có lỗi về chủ quan.

– Gây ra thiệt hại đáng kể: Là làm biến đổi tình trạng của quan hệ xã hội hoặc đối tượng bị tác động được Luật Hình sự bảo vệ ở mức độ đáng kể.

– Đe dọa gây thiệt hại đáng kể: Là chưa làm biến đổi tình trạng của quan hệ xã hội hoặc đối tượng bị tác động được Luật Hình sự bảo vệ nhưng đã đặt chúng ở trong tình trạng nguy hiểm đáng kể.

Đặc điểm có lỗi của tội phạm:

– Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý.

– Người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết định thực hiện xử xự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.

Đặc điểm trái pháp Luật Hình sự của tội phạm:

– Theo Điều 8 BLHS, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu được uy định trong BLHS. Vậy tính trái pháp Luật Hình sự là dấu hiệu đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội phạm.

– Luật Hình sự Việt Nam coi tính trái pháp Luật Hình sự là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất mà chỉ là dấu hiệu biểu hiện mặt hình thức pháp lí của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội- dấu hiệu cơ bản của tội phạm . Hai dấu hiệu này có mối quan hệ biện chứng của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Đặc điểm phải chịu hình phạt:

– Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm.

– Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp Luật Hình sự. Tính chất này không những chỉ thể hiện ở chỗ chỉ hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt mà còn thể hiện ở chỗ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp Luật Hình sự, là cơ sở của việc cụ thể hóa tính chịu hình phạt cho từng trường hợp cụ thể.

– Tính chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm vì nó được xác định bởi chính những thuộc tính khách quan bên trong của tội phạm, chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu biện pháp trách nhiệm là hình phạt, không có tội phạm thì cũng không có hình phạt.

– Nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bất kì hành vi phạm tội nào, do tính nguy hiểm cho xã hội cũng đều bị đe dọa phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước có tính nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Nhưng điều đó không có nghĩa là việc áp dụng và thi hành trong thực tế hình phạt cụ thể là có tính chất bắt buộc tuyệt đối cho mọi trường hợp phạm tội. Trong thực tế vẫn có những trường hợp phạm tội không phải chịu hình phạt, đó là nhũng trường hợp có tội nhưng được miễn TNHS, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt.

25. Phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Căn cứ để phân biệt Tội phạm Vi phạm pháp luật khác
Về mặt nội dung chính trị– xã hội Tội phạm là những hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội (*) Vi phạm pháp luật khác là những hành vi có tính nguy hiểm chưa đáng kể cho xã hội.
Về mặt hình thức pháp lý Quy định trong BLHS Quy định trong các văn bản của các ngành luật khác.
Về mặt hậu quả pháp lý Bị xử lý bằng hình phạt và để lại án tích Bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước ít nghiêm khắc hơn và không để lại án tích.

Các tiêu chí phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác

a, Đối với cơ quan xây dựng luật:

Đối với cơ quan xây dựng luật, tiêu chí phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác là mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội.

. Tội phạm là hành vi có tính “nguy hiểm đáng kể” cho xã hội. Để đánh giá hành vi có tính nguy hiểm đáng kể hay không đáng kể để quy định là tội phạm hay chỉ là vi phạm pháp luật khác, cơ quan xây dựng luật có thể căn cứ vào sự đánh giá tổng hợp của nhiều loại tình tiết khách quan và chủ quan, ttong đó đặc biệt chú ý đến những loại tình tiết sau:

– Tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại;

– Tính chất và mức độ thiệt hại gây ra hoặc có thể gây ra cho các quan hệ xã hội;

– Tính chất của lỗi…

b, Đối với cơ quan giải thích pháp luật

Đối với cơ quan giải thích pháp luật, tiêu chí phân biệt giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác cũng là mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội.

Để giải thích hành vi đã được quy định trong luật hình sự khi nào có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, các nhà giải thích thường dựa vào các căn cứ sau:

– Tính chất và mức độ của thiệt hại;

– Tính chất của thủ đoạn phạm tội;

– Tính chất của động cơ phạm tội.

 c, Đối với người áp dụng pháp luật

Đối với người áp dụng pháp luật, tiêu chí phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác trước hết là dấu hiệu có được quy định trong luật hình sự hay không.

Đối với những trường hợp (đã được quy định, chưa được giải thích hoặc đã được giải thích nhưng chưa cụ thể) đòi hỏi người áp dụng phải tự xác định hành vi có tính nguy hiểm đáng kể hay không thì căn cứ giúp việc xác định có là tội phạm hay không cũng tương tự như ở trường hợp b, nghĩa là có thể căn cứ vào:

– Tính chất và mức độ thiệt hại;

– Tính chất của phương pháp, thủ đoạn, của công cụ, phương tiện phạm tội;

– Mức độ lỗi.

26. Phân biệt tội phạm với hành vi trái đạo đức.

Giống nhau: đều xâm phạm đến các chuẩn mực cuộc sống.

Khác nhau:

+ Tội phạm:

– Là hành vi nguy hiểm cho xã hội;

– Được quy định trong BLHS;

– Xâm hại đến các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ.

– Phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế của Nhà nước.

+ Hành vi trái đạo đức:

– Là hành vi không nguy hiểm hoặc ít nguy hiểm cho xã hội.

– Không được quy định trong BLHS.

– Xâm hại đến các chuẩn mực đạo đức xã hội.

– Bị dư luận lên án, không phải chịu TNHS.

27. Sự khác nhau cơ bản nhất của tội phạm với vi phạm pháp luật khác và với hành vi trái đạo đức.

Khác biệt cơ bản:

  • Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.
  • Do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện.
  • Phải chịu trách nhiệm hình sự và chấp hành hình phạt.

28. Khái niệm phân loại tội phạm (PLTP).

Phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các biện pháp pháp lý hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, xác định chính sách hình sự cụ thể đối với từng hành vi phạm tội cụ thể. Trong Điều 8 Bộ luật hình sự 2015, tội phạm được chia ra làm bốn nhóm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiệm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sự phân biệt bốn nhóm tội phạm như vậy vừa là biểu hiện cơ bản của sự phân hóa trách nhiệm hình sự, vừa là cơ sở thống nhất cho sự phân hóa trách nhiệm hình sự

29. Các tiêu chí PLTP trong Phần chung Luật Hình sự.

1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:

+ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

+ Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;

+ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;

+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

2. Căn cứ vào hình thức lỗi của tội phạm

Tội phạm được chia thành hai loại:

  • Tội phạm được thực hiện do cố ý;
  • Tội phạm được thực hiện do vô ý.

3. Căn cứ vào tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Tội phạm được chia thành:

  • Tội phạm không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ;
  • Tội phạm có tình tiết tăng nặng;
  • Tội phạm có tình tiết giảm nhẹ.

 4. Căn cứ vào loại cấu thành tội phạm

Tội phạm được chia thành:

  • Tội phạm có cấu thành vật chất;
  • Tội phạm có cấu thành hình thức.

5. Phân loại theo chủ thể thực hiện

Căn cứ vào chủ thể thực hiện tội phạm chúng ta có thể phân loại tội phạm thành 02 loại sau đây:

+ Tội phạm do cá nhân thực hiện. Đó là những tội phạm do cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện.

+ Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 Bộ luật hình sự 2015.

