1. Quy định chung về cải cách hành chính
Cải cách hành chính là vấn đề diễn ra ở tất cả các quốc gia và được coi là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, là trọng tâm của công việc cải cách bộ máy nhà nước nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, thống nhất, có đủ quyền lực, năng lực để thực hiện đúng đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, phục vụ đắc lực cho nhân dân.
Ở Việt Nam, nội dung trọng tâm của cải cách hành chính gồm:
1) Cải cách thể chế – là xây dựng và hoàn thiện các thể chế mà trước hết là thể chế kinh tế trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới quy định xây dựng và ban hành văn bản quy phạm phápluật; đảm bảo tổ chức thực thi pháp luật nghiêm của các cơ quan Nhà nước; cải cách thủ tục hành chính phù hợp;
2) Cải cách tổ chức bộ máy hành chính – là việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lí nhà nước trong tình hình mới; khắc phục những chồng chéo về chức năng của các cơ quan nhà nước; chuyển một số công việc sang cho tổ chức phi chính phủ đối với các công việc dịch vụ; thực hiện phân cấp quản lý; cải tiến phương thức làm việc của cơ quan hành chính các cấp; hiện đại hoá nền hành chính;
3) Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức – bao gồm việc đổi mới chế độ quản lí công chức; cải cách chế độ tiền lương của cán bộ công chức; đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, nâng cao tỉnh thần trách nhiệm và đạo đức của công chức;
4) Cải cách tài chính công bao gồm đổi mới cơ chế phân cấp quản lí tài chính và ngân sách; bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương; đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công.
Cải cách hành chính là chủ trương được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra và thể hiện rõ trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Trong đó, mục tiêu cải cách hành chính là: “xây dựng một nền hành chính dân chủ, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất năng lực đáp ứng được công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”. Chủ trương cải cách hành chính tiếp tục được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII và các Nghị quyết trung ương 3, trung ương 6 (lần thứ 2) và trung ương 7 (khoá VIIl).
2. Cải cách thủ tục hành chính
Công cuốc cải cách hành chính do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Nhà nước thực hiện trong 15 nãm qua đã được tiến hành tương đối đồng bộ, ttong dó thủ tục hành chính được chọn làm quyết công việc giữa các cơ quan nhà nước, giữa cơ quan nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong tiếp nhận và giải quyết công việc. Cải cách thủ tục hành chính phải tiến hành đồng thời ở tất cả các khâu* các lĩnh vực nhưng trọng tâm là các thủ tục đang gây nhiều bức xúc cho xã hội như thủ tục cấp phép xuất, nhập khẩu, đầu tư, xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấp đất, đăng kí kinh doanh, hộ khẩu, thanh tra doanh nghiệp.
Trước mắt cần tổ chức soát xét toàn bộ các quy định hiện hành về thủ tục hành chính, về phí và lệ phí. Những thủ tục được ban hành không đúng thẩm quyền, trái pháp luật, thực sự không cần thiết thì bãi bỏ; những thủ tục khồng phù hợp vói thực tế thì sửa đổi, bổ sung; những thủ tục được ban hành phân tán ở nhiều. văn bản thì hợp nhất trong một văn bản. Các cơ quan nhà nước phải tổ chức tiếp thu ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về những thủ tục đã lỗi thời, trái pháp luật để kịp thời xử lí.
Về lâu dài, cần xây dựng các thủ tục hành chính đơn giản, thống nhất, công khai, dễ hiểu, dễ thực hiện. Xây dựng quy chế hoạt động của cơ quan, quy chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan theo hướng tăng cường trách nhiệm cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người đúng đầu cơ quan, giảm dần các đầu mối trung gian sao cho một việc được giải quyết chủ yếu ở một cấp. Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu giải quyết công việc liên quan đến nhiều ngành, nhiều ngưòi thì một cơ quan, một công chức phải làm đầu mối tiếp xúc, nhận hồ sơ, giải quyết công việc.
Để cải cách thủ tục hành chính được thực hiện thuận lợi cũng như kết quả cải cách hành chính được bền vững thì đổng thời phải cải cách thể chế hành chính nói chung; cải cách bộ máy hành chính tinh, gọn, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; xây dựng quy chế công chức, công vụ đảm bảo đội ngũ công chức trên thực tế có năng lực, lương tâm và trách nhiệm.
