[VPLUDVN] Giai đoạn ở Tố tụng hình sự là vấn đề đầu tiên mà khoa học Luật tố tụng hình sự cần phải làm rõ trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề về các giai đoạn tố tụng hình sự.
Hiện nay chưa có định nghĩa chính thức nào về giai đoạn tố tụng hình sự, tuy nhiên có thể hiểu các giai đoạn tố tụng hình sự là trình tự thực hiện các bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng cơ quan tiến hành tố tụng và từng loại chủ thể tiến hành tố tụng nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, xử lý đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội.
Có nhiều cách phân chia các giai đoạn của tô tụng, tuy nhiên phân chia theo cách sau sẽ dễ dàng hơn khi phân tích các nội dung của nó: Khởi tố vụ án; Điều tra; Truy tố; Xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm). Ngoài ra còn có giai đoạn sau thi hành bản án và quyết định của tòa án; các thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hay các thủ tục đặc biệt khác không nằm trong các giai đoạn kể trên. Tuy nhiên bài viết chỉ đề cập đến những giai đoạn tố tụng chính để nhằm thực hiện mục đích của tố tụng hình sự là tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
- Giai đoạn khởi tố vụ án
1.1. Nhiệm vụ:
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện. Giai đoạn này được bắt đầu từ khi các cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo hoặc tố giác về tội phạm và kết thúc khi ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
1.2. Thẩm quyền:
- Cơ quan điều tra: giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình; ra quyết định khởi tố, không khởi tố vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình; ra quyết định khởi tố, không khởi tố vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
– Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục; thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm (theo Điều 159 BLTTHS), kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm (theo Điều 160 BLTTHS), thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự (theo Điều 161); ra quyết định khởi tố vụ án trong các trường hợp:
- Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
- Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.
- Hội đồng xét xử xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
1.3. Các biện pháp:
Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động sau:
- Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin;
- Khám nghiệm hiện trường;
- Khám nghiệm tử thi;
- Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.
1.4. Các quyết định tố tụng: Quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án; Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; các Quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; các Quyết định phê chuẩn, Quyết định thay đổi, hủy bỏ của Viện kiểm sát…
- Giai đoạn điều tra vụ án hình sự
2.1. Nhiệm vụ:
– Xác định tội phạm và người thực hiện tội phạm; xác định thiệt hại do tội phạm gây ra; xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục và ngăn ngừa;
– Khởi tố bị can khi có đủ căn cứ .
2.2. Thẩm quyền:
- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; ra Quyết định khởi tố bị can.
- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; ra Quyết định khởi tố bị can.
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp; ra Quyết định khởi tố bị can.
- Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt, ra Quyết định khởi tố bị can.
+ Viện kiểm sát: thực hành quyền công tố trong giai đoạn này (theo điều 165) và kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự (theo Điều 166 BLTTHS); yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu; phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện; ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung trong trường hợp phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm trong vụ án chưa bị khởi tố.
2.3. Các biện pháp:
– Triệu tập, hỏi cung bị can;
– Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất và nhận dạng;
– Khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật;
– Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét các dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra (với những vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người);
– Giám định, định gía tài sản;
– Áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
2.4. Các quyết định tố tụng: Quyết định khởi tố bị can, Quyết định tạm đình chỉ điều tra, Quyết định đình chỉ điều tra, Quyết định truy nã bị can, Quyết định phục hồi điều tra (khi có lý do hủy bỏ Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra) và các quyết định khi áp dụng các biện pháp nêu trên.
- Giai đoạn truy tố
3.1. Nhiệm vụ
Kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi, quyết định tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của Viện kiểm sát được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được kết luận điều tra và đề nghị truy tố do Cơ quan điều tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (Quyết định truy tố), Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án.
3.2. Thẩm quyền
Viện kiểm sát:
- Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết.
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra.
- Ra các Quyết định được quy định tại các khoản 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 Điều 236 BLTTHS.
- Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật;
+ Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật;
3.3. Các biện pháp
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động điều tra nên trong giai đoạn này có thể áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để kiểm tra tình hợp pháp, hợp lý của kết quả điều tra như Hỏi cung bị can, lấy lời khai, thực nghiệm điều tra…
3.4. Các quyết định tố tụng
Quyết định truy tố bằng Cáo trạng hoặc Quyết định truy tố; Quyết định truy tố bị can; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án; Quyết định phục hồi vụ án; Quyết định nhập, tách vụ án; Quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra…
- Giai đoạn xét xử:
4.1. Nhiệm vụ
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, theo đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật, trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm – nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm – nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
4.2. Thẩm quyền
– Toà án:
+ Áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử;
+ Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án;
+ Phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm – nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị;
+ Kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm – nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị);
+ Nghị án và tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật
- Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
- Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm;
- Quyết định hoãn phiên tòa theo Điều 297 BLTTHS.
- Yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu chứng cứ.
- Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ bằng các hoạt động được quy định tại Điều 252 BLTTHS.
-Viện kiểm sát:
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử.
- Phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;
- Rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa.
4.3. Các biện pháp
– Xét hỏi những người tham gia tố tung tại phiên tòa;
+ Tranh luận tại phiên toà;
– Xem xét vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án;
4.4. Các quyết định tố tụng:
Bao gồm: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ, phục hồi vụ án, quyết định rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát, Bản án(quyết định), bác kháng cáo, kháng nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, sửa án sơ thẩm; hủy án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại; hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.…
Trên đây là một số nội dung về nhiệm vụ, thẩm quyền, các biện pháp thực hiện và các quyết định tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng. Ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, các cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện những hoạt động tố tụng khách nhau nhưng tất cả đều nhằm chung một mục đích là hướng tới việc giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, xử lý đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội.
Ths.Trịnh Hạnh
Giảng viên Học viện Tòa án