30. Các tiêu chí phân loại tội phạm trong BLHS 2015.

Nếu BLHS năm 1999 dựa trên ba tiêu chí – Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tộimức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và mức hình phạt tù cao nhất do luật định đối với tội phạm tương ứng để chia tội phạm ra thành 04 loại (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng), BLHS năm 2015 vẫn tiếp tục lĩnh hội, kế thừa những tiêu chí này để phân loại tội phạm:

Thứ nhất, tiêu chí căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thể hiện thông qua các thuật ngữ “ít nghiêm trọng”, “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng” và “đặc biệt nghiêm trọng”;

Thứ hai, tiêu chí căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thể hiện thông qua các thuật ngữ “không lớn”, “lớn”, “rất lớn” và “đặc biệt lớn”;

Thứ ba, tiêu chí căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng với các tội phạm tương ứng được thể hiện thông qua các thuật ngữ “đến ba năm tù”, “đến bảy năm tù”, “đến mười lăm năm tù”và “trên mười lăm năm tù, tù chung thân và tử hình”. Một điểm cần lưu ý ở đây, mức cao nhất là mức tối đa của từng khung hình phạt chứ không phải là mức cao nhất của khung hình phạt cao nhất mà quy định đối với từng loại tội phạm.

31. Các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về phân loại tội phạm

Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì phân loại tội phạm dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này. Nói cách khác, căn cứ phân loại tội phạm phải dựa trên mức cao nhất của khung hình phạt (do Điều luật quy định), còn mức hình phạt do Tòa án áp dụng là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án, không phải căn cứ phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:

Thứ nhất: Tội ít nghiêm trọng được hiểu là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù

Thứ hai: Tội nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù.

Thứ ba: Tội rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù

Thứ tư: Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm, tù chung thân hoặc tử hình.

32. Khái niệm cấu thành tội phạm (CTTP) & khái niệm các yếu tố CTTP.

Tội phạm theo như quy định của Bộ luật hình sự hiện hành có giải thích đó là hành vi nguy him cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ và được quy định trong Bộ luật hình sự. Những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng mức độ ảnh hưởng xã hội không đáng kể thì không được coi là tội phạm.

Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng (khách quan và chủ quan) được quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.

Đặc điểm cơ bản của cấu thành tội phạm đó là:

+ Cấu thành tội phạm phải có các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan có tính chất bắt buộc; các dấu hiệu này phải phản ánh đúng bản chất của tội phạm để có thể phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Ngoài các dấu hiêu bắt buộc thì cấu thành tội phạm còn có dấu hiệu riêng để phản ánh bản chất riêng của tội phạm cụ thể.

+ Các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.

+ Phải tổng hợp đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm mới khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm.

33. Phân biệt dấu hiệu bắt buộc & dấu hiệu không bắt buộc của cấu thành tội phạm.

Nhóm dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm: Các dấu hiệu này được quy định rõ ràng trong luật hình sự và bắt buộc phải có đối với mọi tội phạm, cụ thể bao gồm:

– Mặt khách thể của tội phạm.

– Mặt khách quan của tội phạm.

– Mặt chủ quan của tội phạm.

– Mặt chủ thể của tội phạm.

• Nhóm các dấu hiệu không bắt buộc của cấu thành tội phạm: Các dấu hiệu này chỉ có ở những tội phạm cụ thế đã được quy định rõ ràng trong luật hình sự chứ không bắt buộc phải có ở mọi tội phạm. Các dấu hiệu đó bao gồm:

– Hậu quả của hành vi phạm tội.

– Động cơ và mục đích phạm tội.

– Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt.

34. Các căn cứ phân loại cấu thành tội phạm.

a) Phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cấu thành tội phạm

Tùy thuộc vào các dấu hiệu đặc trưng cho các dấu hiệu cấu thành tội phạm có ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà nhà làm luật sẽ cân nhắc để xây dựng các cấu thành tội phạm.

Dựa trên căn cứ này, cấu thành tội phạm được phân thành 3 loại:

– Cấu thành tội phạm cơ bản:

Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng, có ở mọi trường hợp phạm tội của một loại tội. Cấu thành tội phạm cơ bản thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm đó và cho phép phân biệt với loại tội phạm khác.

Cấu thành tội phạm cơ bản chứa đựng yếu tố định tội nhằm xác định tội phạm (hành vi đã đến mức là tội phạm) và phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác.

Ví dụ, Bộ luật hình sự quy định: “Người nào sản xuất trái phép chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm” là cấu thành tội phạm cơ bản của ” tội sản xuất trái phép chất ma tuý”. Để xác định một người phạm vào tội này, hành vi của người đó phải đã thỏa mãn các dấu hiệu cơ bản trên đây. Đồng thời, các dấu hiệu này cũng là cơ sở để phân biệt tội sản xuất trái phép chất ma túy với các tội phạm khác.

– Cấu thành tội phạm giảm nhẹ:

Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm được hình thành dựa trên các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản cùng với những yếu tố khác khiến cho tội phạm giảm đi tính nguy hiểm cho xã hội.

Ví dụ, cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 108 Bộ luật hình sự 2015 là:

“Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an ninh, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.”

Trong trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn các dấu hiệu này, đồng thời còn có “nhiều tình tiết giảm nhẹ” (khoản 2 Điều 108) thì hành vi phạm tội được xem là thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm giảm nhẹ.

– Cấu thành tội phạm tăng nặng:

Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm được hình thành dựa trên các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản cùng với những yếu tố khác khiến cho tội phạm  tăng tính nguy hiểm cho xã hội.

Tóm lại, để xây dựng cấu thành tội phạm giảm nhẹ, cấu thành tội phạm tăng nặng, nhà làm luật cần thiết phải dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản, đồng thời căn cứ yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm cũng như tình hình phạm tội trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Những dấu hiệu có trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ hoặc tăng nặng được gọi là dấu hiệu định khung vì khi thoả mãn được các yếu tố đó sẽ cho phép chuyển khung hình phạt.

b) Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm

Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể chia CTTP thành CTTP vật chất và CTTP hình thức:

– Cấu thành tội phạm vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

– Cấu thành tội phạm hình thức là CTTP chỉ có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Việc xây dựng loại tội nào có CTTP cơ bản là CTTP vật chất hay CTTP hình thức là xuất phát từ cơ sở khách quan sau:

+ Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác định thì CTTP thường được xây dựng là CTTP hình thức.

+ Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa thể hiện được hoặc chưa thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải có cả hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì cấu thành tội phạm thường được xây dựng là cấu thành tội phạm vật chất.

– Cấu thành tội phạm cắt xén: Trong cấu thành tội phạm loại này, cũng giống như trong cấu thành tội phạm hình thức, chỉ có dấu hiệu hành vi mà không có dấu hiệu hậu quả.

Nhưng khác với cấu thành tội phạm hình thức, dấu hiệu hành vi trong cấu thành tội phạm cắt xén không phải là sự phản ánh chính hành vi phạm tội mà là hành vi “hoạt động” nhằm thực hiện hành vi đó – hành vi phạm tội của loại tội được cấu thành tội phạm cắt xén phản ánh.

35. Mối quan hệ của cấu thành tội phạm và trách nhiệm hình sự.

Cấu thành tội phạm là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Cấu thành tội phạm là căn cứ để định tội danh và định khung hình phạt.

Cấu thành tội phạm là căn cứ để áp dụng tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt đối với tội phạm.

36. Khái niệm khách thể của tội phạm & sự phân loại nó.

– Khách thể của tội phạm là những mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại. Theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam những quan hệ đó là: quan hệ về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân. . . những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên, không phải mọi hành vi gây thiệt hại đến các quan hệ đó đều là hành vi phạm tội. Nội dung của hành vi gây thiệt hại phải đến mức “nguy hiểm đáng kể” mới bị coi là tội phạm.

– Phân loại khách thể của tội phạm gồm 3 loại: khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.

  • Khách thể chung:

+ Là tổng thể các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị các tội phạm xâm hại. Bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng xâm phạm đến khách thể chung của tội phạm.

+ Các khách thể chung: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, sở hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN.

  • Khách thể loại:

+ Là nhóm các quan hệ xã hội có cùng tính chất, liên hệ qua lại với nhau, được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm các tội phạm xâm hại.

+ Là  cơ sở để phân loại các tội phạm trong phần các tội phạm của luật hình sự thành các chương.

  • Khách thể trực tiếp

+ Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể xâm hại mà sự xâm hại này phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó.

+ Khách thể trực tiếp của tội phạm trước hết phải là quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại và qua sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại này mà tội phạm xâm hại khách thể loại của tội phạm cũng như khách thể chung của tội phạm.

37. Khái niệm đối tượng tác động của tội phạm & sự phân loại nó.

a) Khái niệm:

Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ.

b) Phân loại:

+ Con người có thể là đối tượng tác động của tội phạm.

+ Các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của QHXH có thể là đối tượng tác động của tội phạm.

+ Hoạt động bình thường của chủ thể có thể là đối tượng tác động của tội phạm.

38. Phân biệt khách thể của tội phạm và đối tượng tác động của tội phạm.

Đối tượng tác động của tội phạm khác khách thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ, có tính trừu tượng. Việc quy định quan hệ xã hội nào là khách thể của tội phạm tùy thuộc vào lợi ích của giai cấp thống trị, vì thế khách thể tội phạm mang tính chất giai cấp. Các tội phạm đều xâm phạm và gây thiệt hại cho khách thể, tuy nhiên không phải tội phạm nào cũng gây thiệt hại cho đối tượng tác động, như tội trộm cắp tài sản chỉ làm chuyển dịch quyền sở hữu từ người này sang người khác, chứ tài sản không bị hư hỏng. Đối tượng tác động của tội phạm là vật thể không mang tính giai cấp, nhưng quyền sở hữu tài sản ấy là sự thừa nhận của Nhà nước với chủ sở hữu lại mang tính giai cấp.

Đối tượng tác động của tội phạm khác công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm là đối tượng chịu sự tác độn của hành vi phạm tội, còn công cụ phương tiện phạm tội là những công cụ, phương tiện được người phạm tội sử dụng vào việc phạm tội, để tác động đến đối tượng tác động của tội phạm. Công cụ, phương tiện của tội phạm có tác dụng hỗ trợ cho việc phạm tội thuận lợi.

Khách thể tội phạm là yếu tố của cấu thành tội phạm, là quan hệ xã hội được Nhà nước dùng Luật Hình sự để bảo vệ. Đối tượng tác động của tội phạm là những bộ phận mà sự tồn tại của nó làm khách thể tồn tại. Đối tượng tác động cũng như công cụ, phương tiện không phải là những dấu hiệu bắt buộc trong yếu tố khách quan của mọi cấu thành tội phạm, trừ một số trường hợp có điều luật quy định.

39. Khái niệm mặt khách quan của tội phạm.

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giũa hành vi và hậu quả, công cụ phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội.
Những dấu hiệu trong mặt khách quan thường được mô tả chi tiết trong các điều khoản phần các tội phạm cụ thể. Một phần, vì các dấu hiệu trong mặt khách quan biểu hiện ra bên ngoài dễ nhận biết hơn các yếu tố khác. Mặt khác, giữa các tội phạm khác nhau chúng khác nhau chủ yếu ở các dấu hiệu trong mặt khách quan.

40. Khái niệm hành vi nguy hiểm cho xã hội & các dạng của nó.

a) Khái niệm:

Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội mà Luật Hình sự bảo vệ.

b) Dạng hành vi: 2 dạng

+ Hành động (phạm tội): Là hình thức của hành vi khách quan mà trong đó chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm.
+ Không hành động (phạm tội): Là hình thức của hành vi khách quan mà trong đó chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm việc đó.

41. Khái niệm hậu quả nguy hiểm cho xã hội & các dạng của nó.

a) Khái niệm

Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là thiệt hại do hành vi khách quan gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của Luật Hình sự và cũng là khách thể của tội phạm.

b) Các dạng thiệt hại:

+ Thiệt hại về thể chất là sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể tự nhiên của con người

+ Thiệt hại về vật chất là sự biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội.

+ Thiệt hại về tinh thần: Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm…

42. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi & hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời gian.

Hành vi trái pháp luật độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

Hậu quả nguy hiểm đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi trái pháp luật hoặc là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động hoặc là khả năng để sự biến đổi đó tiếp tục diễn ra không bị ngăn chặn.

Dạng quan hệ nhân quả đơn trực tiếp là dạng quan hệ nhân quả trong đó chỉ có một hành vi trái pháp luật đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

Dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp là dạng quan hệ nhân quả trong đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

43. Những dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm.

Những dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm:

+ Phương tiện phạm tội là những đối tượng được chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình.

+ Phương pháp, thủ đoạn phạm tội là cách thức thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có cách thức sử dụng công cụ, phương tiện.

+ Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội: Trong Luật Hình sự, thời gian không được phản ánh là dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Nhưng địa điểm và hoàn cảnh phạm tội được phản ánh ở một số tội là dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

44. Khái niệm chủ thể của tội phạm & những dấu hiệu chung của nó.

a) Khái niệm:

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật khi thực hiện hành vi phạm tội.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm cũng có thể là pháp nhân thương mại khi hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại và vì lợi ích của pháp nhân thương mại, đồng thời có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại.

b) Dấu hiệu chung:

Chủ thể của tội phạm là cá nhân

+ Năng lực trách nhiệm hình sự

Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.

Theo Luật Hình sự, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đạt tuổi luật định và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.

– Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

+ Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đã đạt độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ tiếp tục phát triển hoàn thiện trong thời gian nhất định tiếp theo.

+ Nước ta đã xác định trong BLHS 14 tuổi là tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự và 16 tuổi là tuổi năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Quy định tại Điều 12 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

– Pháp nhân:

+ Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại tại Điều 75 BLHs năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

+ Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại quy định tại Điều 76 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

45. Khái niệm chủ thể đặc biệt của tội phạm & những dấu hiệu đặc trưng riêng của chủ thể đặc biệt.

a) Khái niệm:

Chủ thể đặc biệt của tội phạm.

Cấu thành tội phạm của tất cả các tội phạm đều đòi hỏi chủ thể phải có hai dấu hiệu là năng lực trách nhiệm hình sự và đạt tuổi luật định. Có một số cấu thành tội phạm đòi hỏi chủ thể phải có thêm dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ chủ thể có dấu hiệu này mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà cấu thành tội phạm đó phản ánh.Chủ thể đòi hỏi phải có thêm dấu hiệu đặc biệt như vậy được gọi là chủ thể đặc biệt.

b) Dấu hiệu đặc trưng riêng:

Theo LHS, những đặc điểm nhất định đó có thể thuộc những loại sau:

+ Các đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn.

+ Các đặc điểm liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc.

+ Các đặc điểm liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện.

+ Các đặc điểm về tuổi.

+ Các đặc điểm về giới tính.

+ Đặc điểm về gia đình, họ hàng…

46. Nhân thân người phạm tội.

Nhân thân người phạm tội trong Luật Hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội:

+ Ảnh hưởng tới việc định tội và định khung hình phạt.

+ Ảnh hưởng trong việc quyết định hình phạt.

+ Có thể là tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+ Có thể làm rõ một số tình tiết về các yếu tố cấu thành tội phạm như lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội…

47. Khái niệm mặt chủ quan của tội phạm & các dấu hiệu của nó.

a) Khái niệm:

Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội.Mặt chủ quan của tội phạm chỉ bao gồm lỗi, mục đích và động cơ; trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm.

b) Dấu hiệu:

– Lỗi: Xem phần trả lời tại Câu 48

– Động cơ phạm tội

+ Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.