3. Tại sao Chính phủ lại lựa chọn cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá?
Chính phủ chọn cải cách thủ tục hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của cải cách hành chính bởi các lý do sau đây:
– Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính là một nội dung của cải cách hành chính, nhưng là nội dung phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, đồng thời là nội dung có nhiều bức xúc nhất của người dân, doanh nghiệp, cũng như có nhiều yêu cầu đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế.
– Thứ hai, trong điều kiện nguồn lực còn nhiều khó khăn nên chưa thể cùng một lúc thực hiện được nhiều nội dung cải cách như: cải cách tài chính công, cải cách tiền lương, cải cách tổ chức bộ máy… thì việc lựa chọn khâu cải cách thủ tục hành chính sẽ mang lại hiệu quả thiết thực nhất.
– Thứ ba, thông qua cải cách thủ tục hành chính, chúng ta có thể xác định căn bản các công việc của cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp; qua đó chúng ta có thể xây dựng bộ máy phù hợp và từ đó có thể lựa chọn đội ngũ cán bộ, công chức hợp lý, đáp ứng được yêu cầu công việc.
– Thứ tư, cải cách thủ tục hành chính là tiền đề để thực hiện các nội dung cải cách khác như: nâng cao chất lượng thể chế; nâng cao trình độ, thay đổi thói quen, cách làm, nếp nghĩ của cán bộ, công chức; phân công, phân cấp thực hiện nhiệm vụ giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp của bộ máy hành chính; thực hiện chính phủ điện tử, …
– Thứ năm, cải cách thủ tục hành chính có tác động to lớn đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Thông qua việc cải cách thủ tục hành chính sẽ gỡ bỏ những rào cản về thủ tục hành chính đối với môi trường kinh doanh và đời sống của người dân, giúp cắt giảm chi phí và rủi ro của người dân và doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục hành chính.
– Thứ sáu, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính sẽ góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam nói chung và các bộ, ngành, địa phương nói riêng trước cộng đồng trong nước và quốc tế, nâng cao vị trí xếp hạng của Việt Nam cũng như của các địa phương về tính minh bạch, môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Đây là những giá trị vô hình nhưng có tác động to lớn đến việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cụ thể là có ảnh hưởng tích cực đến việc đầu tư trong và ngoài nước, xuất nhập khẩu, việc làm, an sinh xã hội…
4. Cải cách hành chính nhà nước trong thời kỳ đổi mới đất nước
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến việc lãnh đạo, chỉ đạo cải cách hành chính nhà nước (HCNN), nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, chuyên nghiệp, vững mạnh, từng bước hiện đại; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành các lĩnh vực trong đời sống xã hội và thực thi quyền lực của nhân dân. Nền hành chính quốc gia phải được cải cách cho phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Thực chất đây là sự phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, Nhà nước trong việc lựa chọn nội dung, cách thức, biện pháp cải cách hành chính (CCHC) đạt kết quả tốt nhất.
Thực tiễn cho thấy, không có một mô hình hay phương pháp cải cách hành chính lý tưởng nào áp dụng chung, đúng đắn cho mọi quốc gia, đúng trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi giai đoạn lịch sử. Nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười từng khẳng định, cách mạng là sáng tạo, chỉ sáng tạo mới có thành công: “Khi một chủ trương được hình thành do sao chép rập khuôn kinh nghiệm của nước ngoài, thiếu tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo thì chủ trương đó sẽ không được cuộc sống chấp nhận, dẫn đến không thành công”(1).
Năm 1986, Nghị quyết Đại hội Đảng (khoá VI) đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm là đổi mới kinh tế, với nhiều chủ trương, giải pháp cải cách kinh tế về cơ chế, cơ cấu các thành phần kinh tế, nhưng chưa đề ra chủ trương cải cách nền HCNN với tư cách là một hệ thống, đồng bộ đúng với ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, về nhiệm vụ cải cách hành chính, Đảng đã đặt “trọng tâm cải cách nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành pháp và quản lý hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương xuống cơ sở, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu lực”(2). Tuy nhiên, việc cải cách hành chính mới dừng lại ở phạm vi cải cách một số nội dung của bộ máy hành chính là chủ yếu, chưa có tính tổng thể, đồng bộ. Bởi vậy, “mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực lập pháp cũng như hành pháp, song những tiến bộ đó vẫn còn thấp xa so với yêu cầu của tình hình thực tế”(3).
Năm 1995, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đã ra nghị quyết chuyên đề về cải cách nền HCNN đồng bộ về thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức. Nghị quyết Đại hội Đảng (khoá VIII) nhấn mạnh “… Công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính”(4).
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, lần thứ X đề ra chủ trương: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh”(5). Quán triệt và tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, năm 2001, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, tập trung cải cách trên bốn nội dung cơ bản của nền HCNN: thể chế hành chính; tổ chức bộ máy hành chính; cán bộ, công chức hành chính và tài chính công. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã nhấn mạnh: “Cải cách hành chính phải được thực hiện đồng bộ, vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước”(6).
Đảng và Nhà nước đã đánh giá đúng tình hình, hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước; tình hình thực tế của bộ máy nhà nước, nền HCNN để lựa chọn những nội dung, hình thức, bước đi, cách làm cho phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm rõ ràng. Trong những năm từ 1991 đến 1995 tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cải cách một bước nền HCNN, với khâu đột phá vào cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức, thí điểm áp dụng cơ chế “một cửa, một dấu”; tập trung sửa đổi, bổ sung căn bản Hiến pháp; sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới một số luật về kinh tế; bước đầu chấn chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy; cải cách một bước cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức và bước đầu thực hiện chế độ thi tuyển ở một số cơ quan hành chính. Từ năm 1996, nền HCNN được cải cách đồng bộ. Những năm từ 1996 đến 2001 tập trung nhiều hơn vào xây dựng thể chế kinh tế thị trường, tăng cường cải cách thủ tục hành chính; quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tiếp tục cải cách các chế độ, chính sách tiền lương của cán bộ, công chức. Từ năm 2001 đến nay, Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, ban hành nhiều luật mới để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế; mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa” đến cấp cơ sở trong toàn quốc; tiếp tục tinh giản bộ máy; tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và thực hiện một bước cải cách tài chính công.
Cùng với việc lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm cải cách, Đảng và Nhà nước rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo làm điểm, làm thử, rút kinh nghiệm, với những sáng kiến, những việc làm mới. Năm 1995, thực hiện thí điểm cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa, một dấu” tại Quận 1, Quận 5 và huyện Củ Chi của thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi sơ kết, đánh giá, rút kinh nghiệm đã từng bước mở rộng thí điểm, triển khai thực hiện ra các tỉnh, thành, quận, huyện và xã, phường, thị trấn trên toàn quốc. Việc cải cách tài chính công cũng được Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo từng bước làm điểm, rút kinh nghiệm. Đầu năm 2000, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm “khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính” tại 3 sở, 4 quận và 3 huyện; năm 2001, mở rộng thực hiện đối với các cơ quan HCNN. Năm 2002, thực hiện chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu và từng bước triển khai thực hiện ở các bộ, ngành từ trung ương tới địa phương.
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cải cách nền HCNN trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách; lựa chọn đúng phương thức cải cách, đạt được nhiều kết quả thiết thực. Qua đó, rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, lãnh đạo, chỉ đạo cải cách nền HCNN, Đảng và Nhà nước thực hiện theo một chiến lược tổng thể, đồng bộ, cơ bản, lâu dài.
Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu đối với Đảng, Nhà nước phải giải quyết hàng loạt các vấn đề đối với nền HCNN một cách đồng bộ và có hệ thống. Đó là các vấn đề vừa mang tính chính trị, vừa mang tính pháp quyền, vừa mang tính hành chính nghiệp vụ kỹ thuật. Cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật quán triệt đầy đủ quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, tạo khung pháp lý cho hoạt động của các quá trình kinh tế – xã hội; cùng với một tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, đa năng, khoa học, hợp lý, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao; với một đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ, có kiến thức, trình độ, năng lực chuyên môn cao, phong cách làm việc chuyên nghiệp và hiện đại; sử dụng có hiệu quả các công cụ, phương tiện để quản lý kinh tế – xã hội, nhất là nguồn tài chính, ngân sách.
