1. Quyền sở hữu trí tuệ là gì?
Các ý tưởng và tri thức đang chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong hệ thống thương mại. Giá trị của các loại dược phẩm mới và các sản phẩm công nghệ cao khác nằm ở nỗ lực phát minh, cải tiến, tìm tòi, chế tạo và thử nghiệm cho phép sản xuất chúng. Phim ảnh, băng đĩa nhạc, sách báo, phần mềm tin học và các dịch vụ trên mạng được mua bán nhờ vào khối lượng thông tin và tính sáng tạo đã được đưa vào các sản phẩm này, chứ không phải là nhờ các chất liệu nhựa, giấy, hay kim loại được sử dụng để sản xuất ra chúng . Nhiều sản phẩm trước kia còn được xếp vào loại hàng hoá có hàm lượng công nghệ thấp thì nay lại có giá trị cao nhờ vào những phát minh và thiết kế, ví dụ như quần áo mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc các giống cây trồng mới.
Các nhà phát minh sáng chế có thể có quyền không cho người khác sử dụng các sáng chế , bản vẽ , mẫu mã hay bất cứ sáng tạo nào khác của mình. Họ có thể dùng quyền đó để thương lượng khoản thù lao mà họ được hưởng trong trường hợp người thứ ba muốn sử dụng các phát minh, sáng chế của họ. Các quyền này được gọi là “quyền sở hữu trí tuệ” . Chúng có nhiều hình thức: bản quyền, chẳng hạn đối với các ấn phẩm sách báo, phim và tranh ảnh; bằng sáng chế; nhãn hiệu hàng hoá hoặc thương phẩm đối với tên hiệu và logo sản phẩm , v … Chính phủ và quốc hội các nước đã trao quyền này cho các nhà phát minh sáng chế để khuyến khích họ đưa ra nhiều ý tưởng phục vụ lợi ích của toàn xã hội.
Điều 2 hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có định nghĩa “quyền sở hữu trí tuệ” bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, thông tin bí mật (bí mật thương mại), kiểu dáng công nghiệp và quyền đối với giống thực vật.
Điều 1.2 của hiệp định TRIPs định nghĩa thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” có nghĩa là tất cả các đối tượng sở hữu trí tuệ nêu tại các mục từ mục 1 đến mục 7 của phần II của hiệp định này, tức bao gồm: bản quyền và các quyền có liên quan; nhãn hiệu hàng hoá; chỉ dẫn địa lí, kiểu dáng công nghiệp; patent; thiết kế bố trí mạch tích hợp và bảo hộ thông tin bí mật. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền phát sinh từ sở hữu trí tuệ đó.
2. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Mức độ bảo vệ và tôn trọng các quyền này ở các nước rất khác nhau. Do sở hữu trí tuệ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thương mại nên những khác biệt đó đang trở thành nguyên nhân gây căng thẳng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Việc xây dựng các quy định pháp luật thương mại mới trên phạm vi toàn thế giới nhằm điều chỉnh quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành phương tiện giúp củng cố trật tự quốc tế, khả năng dự báo, cũng như giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế có hiệu quả hơn.
Với hiệp định TRIPs được đàm phán trong vòng đàm phán Urugoay từ năm 1986 đến năm 1994 lần đầu tiên những quy định về sở hữu trí tuệ được đưa vào hệ thống pháp luật thương mại đa biên. Hiệp định TRIPs có mục tiêu là giảm bớt sự khác biệt trong cách thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới và đưa ra các quy định quốc tế chung điều chỉnh sự bảo hộ này. Hiệp định ấn định các mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm cho quyền sở hữu trí tuệ của các quốc gia thành viên khác. Trên cơ sở đó , hiệp định tạo sự cân bằng giữa lợi ích lâu dài và chi phí ngắn hạn đối với xã hội. Chính phủ các nước được phép giảm các chi phí ngắn hạn bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ : để đối phó với các vấn đề y tế công cộng. Hơn nữa , hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO cho phép giải quyết các tranh chấp thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả.