+ Cần phân biệt động cơ xử sự và động cơ phạm tội, chỉ trong một số trường hợp phạm tội vô ý thì mới có động cơ sự xử còn phần lớn đều là động cơ phạm tội, động cơ phạm tội cũng có thể thay đổi mức độ nguy hiểm của hành vi.

– Mục đích phạm tội

+ Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.

+ Người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội đều hướng đến mục đích nhất định, thường là lỗi cố ý trực tiếp vì mong muốn gây ra tội phạm và đạt được mục đích. Một số trường hợp có mục đích nhưng đó chỉ là mục đích của hành vi vì người phạm tội hoàn toàn không mong muốn thực hiện tội phạm hoặc họ không biết hành vi của mình có thể trở thành tội phạm hoặc biết nhưng không có mong muốn trở thành tội phạm.

+ Cũng cần phân biệt mục đích của tội phạm và hậu quả của tội phạm. Hậu quả là kết quả thực tế khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội để đạt được mục đích. Mục đích phạm tội là đặt ra trước còn hậu quả là kết quả của hành vi. Tất cả các trường hợp cố ý trực tiếp đều có mục đích phạm tội dù hậu quả đó xảy ra hay không.

48. Khái niệm lỗi hình sự & các hình thức của nó.

a) Khái niệm:

Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

b) Các hình thức lỗi:

– Lỗi cố ý trực tiếp quy định tại Khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHHS) như sau: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
– Lỗi cố ý gián tiếp quy định tại Khoản 2 Điều 9 BLHS như sau: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
– Lỗi vô ý vì quá tự tin được quy định tại Khoản 1 Điều 10 BLHS như sau: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
– Lỗi vô ý do cẩu thả quy định tại Khoản 2 Điều 10 BLHS như sau: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

49. Khái niệm lỗi cố ý & các dạng lỗi cố ý.

a) Khái niệm:

Lỗi cố ý là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, mong muốn hậu quả xảy ra hoặc không mong muốn nhưng phó mặc cho hậu quả xảy ra.

b) Các dạng lỗi cố ý:

Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

– Căn cứ vào thời điểm hình thành sự cố ý có thể phân biệt hai loại cố ý. Cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất.

+ Cố ý có dự mưu là trường hợp người phạm tội đã có sự suy nghĩ, cân nhắc kĩ càng trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

+ Cố ý đột xuất là trường hợp người phạm tội vừa có ý định phạm tội đã thực hiện ngay ý định đó, chưa có sự cân nhắc kĩ.

– Cách 2: Căn cứ vào mức độ cụ thể của sự hình dung về hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, có thể phân biệt cố ý xác định và cố ý không xác định.

+ Cố ý xác định là trường hợp người phạm tội hình dung được một cách rõ ràng và cụ thể hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của họ gây ra.

+ Cố ý không xác định là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa hình dung được một cách cụ thể hậu quả đó.

Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

50. Phân biệt lỗi cố ý trực tiếp & lỗi cố ý gián tiếp.

Trong mặt chủ quan của cấu thành tội phạm, yếu tố lỗi là dấu hiệu quan trọng. Theo Điều 10 và Điều 11 BLHS 2015, lỗi chia thành 4 loại: cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp, vô ý vì quá tự tin, vô ý do cẩu thả. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác định loại lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội là rất quan trọng để xem xét một người có tội hay vô tội và quyết định hình phạt. Trong phạm vi bài viết này, mình sẽ giúp các bạn phân biệt lỗi cố ý trực tiếp & lỗi cố ý gián tiếp.

Tiêu chí Cố ý trực tiếp Cố ý gián tiếp
Căn cứ pháp lý Khoản 1 Điều 10 BLHS 2015 Khoản 2 Điều 10 BLHS 2015
Khái niệm Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốnhậu quả xảy ra; Người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốnnhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
Về mặt lý trí Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội
Về mặt ý chí Sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn duy nhất, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn hành vi đó Người phạm tội không mong muốnhậu quả xảy ra, tức hậu quả xảy ra không phù hợp với mục đích phạm tội. Tuy nhiên để thực hiện mục đích này, người phạm tội để mặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra
Nguyên nhân gây ra hậu quả Có sự cố ý Có sự cố ý
Trách nhiệm hình sự Cao nhất Cao hơn
Ví dụ C và D xảy ra mâu thuẩn, C dùng dao đâm D với ý muốn giết D. Rõ ràng C ý thức được việc mình làm là nguy hiểm và mong muốn hậu quả chết người người xảy ra. B giăng lưới điện để chống trộm đột nhập nhưng không có cảnh báo an toàn dẫn đến chết người. Dù B không mong muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra nên đây là lỗi cố ý gián tiếp

51. Khái niệm lỗi vô ý & các dạng lỗi vô ý.

a) Khái niệm:

Lỗi vô ý là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, hoặc do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước (hậu quả này).

b) Các dạng lỗi vô ý:

– Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

– Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước (hậu quả này).

52. Phân biệt lỗi vô ý vì quá tự tin & lỗi vô ý vì cẩu thả.

Tiêu chí Lỗi vô ý do quá tự tin Lỗi vô ý do cẩu thả
Về lý trí Người phạm tội thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội.
Về ý chí Người phạm tội nghĩ rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng ngăn ngừa được. Người phạm tội phải thấy trước hoặc có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra.

53. Vấn đề hỗn hợp lỗi.

– Hỗn hợp lỗi là cố ý về hành vi nhưng vô ý về hậu quả.

– Hỗn hợp lỗi là trường hợp có hành vi gây thiệt hại nhưng đó là kết quả của nhiều bên có lỗi, có thể có lỗi của người phạm tội, người bị hại hoặc của những người thứ ba.

– Hỗn hợp lỗi chỉ xảy ra trong trường hợp có cấu thành tội phạm tăng nặng của các tội phạm cố ý với tình tiết định khung tăng nặng là hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

54. Sự kiện bất ngờ & phân biệt nó với lỗi vô ý vì cẩu thả.

1. Sự kiện bất ngờ

Điều 11 BLHS quy định: “Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ,tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó,thì không phải chịu TNHS”.

Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không phải chịu TNHS vì họ không thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả đó,tức là không có lỗi khi gây ra thiệt hại cho xã hội (không làm phát sinh quan hệ PLHS)

Ví dụ: Các luật thuế doanh thu, luật thuế lợi tức, luật thuế tiêu thụ đặc biệt mà Quốc hội Việt Nam thông qua tháng 6/1990, đều có điều khoản quy định các tổ chức và cá nhân bị thiệt hại do thiên tai, địch hoạ, tai nạn bất ngờ được xét giảm hoặc miễn thuế….

2. Lỗi vô ý vì cẩu thả

Lỗi vô ý vì cẩu thả là lỗi của một người trong trường hợp đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho XH của hành vi nhưng do cẩu thả nên đã không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả này

3.  Phân biệt sự kiện bất ngờ với lỗi vô ý vì cẩu thả.

SỰ KIỆN BẤT NGỜ LỖI VÔ Ý VÌ CẨU THẢ
Người gây thiệt hại cho xã hội không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả hoặc không thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi thực hiện một xử sự nhất định. Người gây thiệt hại cho xã hội có nghĩa vụ phải thấy trước và có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi,họ đã không thấy trước hậu quả đó vì không có sự chú ý và thận trọng cần thiết vì họ cẩu thả.

55. Động cơ phạm tội.

a) Khái niệm:

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý.

b) Nội dung:

– Động cơ phạm tội nói chung không có ý nghĩa quyết định đến tính chất nguy hiểm của tội phạm.

– Động cơ phạm tội nói chung không được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản là dấu hiệu định tội.

– Động cơ phạm tội có thể được phản ánh trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

– Động cơ phạm tội còn có thể được xem là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ cấu thành tội phạm khi quyết định hình phạt.

56. Mục đích phạm tội.

a) Khái niệm:

Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.

b) Nội dung:

– Chỉ những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp mới có mục đích phạm tội.

– Mục đích không được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm.

+ Ở các tội có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả của tội phạm nói chung đã thể hiện được mục đích phạm tội.

+ Ở các tội có cấu thành tội phạm hình thức, việc mô tả hành vi phạm tội nói chung đã thể hiện rõ mục đích phạm tội.

– Mục đích chỉ được phản ánh trong cấu thành tội phạm ở những trường hợp sau đây:

+ Trường hợp dấu hiệu hậu quả chưa phản ánh được mục đích chính của người phạm tội.

+ Trường hợp dấu hiệu hành vi khách quan không phản ánh được mục đích phạm tội.

57. Sai lầm về pháp lý.

Sai lầm về pháp luật là sự đánh giá không đúng của một người về tính chất pháp lý của hành vi đã thực hiện.
Sai lầm về pháp luật có hai dạng:
+ Dạng thứ nhất: Là trường hợp một người khi thực hiện hành vi cho rằng hành vi của mình không phải là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự quy định đó là tội phạm thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đã thực hiện.Ví dụ: A nhờ B vận chuyển hộ cho mình 1 kg thuốc phiện từ Mèo Vạc về giao cho M ở Thị xã Tuyên Quang. B biết đó là thuốc phiện nhưng cho rằng vận chuyển hộ thuốc phiện là không có tội nên B đã đồng ý. Trường hợp này B vẫn bị truy tố về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý.
+ Dạng thứ hai: Là trường hợp một người khi thực hiện hành vi cho rằng hành vi của mình là tội phạm nhưngBộ luật hình sựkhông quy định đó là tội phạm thì họ không phải chịutrách nhiệm hình sự.Ví dụ: A và B cãi nhau, A dùng dao thường chém B một nhát, gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 5%, A cho rằng mình đã phạm tội cố ý gây thương tích nên đã đến cơ quan Công an tự thú. Trường hợp nàyBộ luật hình sựkhông quy định là tội phạm nên A không phải chịutrách nhiệm hình sự.

58. Sai lầm về thực tế & các dạng của nó.

Sai lầm về thực tế là sự hiểu lầm của chủ thể về tính chất thực tế của hành vi mà người đó thực hiện.

Các dạng sai lầm thực tế:

+ Sai lầm về khách thể là sự hiểu lầm của chủ thể về tính chất của quan hệ xã hội mà hành vi của họ xâm hại tới.

Trong trường hợp sai lầm về khách thể, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội có khách thể mà họ có ý định thực hiện hoặc tội có khách thể bị xâm hại thực tế nếu họ có lỗi vô ý.

+ Sai lầm về đối tượng là sai lầm của chủ thể về đối tượng tác động khi thực hiện tội phạm.

+ Sai lầm về quan hệ nhân quả là sai lầm của chủ thể trong việc đánh giá sự phát triển của hành vi đã thực hiện của mình.

+ Sai lầm về công cụ, phương tiện là sai lầm của chủ thể về tính chất của công cụ, phương tiện sử dụng khi thực hiện hành vi.

Câu 59. Nguồn của Luật Hình sự Việt Nam.

+ Xét về nội dung thì nguồn của pháp luật hình sự phải là văn bản quy phạm pháp luật có các quy phạm pháp luật hình sự– quy phạm quy định về tội phạm và hình phạt.

+ Xét về hình thức thì không phải tất cả các loại (hình thức) văn bản quy phạm pháp luật đều có thể là nguồn của pháp luật hình sự. Do tính chất nghiêm khắc đặc biệt của chế tài hình sự nên nguồn của pháp luật hình sự, về nguyên tắc chỉ có thể là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành. Chỉ văn bản luật (bộ luật hoặc luật) mới có thể là nguồn của ngành luật hình sự. Các văn bản dưới luật không thể là nguồn của ngành luật hình sự.

Tóm lại, nguồn của ngành luật hình sự có thể là bộ luật hình sự, các luật hình sự và các luật có quy phạm pháp luật hình sự. Pháp luật Việt Nam không coi tập quán pháp và án lệ là nguồn của ngành luật hình sự với nghĩa là nguồn quy định tội phạm và hình phạt cũng như các biện pháp hình sự phi hình phạt. Ở đây, nguồn của luật hình sự được hiểu theo nghĩa hẹp “… nguồn cùa luật hình sự chỉ bao gồm những căn cứ trực tiếp quy định về những gì liên quan đến tội phạm và hình phạt. Nói cách khác, … nguồn của luật hình sự chỉ cố thẻ là những vân bản pháp luật hình sự ”.

Ngành Luật hình sự Việt Nam coi nguồn duy nhất của ngành luật này là BLHS. Điều này được khẳng định rõ trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 cũng như trong BLHS năm 2015. Cả ba bộ luật này, khi định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8 đều khẳng định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội “được quy định trong BLHS”.

Câu 60. Phân loại tội phạm và ý nghĩa của nó.

Phân loại tội phạm:

– Căn cứ vào khách thể bị xâm hại.

– Căn cứ vào mức độ nguy hiểm của tội phạm.

– Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội.

Ý nghĩa của phân loại tội phạm:

– Phân hoá trách nhiệm hình sự ngay trong Bộ luật Hình sự và cá thể hóa trách nhiệm hình sự khi áp dụng.

– Áp dụng nhiều quy định của như về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, về thời hiệu, về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt…

– Áp dụng một số quy định của các ngành luật khác có liên quan đến trách nhiệm hình sự, như Luật Tố tụng hình sự…

Câu 61. Những vấn đề lý luận về cấu thành tội phạm

a) Khái niệm:

Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong Luật Hình sự.

b) Các đặc điểm của cấu thành tội phạm

– CTTP là một hệ thống các dấu hiệu pháp lí khách quan và chủ quan có tính chất bắt buộc;

– Các dấu hiệu pháp lí này của CTTP nhất thiết phải được quy định trong pháp Luật Hình sự thực định;

– Chỉ có trên cơ sở tổng hợp đầy đủ các dấu hiệu pháp lí này của CTTP thì mới có căn cứ để khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó bị Luật Hình sự cấm và đã được thực hiện trong thực tế chính là một tội phạm;
Cuối cùng, CTTP chính là mô hình pháp lí của tội phạm

c) Các yếu tố cấu thành tội phạm:

– Khách thể: là các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ bị chủ thể của tội phạm xâm phạm.

– Mặt khách quan: là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.

– Chủ thể: là người có năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật khi thực hiện hành vi phạm tội.

– Mặt chủ quan: là hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội.

Mặt chủ quan của tội phạm chỉ bao gồm lỗi, mục đích và động cơ; trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP.

+ Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

+ Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý.

+ Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.

Câu 62. Các giai đoạn phạm tội theo Luật Hình sự Việt Nam

a) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình cố ý thực hiện tội phạm. Được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu, biển hiệu nhằm đánh giá sự diễn biến mức độ thực hiện ý định phạm tội, làm cơ sở cho việc xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt.

b) Các giai đoạn phạm tội: Quá trình thực hiện tội phạm (lỗi cố ý) có ba giai đoạn:

– Giai đoạn chuẩn bị phạm tội

– Giai đoạn phạm tội chưa đạt

– Giai đoạn tội phạm đã hoàn thành.

Các giai đoạn phạm tội chỉ diễn ra trong các tội được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Đối với tội vô ý, người phạm tội không có ý định phạm tội, không mong muốn hậu quả xảy ra cho nên tội vô ý chỉ có thể là những tội đã hoàn thành, không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt.

Cụ thể các giai đoạn phạm tội như sau:

Nội dung Chuẩn bị phạm tội Phạm tội chưa đạt Tội phạm hoàn thành Tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội
Khái niệm Giai đoạn người phạm tội tiến hành tìm kiếm công cụ phạm tội; sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội hoặc chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho tội phạm quan sát địa điểm, điều kiện liên quan xung quanh hoàn cảnh của nạn nhân. Giai đoạn mà người phạm tội có thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không thực hiện được đến cùng do những cản trở khách quan. Giai đoạn hành vi phạm tội làm thỏa mãn tất cả các dấu hiệu được nêu trong cấu thành tội phạm quy định trong luật. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

 

Đặc điểm -Thứ nhất, CBPT tồn tại dưới dạng “hành vi” và hành vi chuẩn bị liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện tội phạm như: tìm kiến công cụ, phương tiện phạm tội; tạo điều kiện cần thiết khác (nghiên cứu, xem xét địa hình nơi dự định thực hiện tội phạm,..),..-Thứ hai, ý định phạm tội đã được biểu hiện ra bên ngoài. Thời điểm muộn nhất của giai đoạn CBPT là thời điểm trước lúc người phạm tội thực hiện hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm (là những dấu hiệu chung cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật) hoặc hành vi đi liền trước hành vi  khách quan

+Thứ ba, nguyên nhan không thực hiện tội phạm được đến cùng là do khách quan ngoài ý muốn (yếu tố giúp phân biệt với tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội)

-Thứ nhất, người phạm tội đã trực tiếp thực hiện tội phạm qua việc:(i)Thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm, hoặc

(ii) Thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan.

-Thứ hai, người phạm tội chưa thực hiện tội phạm đến cùng (tức chưa hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu về mặt khách quan trong cấu thành tội phạm (dấu hiệu phân biệt với tội phạm hoàn thành)

-Thứ ba, nguyên nhân không thực hiện tội phạm đến cùng là do:

+Khách quan ngoài ý muốn hoặc

+Sai lầm của người phạm tội (về đối tượng tác động hay công cụ, phương tiện,…) như: bắn nhưng đạn không nổ, thuốc độc không đủ liều lượng,…

Cần phân biệt Tội phạm hoàn thành cới Tội phạm kết thúc:+ Tội phạm hoàn thành: hành vi phạm tội thỏa mãn hết các dấu hiệu về mặt pháp lý quy định trong luật.

+ Tội phạm kết thúc: hành vi phạm tội thực sự chấm dứt trên thực tế.

->Hai thời điểm trên có thể trùng nhau hoặc không trùng nhau.

 

-Nửa chừng: tức phải xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.-Tự ý, tức phải:

+Tự nguyện chấm dứt hành vi phạm tội.

+Chấm dứt một cách dứt khoát: triệt để, từ bỏ hẳn ý định phạm tội.

 

 

Phạm vi trách nhiệm hình sự Chỉ phải chịu TNHS đối với những tội quy định tại khoản 2 ĐIều 14 BLHS 2015 Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt(Điều 15) Mọi hành vi tội phạm hoàn thành về nguyên tắc đều phải chịu TNHS Được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. (ĐIều 16)Lưu ý: chỉ là người phạm tội được miễn TNHS, tức vẫn bị coi là tội phạm.
Mức độ trách nhiệm hình sự Hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể (Khoản 2 ĐIều 57) Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. (khoản 3 ĐIều 57) Áp dụng theo quy định tại từng điều luật của tội phạm cụ thể

Câu 63. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt Nam.

Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là những trường hợp làm mất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại nên được quy định trong Luật Hình sự để xác định những trường hợp bình thường là tội phạm nhưng không bị coi là tội phạm khi được thực hiện trong điều kiện kèm theo tình tiết đó.

– Sự kiện bất ngờ (Điều 20)

– Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21)

– Phòng vệ chính đáng (Điều 22)

– Tình thế cấp thiết (Điều 23)

Câu 64. Đồng phạm theo Luật Hình sự Việt Nam

a) Khái niệm:

Tại khoản 1 Điều 17 BLHS quy định “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”

b) Các loại đồng phạm:

– Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

+ Trực tiếp tham gia thực hiện hành vi phạm tội.

+ Không trực tiếp tham gia thực hiện hành vi phạm tội.

– Người tổ chức: là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

+ Người chủ mưu là người đề xướng chủ trương, phương hướng hoạt động của nhóm đồng phạm. Người chủ mưu có thể trực tiếp điều khiển hoạt động của tổ chức nhưng cũng có thể không.

+ Người cầm đầu là người đứng đầu, người thành lập nhóm đồng phạm hoặc tham gia vào việc soạn thảo kế hoạch, phân công, giao nhiệm vụ cho đồng bọn cũng như đôn đốc, điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm.

+ Người chỉ huy là người điều khiển trực tiếp của nhóm đồng phạm có vũ trang hoặc bán vũ trang.

– Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm

– Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm

Câu 65. Trách nhiệm hình sự.

Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích.

Cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong luật hình sự. Trách nhiệm hình sự được đặt ra khi:

1) Chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật;

2) Chủ thể đã thực hiện hành vi được quy định trong luật hình sự là tội phạm;

3) Còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chủ thể không được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Trách nhiệm hình sự không chỉ giới hạn ở trách nhiệm của người phạm tội mà cần được hiểu rộng hơn với nghĩa là tống hợp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể: Nhà nước – bên thực hiện trách nhiệm hình sự và người phạm tội – bên chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, Nhà nước có quyền truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng và có nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội không bị xâm phạm; Người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, của các biện pháp cưỡng chế nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trách nhiệm hình sự gồm có: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo, không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Ngoài các hình phạt trên còn có thể áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế, tước một số quyền công dân, tước danh hiệu quân nhân, tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính.

Câu 66. Hình phạt chính áp dụng cho người phạm tội trong Luật Hình sự Việt Nam.

Hình phạt chính là hình phạt bắt buộc áp dụng đối với người phạm tội và được Tòa án tuyên độc lập đối với mỗi tội phạm cụ thể. Hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình.

* Đặc điểm các loại hình phạt chính như sau:

– Cảnh cáo (Điều 29 Bộ luật Hình sự) là hình phạt khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án tuyên đối với người bị kết án. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất, người bị kết án cảnh cáo không bị mất đi quyền lợi thiết thân, tuy nhiên họ chịu sự tổn thất về tinh thần. Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt;

– Phạt tiền (Điều 30 Bộ luật Hình sự) là hình phạt có tính chất kinh tế, nhằm vào tài sản của người phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền để sung quỹ nhà nước. Hình phạt tiền áp dụng với những tội ít nghiêm trọng, được áp dụng là hình phạt chính khi có điều luật quy định. Ngoài ra phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sng khi không áp dụng là hình phạt chính.

–  Cải tạo không giam giữ (Điều 31 Bộ luật Hình sự) là hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật Hình sự quy định, xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mà giao họ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người bị kết án về tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, đã hối cải.

+ Người bị kết án phải có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng mà xét thấy không cần thiết phải cách ly họ khỏi xã hội.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước; phải tích cực tham gia lao động, học tập, sinh hoạt tập thể, không vi phạm kỷ luật; 3 tháng một lần kiểm điểm việc cải tạo của mình trước cơ quan giám sát, giáo dục. Nếu người bị kết án di chuyển chỗ ở hoặc nơi làm việc phải báo cáo với Tòa án, báo cáo với cơ quan tổ chức đang giám sát giáo dục biết. Người bị kết án bị khấu trừ từ 5% đến 20% thu nhập để sung quy nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn khấu trừ thu nhập. Thời gian cải tạo không giam giữ là từ 6 tháng đến 3 năm.

– Trục xuất (Điều 32 Bộ luật Hình sự) là buộc người nước ngoài phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Tù có thời hạn (Điều 33 Bộ luật Hình sự) là hình phạt tước quyền tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách ly khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định. Người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam, phải tuân theo mọi chế độ sinh hoạt, lao động cải tạo của trại. Tù có thời hạn có mức tối thiểu là 3 tháng, tối đa là 20 năm.

– Tù chung thân (Điều 34 Bộ luật Hình sự) là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Theo nguyên tắc chung người bị kết án tù chung thân phải ở trại giam cho đến khi chết, tuy vậy, nếu họ cải tạo tốt thì có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

– Tử hình (Điều 35 Bộ luật Hình sự) chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng mà xét thây không còn khả năng giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Không áp dụng hình phạt tử hình với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử. Trường hợp này tử hình chuyển xuống tù chung thân.

Câu 67. Hình phạt bổ sung áp dụng cho người phạm tội trong Luật Hình sự Việt Nam.

Hình phạt bổ sung, là hình phạt có tính chất hỗ trợ cho hình phạt chính, hình phạt bổ sung không được áp dụng độc lập mà chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính. Nếu như đối với mỗi tội phạm chỉ được áp dụng một hình phạt chình đối với hình phạt bổ sung có thể được áp dụng một hoặc nhiều chứ không chỉ có một. Khoản 2 Điều 28 Bộ luật Hình sự quy định 7 loại hình phạt bổ sung: cấm đảm nhệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế, tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính

* Đặc điểm các hình phạt bổ sung như sau:

– Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được quy định tại Điều 36 Bộ luật hình sự là không cho người bị kết án giữ chức vụ nhất định trong cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, không cho họ làm công việc nhất định nếu việc ấy bị họ lợi dụng để tiếp tục phạm tội thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.

– Cấm cư trú (Điều 37 Bộ luật Hình sự) là buộc người bị kết án sau khi chấp hành hình phạt tù không được tạm trú và thường trú ở một địa phương nhất định, thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.

– Quản chế (Điều 38) được áp dụng đối với người bị kết án sau khi đã chấp hành hình phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định có sự kiểm soát và giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương, thời hạn từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù. Trong thời gian quản chế, người bị kết án bị tước một số quyền công dân, không được ra khỏi nơi cư trú, bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

– Tước một số quyền công dân (Điều 39) áp dụng đối với người bị kết án vè tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác do pháp luật quy định như quyền ứng cử, bầu cử, quyền làm việc trong cơ quan nhà nước, trong lực lượng vũ trang, thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.

– Tịch thu tài sản (Điều 40) là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án sung quỹ  nhà nước.

Câu 68. Các biện pháp tư pháp áp dụng với cá nhân trong Luật Hình sự Việt Nam.

Các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội được quy định tại các Điều 47, 48, 49 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), gồm:

– Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm.

– Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi.

– Bắt buộc chữa bệnh.

Đây là ba biện pháp được kế thừa của BLHS năm 1999.

Câu 69. Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Cụ thể:

Hình phạt chính bao gồm:

  • Phạt tiền;
  • Đình chỉ hoạt động có thời hạn;
  • Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

Hình phạt bổ sung bao gồm:

  • Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;
  • Cấm huy động vốn;
  • Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

(Khoản 1, 2 Điều 33 BLHS năm 2015)

Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội:

  • Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm;
  • Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi;
  • Khôi phục lại tình trạng ban đầu;
  • Thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.

(Khoản 2 Điều 46 BLHS năm 2015)

Câu 70. Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trong Luật Hình sự Việt Nam.

Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

–  Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại là hành vi của một người hoặc một số người đang thuộc biên chế của tổ chức kinh tế mà theo pháp luật thì tổ chức kinh tế này là pháp nhân thương mại. Nếu họ không phải trong tổ chức kinh tế được công nhận là pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội của họ không phải là hành vi của pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, nếu một người được pháp nhân thương mại ký hợp đồng hay uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân thương mại giao và khi thực hiện họ nhân danh pháp nhân thương mại đã ký hợp đồng hoặc uỷ quyền cho họ thì hành vi phạm tội của người này vẫn là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại mà họ ký hợp đồng hoặc được uỷ quyền.

–  Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại: Khi một người hoặc một số người thực hiện hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại giao hoặc uỷ quyền đều vì lợi ích của pháp nhân thương mại chứ không vì lợi ích cá nhân của họ. Tuy nhiên, nếu trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội họ lại lợi dụng pháp nhân thương mại để thực hiện thêm hành vi vì lợi ích cá nhân thì chỉ hành vi nào vì lợi ích của pháp nhân thương mại mới buộc pháp nhân thương mại phải chịu, còn hành vi nào vượt ra ngoài lợi ích của pháp nhân thương mại mà vì lợi ích cá nhân họ thì họ phải chịu.

–  Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại: Hành vi phạm tội của một hoặc một số người phải có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Sự chỉ đạo điều hành là sự chỉ đạo của những người đứng đầu hoặc của một tập thể pháp nhân thương mại như: Giám đốc, Tổng giám đốc, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc của công ty.Sự chỉ đạo, điều hành này cũng tương tự như trường hợp phạm tội có tổ chức mà người tổ chức là người chỉ đạo điều hành mọi hành vi của tất cả các đồng phạm khác. Ngoài sự chỉ đạo, điều hành của những người nhân danh pháp nhân thương mại còn có trường hợp tuy không có sự chỉ đạo, điều hành nhưng lại có sự chấp thuận của những người đứng đầu pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội cũng là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại.

–  Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định: Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 tuỳ thuộc vào tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện: 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.

Câu 71. Những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về thời hiệu theo Luật Hình sự Việt Nam.

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại khoản 2, Điều 27 Bộ luật hình sự 2015, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

+) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng.

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm (Khoản 1, Điều 9, Bộ luật hình sự)

+) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù; (khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự).

+) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; (khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự).

+) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là  tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. (khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự).

Về thời gian tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, khoản 3, Điều 27, BLHS quy định: “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ”.

Câu 72. Những biện pháp miễn chấp hành hình phạt theo Luật Hình sự Việt Nam.

Miễn chấp hành hình phạt áp dụng với những trường hợp người bị kết án đã có bản án có hiệu lực pháp luật nhưng chưa chấp hành hoặc đã chấp hành được một phần hình phạt thì có thể được Tòa xem xét cho miễn chấp hành hình phạt tù nếu đủ những điều kiện trong từng trường hợp cụ thể.

1. Miễn chấp hành hình phạt có điều kiện, đủ 4 điều kiện sau:

– Bị án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn;

– Chưa chấp hành hình phạt mà có công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo;

– Không còn nguy hiểm cho xã hội;

– Viện trưởng Viện kiểm sát đề nghị;

2. Miễn trong trường hợp được hoãn:

– Tội phạm rất nghiêm trọng;

– Trong thời gian hoãn đã lập công;

– Đã được hoãn chấp hành theo Điều 61 Bộ luật hình sự:

+ Bị bệnh nặng được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

+ Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

+ Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến một năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;

+ Bị kết án về tội ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến một năm.