Hai là, trên cơ sở cải cách cơ bản, đồng bộ nền HCNN, Đảng và Nhà nước xác định rõ hình thức, biện pháp với từng bước cải cách vững chắc theo một lộ trình hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và lựa chọn đúng khâu đột phá.
Khi bước vào thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nền HCNN của ta còn nhiều vấn đề do lịch sử để lại. Đó là nền hành chính quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong nhiều năm, chủ yếu phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; mang nặng dấu ấn và những hạn chế của phương thức quản lý cũ bằng mệnh lệnh hành chính; trình độ quản lý nhà nước đối với kinh tế – xã hội còn nhiều bất cập… Trong khi đó, nhiệm vụ cách hành chính theo hướng hiện đại ở nước ta là một việc làm mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử; chưa có đủ kiến thức, kinh nghiệm và các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật cần thiết… Do đó, Đảng và Nhà nước phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm, điều kiện thực tiễn, trình độ phát triển kinh tế – xã hội và thực trạng của nền HCNN để lựa chọn nội dung, hình thức, với từng bước đi vững chắc, có lộ trình thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm ở từng lĩnh vực, từng giai đoạn lịch sử. Thực hiện phương thức vừa làm, vừa tổng kết thực tiễn, vừa rút kinh nghiệm; vừa sáng tạo, vừa tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới; vừa tiếp thu truyền thống, vừa phát triển theo hướng hiện đại.
Ba là, coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo làm điểm, làm thử, rút kinh nghiệm; trên cơ sở đó tiếp tục rút kinh nghiệm và chỉ đạo mở rộng thực hiện đồng loạt ở các cơ quan HCNN.
Cải cách nền HCNN theo hướng dân chủ, chính quy, chuyên nghiệp, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới là việc làm khó khăn, phức tạp. Nhiều nội dung, công việc mới chúng ta chưa làm bao giờ, nhưng lại liên quan đến nhiều vấn đề của đời sống kinh tế – xã hội, đến lợi ích của đất nước và nhân dân, đòi hỏi các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước trước khi triển khai thực hiện phải nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận với cách làm phù hợp; phải lãnh đạo, chỉ đạo làm điểm, làm thử, rút kinh nghiệm nghiêm túc. Qua đó, tổng kết những việc làm hay, những mặt tích cực để nhân rộng, phát triển; đồng thời đánh giá đúng những hạn chế, vướng mắc, bất hợp lý, tìm ra nguyên nhân kịp thời khắc phục rút kinh nghiệm, tránh những thiệt hại về vật chất, tinh thần cho Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Bốn là, cải cách nền HCNN ở nước ta được thực hiện theo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, không giáo điều, dập khuôn máy móc, có quyết tâm chính trị cao; gắn xây với chống.
Cải cách nền HCNN trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng trên thế giới với tổng kết, kế thừa, tiếp thu những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn trong nước và quốc tế; vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa tiếp thu những ý tưởng sáng tạo, vừa khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém.
Để thực hiện tốt công cuộc cách hành chính, Đảng và Nhà nước thường xuyên đổi mới tư duy lý luận, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện với quyết tâm chính trị cao; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại những “lực cản” trong quá trình cải cách. Đó là tư tưởng nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn; cải cách thiếu tính khoa học, không dựa trên cơ sở pháp luật, trên những điều kiện thực tiễn về trình độ phát triển kinh tế – xã hội, đặc điểm truyền thống dân tộc, hoàn cảnh lịch sử cụ thể và thực trạng của nền hành chính… dẫn đến mất ổn định chính trị – xã hội hoặc khuynh hướng giáo điều, bảo thủ trì trệ, không muốn cải cách, cải cách nửa vời, dập khuôn máy móc theo mô hình, cách thức của nước ngoài….
Ghi chú: Bài viết được được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.