Các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định TRIPs bao gồm: bản quyền và quyền liên quan; nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ; chỉ dẫn địa lí; bản vẽ về kiểu dáng công nghiệp, bằng sáng chế; sơ đồ bố trí mạch tích hợp; bảo vệ thông tin bí mật. Hiệp định đề cập năm nội dung chính: các nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại và các hiệp định quốc tế khác về sở hữu trí tuệ được áp dụng; mức độ bảo hộ thích hợp đối với quyền sở hữu trí tuệ; bảo đảm cho các quyền này được tôn trọng một cách thoả đáng trên lãnh thổ của nước thành viên, giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ giữa các nước thành viên WTO; áp dụng các thoả thuận đặc biệt trong thời gian chuyển đổi cũng như các thoả thuận trong các hiệp định GATT và GATS, hiệp định TRIPs dựa trên một số nguyên tắc cơ bản. Hiệp định TRIPs nhấn mạnh tới nguyên tắc không phân biệt đối xử: đối xử quốc gia (bình đẳng đối xử giữa người trong nước và người nước ngoài) và đối xử tối huệ quốc (bình đẳng đối xử giữa kiều dân của tất cả các nước thành viên khác của WTO). Đối xử quốc gia cũng là nội dung cốt lõi của các hiệp định khác về sở hữu trí tuệ được kí kết ngoài khuôn khổ WTO.
Hiệp định TRIPs còn đưa ra nguyên tắc quan trọng khác, đó là bảo hộ sở hữu trí tuệ phải góp phần cải tiến kĩ thuật và chuyển giao công nghệ. Bảo hộ sở hữu trí tuệ phải đem lại lợi ích cho người sản xuất cũng như người tiêu dùng, góp phần gia tăng sự no ấm về kinh tế và xã hội.
3. Một số quy định cụ thể về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Các quyền sở hữu trí tuệ có thể rất khác nhau và cách thức bảo hộ chúng cũng khác nhau. Vấn đề đặt ra là làm sao để các quy định phù hợp về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được tất cả các nước áp dụng. Theo cách đó, nền tảng pháp luật quốc tế của việc bảo hộ phải là những nghĩa vụ được ghi trong các hiệp định quốc tế kí kết trong khuôn khổ tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và WTO, đặc biệt là công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (văn bằng, bản vẽ công nghiệp , v.v.) , công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật (quyền tác giả) , hiệp định TRIPs.
3.1. Quyền tác giả (copyrights)
Luật thương mại quốc tế quy định các quyền tác giả phải được bảo hộ như đã được quy định trong các văn bản của WIPO và WTO. Chẳng hạn, chương trình máy tính sẽ được bảo hộ như các tác phẩm văn học theo đúng công ước Berne. Tuy vậy, hiệp định TRIPs mở rộng phạm vi điều chỉnh của các quy định quốc tế về bản quyền tác giả đối với thuê lại, theo đó tác giả của các chương trình máy tính và các nhà thu âm còn có quyền không cho công chúng thuê các tác phẩm của họ. Độc quyền tương tự cũng được dành cho các tác phẩm điện ảnh. Việc kinh doanh, cho thuê đã khiến các tác phẩm điện ảnh bị sao chép rất nhiều, khiến người nắm giữ quyền tác giả không thu được hết lợi nhuận mà mình đáng được hưởng. Người phiên dịch hoặc người biểu diễn cũng có quyền không cho thu âm, sao chép và phổ biến rộng rãi các hoạt động của họ ít nhất là trong vòng 50 năm. Các nhà sản xuất băng đĩa cũng có quyền không cho sao chép lại các sản phẩm của họ trong vòng 50 năm.
3.2. Về nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ (trademarks)
Luật thương mại quốc tế định rõ các nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ cần được bảo hộ trong mức độ cần thiết các quyền tối thiểu, chủ sở hữu các nhãn hiệu dịch vụ phải được bảo hộ như chủ sở hữu các nhãn hiệu hàng hoá. Các nhãn hiệu nổi tiếng ở các nước phải còn được bảo hộ theo các quy chế bổ sung.
3.3. Về chỉ dẫn địa lí (Geographical indications)
Tên một khu vực địa lí, một địa điểm đôi khi được sử dụng để nhận dạng sản phẩm. “Chỉ dẫn địa lí ” này không những chỉ ra nơi sản phẩm được sản xuất mà đặc biệt còn chỉ ra các đặc tính của sản phẩm có được từ nguồn gốc của nơi sản xuất ra nó. Các tên “Champagne”, “Scotch “, “Tequyla” và “Roquefort” là những ví dụ mà ai cũng biết. Những nhà sản xuất rượu vang và rượu mạnh đặc biệt coi trọng việc sử dụng địa danh để nhận dạng các sản phẩm này. Chỉ dẫn địa lí được một số điều khoản đặc biệt của hiệp định TRIPs điều chỉnh. Tuy vậy, đây cũng là vấn đề quan trọng đối với các loại hàng hoá khác.
Việc sử dụng tên khu vực địa lí, địa điểm khi sản phẩm được sản xuất ở nơi khác hoặc không có được những tính năng vốn có của sản phẩm sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh. Hiệp định TRIPs quy định nghĩa vụ các nước thành viên phải ngăn cấm việc sử dụng bừa bãi các địa danh gắn lên sản phẩm. Đối với rượu vang và rượu mạnh, các hiệp định quy định mức độ bảo hộ cao hơn, tức là ngay cả khi không có nguy cơ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, luật thương mại quốc tế cho phép một số ngoại lệ, đặc biệt khi địa danh đã được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hoá hoặc thương hiệu hoặc khi nó đã trở thành tên chung. Ví dụ : từ “Cheddar ” ngày nay được dùng để chỉ một loại phomat đặc biệt không nhất thiết phải được sản xuất ở vùng cheddar thuộc nước anh. Tuy nhiên, nước nào muốn nêu ngoại lệ vì những lí do này đều phải tiến hành đàm phán với những nước cũng muốn bảo hộ chỉ dẫn địa lí đó.
3.4. Về bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp (Industrial designs)
Theo luật thương mại quốc tế, các bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp phải được bảo hộ ít nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ phải có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc có chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ.
3.5 Bằng phát minh sáng chế (Patents)
Luật thương mại quốc tế quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua văn bằng sáng chế trong vòng ít nhất 20 năm. Cả sản phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ. Chính phủ các nước có thể từ chối cấp văn bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội. Họ cũng có thể không cấp văn bằng cho các phương pháp chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật, các loại thực vật và động vật (không phải là các chủng vi sinh vật) và các phương pháp sinh học sản xuất giống cây trồng và vật nuôi (không phải là các phương pháp vi sinh). Tuy nhiên, các giống cây phải được bảo vệ bằng các bằng phát minh hoặc bằng một hệ thống đặc biệt (như hệ thống bảo vệ quyền của người được cấp phép được quy định trong các công ước của liên minh quốc tế bảo hộ giống cây trồng).
Luật thương mại quốc tế có các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu văn bằng sáng chế. Tuy nhiên, ở đây cũng quy định một số ngoại lệ. Có thể xảy ra trường hợp người sở hữu văn bằng sáng chế lạm dụng các quyền của mình, như không cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trong trường hợp đó chính phủ các nước có thể cấp “giấy phép bắt buộc” cho phép một đối thủ cạnh tranh được sản xuất sản phẩm này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Tuy nhiên, chính phủ các nước cũng đồng thời phải đáp ứng một số điều kiện nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của người giữ văn bằng sáng chế. Nếu là văn bằng sáng chế về quy trình sản xuất thì các sản phẩm được sản xuất trực tiếp từ quy trình này cũng được bảo hộ.
Cho tới gần đây , đối với việc bảo hộ các dược phẩm đã được cấp văn bằng sáng chế vẫn là vấn đề phức tạp nhất là chữa trị căn bệnh HIV/ AIDS. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để vừa không cản trở các nước nghèo tiếp cận các loại thuốc chữa bệnh, vừa duy trì được vai trò của văn bằng sáng chế là khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển trong ngành dược phẩm. Một số quy định mềm dẻo, như khả năng nhượng lại “giấy phép bắt buộc”, đã được đưa vào hiệp định TRIPs/WTO.
3.6. Về sơ đồ bố trí mạch tích hợp (Integrated circuits layout designs – topographies)
Việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch tích hợp được thực hiện trên cơ sở hiệp định Washington về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp. Tuy đã được thông qua vào năm 1989 nhưng hiệp định này vẫn chưa có hiệu lực. Hiệp định TRIPs/WTO bổ sung thêm một số điều khoản, chẳng hạn như mạch tích hợp phải được bảo hộ ít nhất là 10 năm.
3.7 . Bảo hộ thông tin mật và bí quyết thương mại (Undisclosed information and trade secrets)
Bí quyết thương mại và các loại “thông tin mật” khác có giá trị thương mại phải được bảo vệ nhằm ngăn chặn việc lạm dụng lòng tin và các hành vi khác trái với nguyên tắc làm ăn trung thực. Tuy vậy, cũng cần phải đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ bí mật của các thông tin này. Nếu được cung cấp các kết quả thử nghiệm trong quá trình cấp phép dược phẩm hoặc sản phẩm hoá học phục vụ nông nghiệp thì chính phủ phải bảo vệ các kết quả này nhằm ngăn ngừa việc khai thác thương mại bất hợp pháp.\
3.8 Các hợp đồng li-xăng chống cạnh tranh trong thương mại (Curbing anti – competitive licensing contracts)
Chủ sở hữu bản quyền tác giả, văn bằng hoặc bất cứ quyền sở hữu trí tuệ nào khác đều có thể cho phép một người khác sản xuất hay sao chép nhãn hiệu hàng hoá hoặc dịch vụ, tác phẩm, sáng chế, bản vẽ hoặc các mẫu mã được bảo hộ. Luật thương mại quốc tế cho phép trong một số trường hợp, người chủ sở hữu có thể hạn chế kí kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ, bản quyền tác giả dạng độc quyền, không có cạnh tranh hoặc cản trở việc chuyển giao công nghệ bằng cách đưa vào hợp đồng chuyển giao đối của quyền sở hữu trí tuệ (còn gọi là hợp đồng li – xăng) một số các điều kiện như vậy. Luật thương mại quốc tế cũng cho phép chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất định, có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi chống cạnh tranh và lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực nhượng bản quyền. Tuy vậy , chính phủ các nước phải sẵn sàng tham khảo nhau nhằm hạn chế áp dụng các hành vi này.
4. Phương thức bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Có được các luật lệ tốt về sở hữu trí tuệ là chưa đủ, các nước còn phải làm sao để luật lệ được tuân thủ chặt chẽ. Vấn đề này đã được luật thương mại quốc tế quy định, theo đó, chính phủ các nước phải bảo đảm thực thi pháp luật về bảo hộ được quyền sở hữu trí tuệ và các trường hợp vi phạm phải bị trừng trị thích đáng . Các thủ tục áp dụng phải hợp pháp , công bằng và không quá phức tạp và không phải tốn kém một cách không cần thiết . Các thủ tục này không được đề ra thời hạn quá dài hoặc gây chậm trễ một cách vô lí. Những người có liên quan phải được phép yêu cầu toà án xem xét lại quyết định hành chính cho dù đó đã là bản quyết định cuối cùng hoặc xét xử phúc thẩm một bản án của toàán cấp dưới. Hiệp định TRIPs / WTO có các quy định mô tả chi tiết các công cụ bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ , đặc biệt là các quan tới việc thu thập chứng cứ, các biện pháp tạm thời, các biện pháp tư pháp của toà án , các khoản bồi thường thiệt hại và các biện pháp xử phạt khác.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.