– Viện trưởng Viện kiểm sát đề nghị.

3. Đặc xá

Là biện pháp khoan hồng của Nhà nước, miễn chấp hành toàn bộ phần còn lại của hình phạt tù cho phạm nhân hoặc cho những phạm nhân thỏa mãn điều kiện nhất định

4. Đại xá

Là biện pháp khoan hồng của Nhà nước, tha tội triệt để và hoàn toàn cho hàng loạt những người phạm tội nhất định

5. Trường hợp đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt

– Bị kết án tội ít nghiêm trọng.

– Đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo Điều 62 Bộ luật hình sự.

– Lập công.

– Viện trưởng Viện kiểm sát đề nghị.

6. Điều kiện miễn chấp hành hình phạt với người bị cấm cư trú hoặc quản chế

– Đã chấp hành ½ hình phạt.

– Đã cải tạo tốt.

– Chính quyền địa phương đề nghị.

7. Miễn chấp hành hình phạt tiền còn lại

– Đã tích cực chấp hành được một phần.

– Hoàn cảnh kinh tế đã khó khăn.

– Đã lập công lớn.

– Đề nghị của Viện kiểm sát.

8. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt

– Đã chấp hành 1/3 thời gian cải tạo không giam giữa, hoặc 1/3 thời gian tù có thời thời hạn, hoặc 12 năm đối với tù chung thân.

– Đã chứng tỏ có quyết tâm cải tạo như thành thật hối lỗi, tích cực học tập, lao động, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế trại giam hoặc chế độ cải tạo không giam giữ.

– Có sự đề nghị của cơ quan, tổ chức nhà nước.

9. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt

– Đã lập công.

– Đã quá già yếu (trên 70 tuổi, hoặc trên 60 tuổi mà có bệnh nằm chữa thường xuyên).

– Mắc bệnh hiểm nghèo.

Có thể được xét giảm sớm hoặc mức giảm nhiều hơn.

Câu 73. Án treo theo Luật Hình sự Việt Nam

Theo cuốn từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp thì : “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”.

Theo khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 thì: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự”.

Theo Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”.

Điều 65. Án treo

1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

2. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

3. Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.

4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

5. Trong thi gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chp hành hình phạt của bản án trước và tng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Câu 74. Xóa án tích theo Luật Hình sự Việt Nam

Xóa án tích là một chế định mang tính nhân đạo của pháp Luật Hình sự, thể hiện sự thừa nhận về mặt pháp lý người bị kết án không còn mang án tích nữa và vì vậy không phải tiếp tục gánh chịu hậu quả do việc kết án mang lại.

Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật này.

– Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.

– Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.

– Đương nhiên xóa án tích.

– Xóa án tích theo quy định của Tòa án.

– Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt.

Câu 75. Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong Luật Hình sự Việt Nam.

Các tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu có tính chiếm đoạt trong Luật Hình sự Việt Nam:

  • Điều 168. Tội cướp tài sản.
  • Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
  • Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản.
  • Điều 171. Tội cướp giật tài sản.
  • Điều 172. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
  • Điều 173. Tội trộm cắp tài sản.
  • Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
  • Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
  • Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản.

Câu 76. Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại trong Luật Hình sự Việt Nam.

Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại trong Luật Hình sự Việt Nam

  • Điều 188: Tội buôn lậu.
  • Điều 189: Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
  • Điều 190: Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm.
  • Điều 191: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
  • Điều 192: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
  • Điều 193: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực , thực phẩm, phụ gia thực phẩm.
  • Điều 194: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh.
  • Điều 195: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi.
  • Điều 196: Tội đầu cơ.
  • Điều 199: Tội vi phạm quy định về cung ứng điện.

Câu 77. Các tội phạm xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng theo Luật Hình sự Việt Nam.

Các tội phạm xâm hại tới lợi ích của người tiêu dùng theo Luật Hình sự Việt Nam.

  • Điều 197: Tội quảng cáo gian dối.
  • Điều 198: Tội lừa dối khách hàng.

Câu 78. Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán trong Luật Hình sự Việt Nam.

Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán:

  • Điều 200: Tội trốn thuế.
  • Điều 201: Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự.
  • Điều 202: Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả.
  • Điều 203: Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước.
  • Điều 204: Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước.
  • Điều 205: Tội lập quỹ trái phép.
  • Điều 206: Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
  • Điều 207: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả.
  • Điều 208: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác.
  • Điều 209: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán.
  • Điều 210: Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán.
  • Điều 211: Tội thao túng thị trường chứng khoán.
  • Điều 212: Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán.

Câu 79. Vai trò của Luật Hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam, Luật Hình sự có vai trò hết sức quan trọng. Là ngành luật “xương sống” trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật Hình sự là chế tài nghiêm minh nhất để bảo vệ các quan hệ xã hội, xây dựng Nhà nước thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.

Trước hết, với đối tượng điều chỉnh riêng biệt của Luật Hình sự và phương pháp điều chỉnh đặc thù của nó là mệnh lệnh – phục tùng, áp đặt đơn phương cho người thực hiện hành vi phạm tội thì Luật Hình sự đã phần nào ổn định được chế độ chính trị, nền kinh tế và xã hội của nước ta từ trong thời kỳ phong kiến đến ngày nay. Và khi Luật Hình sự là công cụ kiểm soát hiệu quả các hành vi trong xã hội thì nền kinh tế ngày càng phát triển hơn và nước ta dần trở thành nước có nền chính trị ổn định bậc nhất thế giới như hôm nay.

Thứ hai, Luật Hình sự chỉ duy nhất điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội giữa Nhà nước và người phạm tội nhưng lại làm nhiệm vụ bảo vệ nhiều loại quan hệ xã hội khác nhau được các ngành luật khác điều chỉnh. Tức là nó chính là “cái khung” pháp lý để bảo vệ, duy trì hoạt động của các ngành luật khác và giúp những ngành luật chuyên ngành thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả để góp phần vào ổn định đất nước thực hiện được ý đồ chính trị của giai cấp cầm quyền một cách tuyệt đối. Đưa xã hội và khuôn khổ pháp lý một cách dễ dành hơn.

  • Luật Hình sự quy định những hành vi bị coi là tội phạm và quy định hình phạt đối với người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội. Là nguồn duy nhất để xử lý người phạm tội.
  • Nhà nước có quyền buộc người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
  • Hình phạt của Luật Hình sự là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất.
  • Tội phạm là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật Hình sự.
  • Hình phạt chỉ áp dụng đối với người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội.
  • Hình phạt có sức răn đe rất lớn, có thể hạn chế hoặc tước bỏ quyền tự do và tính mạng của người phạm tội.
  • Kèm theo hình phạt luôn có hậu quả pháp lý là án tích. Người bị kết án phải mang án tích trong một thời hạn do luật định. Tình tiết có án tích sẽ là đặc điểm về nhân thân bất lợi cho người có đặc điểm đó trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội cũng như khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi phạm tội. Có án tích có thể là tình tiết để xác định một số hành vi trái pháp luật nhất định là tội phạm hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
  • Tính nghiêm khắc nhất của hình phạt còn thể hiện ở chỗ: các biện pháp cưỡng chế khác có thể được áp dụng kèm với hình phạt nhưng hình phạt không thể áp dụng kèm với các biện pháp cưỡng chế khác
  • Luật Hình sự “tấm khiên” phòng ngừa, đồng thời là “thanh kiếm” đấu tranh, trấn áp tội phạm.
  • Xử lý nghiêm minh người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.

Ghi chú: Bài viết được được tặng hoặc được sưu tầm hoặc được biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện đáp án chưa chính xác, vui lòng góp ý tại phần Bình luận. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *