Các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính Việt Nam

1. Khái niệm các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính Việt Nam

1.1. Khái niệm

Nguyên tắc của pháp luật là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo toàn bộ các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật cũng như hệ thống các ngành luật cụ thể.

Luật tố tụng hành chính là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật nước ta, bởi vậy nó cũng có những nguyên tắc xuyên suốt trong tất cả các chế định pháp luật của nó.

Các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hệ thống các chế định tố tụng và biểu thị những nội dung đặc trưng nhất của ngành luật này.

Xét về mặt nội dung, các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính Việt Nam biểu hiện những quan điểm pháp lý của Ðảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ và phương pháp hoạt động của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các vụ án hành chính, các nguyên tắc này xuyên suốt trong cả quá trình tố tụng. Bất cứ một hành vi tố tụng nào trái với các nguyên tắc đều bị coi là không hợp pháp và không có giá trị về mặt pháp lý.

1.2. Ý nghĩa của các nguyên tắc

Việc thực hiện các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính mang tính chất bắt buộc chung đối với tất cả mọi người, mọi cơ quan và tổ chức. Việc tuân thủ triệt để các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính trước hết tạo điều kiện cho cơ quan xét xử tiến hành tố tụng một cách thuận lợi và nhanh chóng; đồng thời nó còn bảo đảm cho đương sự có điều kiện để thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, trên cơ sở đó mà các lợi ích hợp pháp của bản thân đương sự được tôn trọng.

Ngoài ra, việc quán triệt các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính trong tất cả các giai đoạn tố tụng có tác dụng ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật và những biểu hiện tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

1.3. Phân loại các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính Việt Nam

Việc phân loại các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính thành từng nhóm chỉ có tính chất tương đối. Bởi vì, các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính đều có vai trò chỉ đạo toàn bộ hệ thống các chế định của Luật tố tụng hành chính và đều liên hệ mật thiết với nhau.

Căn cứ vào nội dung và ý nghĩa của các nguyên tắc, có thể chia chúng thành hai nhóm như sau:

Nhóm thứ nhất: nhóm nguyên tắc chung: Trong nhóm nguyên tắc này có hai loại nguyên tắc thể hiện tính chất khác nhau, đó là:

  • Những nguyên tắc thể hiện tính chất dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hành chính;
  • Những nguyên tắc thể hiện tính chất pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hành chính.

Nhóm thứ hai: nhóm nguyên tắc điều chỉnh các hoạt động riêng biệt của tố tụng hành chính.

2. Nội dung các nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính Việt Nam

Nội dung:

2.1. Nhóm nguyên tắc chung:

  • Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
  • Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
  • Nguyên tắc về tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng hành chính
  • Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân
  • Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai
  • Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
  • Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
  • Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

2.2. Nhóm các nguyên tắc điều chỉnh các hoạt động riêng biệt của tố tụng hành chính:

  • Nguyên tắc tiền tố tụng hành chính
  • Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp, thu thập chứng cứ
  • Nguyên tắc đối thoại trong tố tụng hành chính
  • Nguyên tắc việc khởi kiện vụ án hành chính không làm ngưng hiệu lực của quyết định hành chính.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tố tụng hành chính
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tố tụng hành chính

2.1. Nhóm nguyên tắc chung

1) Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

  • Đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
  • Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

2) Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính

  • Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp.
  • Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.
  • Các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

3) Nguyên tắc về tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng hành chính

Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hành chính là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng hành chính có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình; trong trường hợp này, phải có người phiên dịch.

Nguyên tắc này nói lên quyền bình đẳng giữa các dân tộc và bảo đảm cho các đương sự thuộc các dân tộc có điều kiện diễn đạt rõ ràng các yêu cầu, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ bằng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Trên cơ sở đó, họ thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.

4) Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân

Hội thẩm nhân dân là những người do cơ quan quyền lực Nhà nước bầu hoặc cử ra. Việc tham gia của Hội thẩm nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án là một biểu hiện của sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước.

Nguyên tắc này được quy định trong Hiến pháp, trong Luật tổ chức TAND và được cụ thể hóa tại Ðiều 13 Luật tố tụng hành chính như sau.

Theo quy định của pháp luật thì khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, đây là điều kiện quan trọng để Hội thẩm nhân dân phát huy vai trò là người đại diện cho nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án, đồng thời bảo đảm cho tiếng nói của người dân có tính chất quyết định trong công việc xét xử của Tòa án.

Ðể thực hiện tốt nguyên tắc này, Hội thẩm nhân dân cần nâng cao ý thức trách nhiệm, nâng cao kiến thức pháp luật, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính và các quy định pháp luật liên quan.

5) Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai

Việc xét xử vụ án hành chính được tiến hành công khai. Trường hợp cần giữ bí mật nhà nước hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai.

Tòa án xét xử công khai nên mọi người đều có quyền đến dự phiên tòa. Ðó là điều kiện để người dân tìm hiểu pháp luật, nắm vững pháp luật, góp phần đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật.
Nguyên tắc này bảo đảm cho người dân giám sát được hoạt động xét xử của Tòa án; đồng thời tạo điều kiện cho Tòa án có thể thông qua hoạt động xét xử thực hiện việc truyên truyền, giáo dục pháp luật.

6) Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số

Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Yêu cầu của nguyên tắc này là việc xét xử các vụ án ở các cấp xét xử phải được tiến hành theo chế độ hội đồng xét xử, chớ không do một cá nhân thực hiện, bảo đảm việc xét xử được thận trọng, khách quan và chính xác.

Với nguyên tắc này, nếu thành phần Hội đồng xét xử không đúng theo quy định của pháp luật là vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng, và đó là căn cứ để Tòa án cấp trên hủy bản án hoặc quyết định của Hội đồng xét xử.

Hội đồng xét xử vụ án hành chính ở từng cấp xét xử được quy định như sau :

– Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm

Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt, Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.

– Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm

Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán.

– Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm

Hội đồng giám đốc thẩm Toà án cấp tỉnh là Ủy ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh; khi tiến hành giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; Chánh án Tòa án cấp tỉnh làm Chủ tọa phiên tòa giám đốc thẩm

1. Hội đồng giám đốc thẩm Toà án cấp tỉnh là Ủy ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh; khi tiến hành giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; Chánh án Tòa án cấp tỉnh làm Chủ tọa phiên tòa giám đốc thẩm.

2. Hội đồng giám đốc thẩm của Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao gồm ba Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; khi tiến hành giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có đủ ba Thẩm phán tham gia; Chánh toà Tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao phân công một Thẩm phán làm Chủ tọa phiên tòa giám đốc thẩm.

3. Hội đồng giám đốc thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; khi tiến hành giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tọa phiên tòa giám đốc thẩm.

Hội đồng xét xử quyết định theo đa số, riêng quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

7) Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc chỉ đạo, bao trùm nhất được thể hiện trong tất cả các hoạt động tố tụng nói chung cũng như trong tố tụng hành chính nói riêng. Nguyên tắc này được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hành chính, từ những quy định chung cho đến những quy định cụ thể. Ðây là nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và công dân được quy định tại Ðiều 12 Hiến pháp 1992.

Trong tố tụng hành chính, nguyên tắc này bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án hành chính đúng pháp luật và đươc biểu hiện cụ thể như sau:

– Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hành chính
Mọi hoạt động tố tụng hành chính của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Luật tố tụng hành chính.

– Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án
Bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được cá nhân, cơ quan, tổ chức tôn trọng.

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Toà án, cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.

8) Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Khi xét xử vụ án hành chính, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp, cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.

Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được quy định trong Hiến pháp của nước ta, mà còn được quy định trong Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới. Tuy việc quy định có khác nhau về hình thức nhưng về nội dung thì cơ bản là giống nhau. Ví dụ: khoản 1 Ðiều 97 Hiến pháp nước Cộng hòa liên bang Ðức năm 1959 quy định: Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Ở Việt Nam, nguyên tắc này có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu. Ðiều 69 Hiến pháp năm 1946 nước ta đã quy định: Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp. Hiến pháp năm 1959 ra đời, nguyên tắc này được ghi nhận một cách rõ nét hơn: Khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Ðiều 100 Hiến pháp 1959 và Ðiều 4 Luật tổ chức Tòa án nhân dân nam 1960). Ðiều 131 Hiến pháp 1980 và Ðiều 6 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 khẳng định cụ thể hơn nguyên tắc này: Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được thể hiện ở các mặt:

– Thứ nhất: Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị ràng buộc bởi kết luận của Viện kiểm sát; không bị chi phối bởi ý kiến của nhau. Thẩm phán, Hội thẩm phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề của vụ án.

– Thứ hai: Thẩm phán và Hội thẩm độc lập cũng có nghĩa là không một cơ quan, tổ chức nào can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.

Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử phải gắn liền với việc tuân thủ pháp luật. Ðiều đó có nghĩa là khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để đưa ra ý kiến, quyết định của mình về từng vấn đề của vụ án hành chính, chứ không được tùy tiện hay bằng cảm tính.

Quy định này được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 vừa nhằm mục đích bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa thể hiện tính chất độc lập, không phụ thuộc vào các cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào trong hoạt động của Tòa án nhân dân. Trong thực tế có thể có những vi phạm đối với nguyên tắc độc lập xét xử này. Song đó là những vi phạm mang tính chất cá nhân, tư lợi, họ lợi dụng danh nghĩa cơ quan Ðảng, cơ quan Nhà nước, hoặc sự ảnh hưởng của mình nhằm tác động vào cơ quan xét xử, ép buộc cơ quan xét xử thực hiện theo yêu cầu của họ.

Ðể đảm bảo nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nhà nước nên quan tâm đảm bảo một số điều kiện cần thiết như:

– Các Thẩm phán phải được đào tạo có chất lượng về nghiệp vụ xét xử hành chính.

– Pháp điển hóa những văn bản pháp luật về nội dung để tạo điều kiện cho các Thẩm phán áp dụng luật một cách dễ dàng.

– Tăng cường hơn nữa tính độc lập trong hoạt động xét xử bằng cách cụ thể hóa trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

– Từng bước nghiên cứu để sửa đổi một số thủ tục tố tụng nói chung, và tố tụng hành chính nói riêng nhằm tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử có điều kiện nghị án không chỉ trên cơ sở những chứng cứ có trong hồ sơ, mà còn căn cứ chủ yếu vào diễn biến tại phiên tòa.

2.2. Nhóm các nguyên tắc điều chỉnh các hoạt động riêng biệt của tố tụng hành chính

Nhóm nguyên tắc này bao gồm các nguyên tắc đặc trưng của hoạt động tố tụng hành chính, bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau đây :

1) Nguyên tắc tiền tố tụng hành chính

Ðây là nguyên tắc đặc thù nhất của Luật tố tụng hành chính, là điểm khác cơ bản so với các ngành luật tố tụng khác.

Theo nguyên tắc này, trước khi khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án có thẩm quyền, đương sự phải khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo.

Theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trước đây thì tất cả các loại khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đều bắt buộc phải trải qua giai đoạn tiền tố tụng.

Hiện tại theo Luật tố tụng hành chính thì chỉ có 2 loại khiếu kiện hành chính: 1.Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; và 2.Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là bắt buộc phải trải qua giai đoạn tiền tố tụng; còn các loại khiếu kiện hành chính còn lại thì không nhất thiết phải trải qua giai đoạn tiền tố tụng.

Khoản 2 và khoản 3 Điều 103 Luật tố tụng hành chính quy định:

– Cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trong trường hợp không đồng ý với quyết định đó.

– Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong trường hợp đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với cách giải quyết khiếu nại.

2) Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp, thu thập chứng cứ

Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có), cung cấp các chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; Trường hợp không cung cấp được thì phải nêu rõ lý do.

Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc có hành vi hành chính.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Luật định.

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.

3) Nguyên tắc đối thoại trong tố tụng hành chính

Điều 12 Luật tố tụng hành chính quy định: Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án.

4) Nguyên tắc việc khởi kiện vụ án hành chính không làm ngưng hiệu lực của quyết định hành chính.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *