Các quy định cơ bản của thương mại dịch vụ theo GATS

1. Khái quát chung về hiệp định thương mại và dịch vụ

“Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (tiếng Anh: General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS) là một hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiệp định được ký kết sau khi kết thúc Vòng đàm phán Uruguay và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Hiệp định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không chỉ điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại hàng hóa như trước đó.”
Tất cả các thành viên của WTO đều tham gia GATS và các nguyên tắc cơ bản của WTO về đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia cũng đều áp dụng với GATS.

2. Khái niệm dịch vụ và thương mại dịch vụ

1.1. Định Nghĩa ‘’ dịch vụ’’

Đối với khái niệm dịch vụ, GATS không đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh song lại mô tả dịch vụ theo phương thức cung ứng dịch vụ. Các dịch vụ thuộc đối tượng điều chỉnh của GATS chỉ là các dịch vụ được đưa ra trên cơ sở cạnh tranh và loại trừ khỏi phạm vi áp dụng của mình những dịch vụ được cung ứng để thi hành thẩm quyền của chính phủ.

Để xác định hành vi hoặc hoạt động nào là dịch vụ, các nước phải tuân theo quy định của Liên hợp quốc về dịch vụ, đặc biệt là phải tuân theo quy định tại Bảng phân loại các dịch vụ cơ bản của Liên hợp quốc ( Danh mục PCPC/CPC ). Bất cứ hành vi hoặc hoạt động được liệt kê vào,được mô tả và được hóa trong Danh mục PCPC/CPC nói trên thì hành vi hoặc hoạt động đó được thừa nhận là dịch vụ trong giao dịch thương mại quốc tế.

1.2. Định nghĩa ‘’ thương mại dịch vụ’’

GATS có định nghĩ khá rõ về thương mại dịch vụ.Thương mại dịch vụ được hiểu là sự cung cấp dịch vụ:

– Từ lãnh thổ của nước này ( nước cung ứng dịch vụ) đến lãnh thổ của nước khác (nước sử dụng dịch vụ) theo phương thức’’cung ứng dịch vụ qua biên giới’’ (hay’’phương thức I ‘’ theo ngôn ngữ của WTO);

Ví dụ: Gọi điện thoại quốc tế, các dịch vụ giáo dục trực tuyến, khám bệnh từ xa trong đó bệnh nhân và bác sĩ khám ngồi ở hai nước khác nhau.

– Trên từ lãnh thổ của nước này (nước sử dụng dịch vụ) cho người sử dụng của bất kì nước nào khác theo phương thức ’’tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài’’ (phương thức 2)

Ví dụ: Sửa chữa tàu biển, Lữ hành, Du học, chữa bệnh ở nước ngoài.

– Bởi người, tổ chức cung ứng dịch vụ của nước này (nước cung cấp dịch vụ) tại bất kì nước nào khác (nước sử dụng dịch vụ) theo phương thức ’’hiện diện thương mại’’ (phương thức 3)

Ví dụ: một ngân hàng thương mại mở một chi nhánh ở nước ngoài.

– Bởi người, thể nhân cung cấp dịch vụ ở nước này (nước cung cấp dịch vụ) tại bất kì nước nào khác (nước sử dụng dịch vụ) theo phương thức ‘’hiện diện của thể nhân’’ (phương thức 4)

Ví dụ: Một giáo sư được mời sang một trường đại học ở nước ngoài để giảng bài.

2. Những nguyên tắc cơ bản của thương mại dịch vụ.

2.1. Đối xử tối huệ quốc

Ưu đãi nào đã được dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của một nước thì phải được dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của tất cả các nước khác . Nguyên tắc MFN có nghĩa là tất cả các đối tác thương mại được đối xử công bằng, theo đúng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Trong khuôn khổ của GATS, nếu một nước mở cửa một lĩnh vực cho cạnh tranh nước ngoài thì nước đó sẽ phải dành cơ hội đồng đều cho các nhà cung ứng dịch vụ của tất cả các nước thành viên WTO. Nguyên tắc này được áp dụng ngay cả khi một nước không đưa ra cam kết cụ thể nào về mở cửa thị trường dịch vụ của mình cho các công ty nước ngoài trong khuôn khổ WTO. Nguyên tắc MFN được áp dụng cho tất cả các loại dịch vụ nhưng các nước được phép tạm thời miễn áp dụng điều khoản này đối với một số ngành dịch vụ đặc biệt.

Trước khi GATS có hiệu lực, một số nước đã kí với các đối tác thương mại những hiệp định ưu đãi về dịch vụ, trong khuôn khổ song phương hoặc giữa một nhóm nước nhất định. Các thành viên của GATS/WTO cho rằng cần duy trì các ưu đãi này trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, các nước tự dành quyền tiếp tục đối xử ưu đãi hơn đối với một số nước nào đó trong một số lĩnh vực dịch vụ nhất định bằng cách liệt kê các “ngoại lệ đối với nghĩa vụ MFN” đồng thời với các cam kết ban đầu của mình. Để bảo vệ nguyên tắc tối huệ quốc, các nước đã quyết định ngoại lệ chỉ được chấp nhận một lần duy nhất và không được bổ sung thêm. Hiện nay, các ngoại lệ đang được xem xét lại như đã quy định và về nguyên tắc, thời hạn của chúng là 10 năm.

2.2. Tuân thủ các cam kết mở cửa thị trường (MA) và đãi ngô quốc gia (NT)

Cam kết của các nước về mở cửa thị trường nội địa và mức độ mở cửa trong các lĩnh vực cụ thể chính là kết quả của các cuộc đàm phán . Các cam kết này được liệt kê lại trong các “danh mục” các ngành sẽ được mở cửa, mức độ mở cửa đối với mỗi ngành những hạn chế đối với sự tham gia của đối tác nước ngoài được nêu rõ nếu cần) và các hạn chế có thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (tức khi một số ưu đãi được dành cho các công ty trong nước nhưng không dành cho các công ty nước ngoài). Ví dụ: nếu cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động trên thị trường nội địa, chính phủ một nước nào đó đã đưa ra cam kết về mở cửa thị trường. Nếu chính phủ đó hạn chế số lượng giấy phép được cấp thì đó chính là hạn chế mở cửa thị trường. Cuối cùng, nếu chính phủ đó tuyên bố các ngân hàng nước ngoài chỉ có thể lập chi nhánh duy nhất trong khi các ngân hàng trong nước lại có thể lập nhiều chi nhánh thì đó được coi là ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.

Những cam kết này phải quy định rõ ràng là “ràng buộc” . Cũng giống như các mức thuế quan “trần” trong thương mại hàng hoá, các cam kết trong thương mại dịch vụ chỉ có thể được thay đổi sau khi đã thương lượng với các nước liên quan. Do rất khó bị phá vỡ, các cam kết này chính là sự bảo đảm đối với điều kiện hoạt động của các nhà xuất khẩu nước ngoài , các nhà nhập khẩu dịch vụ trong nước cũng như các nhà đầu tư trong lĩnh vực này.

2.3 Chấp nhận loại trừ các dịch vụ công (Governmental services)

Các dịch vụ công được loại ra khỏi luật thương mại quốc tế và không có quy định nào của GATS buộc các cơ quan công quyền phải tư nhân hoá các ngành công nghiệp dịch vụ. Trên thực tế, thuật ngữ “tư nhân hoá” thậm chí cũng không tồn tại trong văn bản của GATS/WTO. GATS cũng không cấm độc quyền của nhà nước và độc quyền của tư nhân trong lĩnh vực này.

Trong quan hệ giữa các nước thành viên WTO, ngoại lệ này tạo thành một cam kết rõ ràng từ phía các chính phủ thành viên WTO cho phép dùng quỹ công tài trợ cho các dịch vụ trong những lĩnh vực cơ bản thuộc trách nhiệm của các chính phủ. Các dịch vụ công ở đây được định nghĩa là các dịch vụ được cung ứng không mang tính thương mại hay cạnh tranh với các nhà cung ứng dịch vụ khác. Các dịch vụ này không chịu sự điều chỉnh của GATS/WTO, chúng không được đưa ra đàm phán và các cam kết về mở cửa thị trường , đãi ngộ quốc gia (tức đối xử như nhau đối với các Công ty trong và ngoài nước ) không được áp dụng cho các loại dịch vụ này . Theo cách tiếp cận của GATS đối với các cam kết , các nước thành viên không bị buộc phải đưa ra cam kết về tất cả các ngành dịch vụ . Một chính phủ có thể không muốn cam kết về mức độ cạnh tranh nước ngoài trong một ngành nhất định , bởi họ cho rằng đó là chức năng cơ bản của chính phủ hoặc vì bất cứ lí do gì khác . Trong trường hợp này , các chính phủ chỉ tuân thủ những nghĩa vụ tối thiểu như bảo đảm sự minh bạch trong cách thức điều tiết ngành dịch vụ này và không được phân biệt đối xử giữa các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài với nhau.

2.4. Bảo đảm tính minh bạch, công khai

Luật thương mại quốc tế quy định pháp luật trong nước phải bảo đảm tính minh bạch Chính phủ các nước phải công bố tất cả các luật, quy định phù hợp và thiết lập các điểm thông tin trong các cơ quan hành chính của mình. Từ các điểm thông tin này, các công ty và chính phủ nước ngoài có thể lấy thông tin liên quan đến các quy định điều chỉnh ngành dịch vụ này hay ngành dịch vụ khác . Các nước thành viên GATS / WTO phải thông báo cho WTO tất cả những thay đổi về quy định điều chỉnh các ngành dịch vụ là đối tượng của các cam kết cụ thể. Các quy định của pháp luật trong nước phải khách quan và hợp lí. Do quy định trong nước chính là công cụ tác động và kiểm soát đối với thương mại dịch vụ nên các nước phải điều tiết các ngành dịch vụ một cách hợp lí, khách quan và công bằng. Khi đưa ra một quyết định hành chính tác động đến dịch vụ thì chính phủ cũng phải lập cơ chế công minh cho phép xem xét lại quyết định này (như thông qua toà án).

GATS không buộc các nước phải dỡ bỏ mọi quy định trong bất cứ ngành dịch vụ nào. Các cam kết tự do hoá không làm phương hại đến quyền của các nước được ấn định những chuẩn về chất lượng, độ an toàn hay giá cả cũng như quyền được đưa ra các quy định nhằm theo đuổi bất cứ mục tiêu chung nào mà họ cho là phù hợp. Chẳng hạn, cam kết về đối xử quốc gia chỉ có nghĩa là các quy định được áp dụng như nhau cho các nhà cung ứng trong nước và nước ngoài. Đương nhiên là các nước vẫn có quyền đưa ra các quy định về trình độ chuyên môn của các bác sĩ hay luật sư và ấn định các chuẩn mực nhằm bảo đảm sức khỏe và sự an toàn cho người tiêu dùng.

2.5. Công nhận hệ thống chất lượng

Khi hai (hay nhiều chính phủ kí các hiệp định công nhận hệ thống chất lượng của nhau ( chẳng hạn , trong việc cấp giấy phép hoặc chứng nhận cho các nhà cung ứng dịch vụ ) thì họ phải tạo điều kiện cho các thành viên khác được đàm phán với họ về các thoả thuận tương tự. Việc công nhận hệ thống chất lượng của các nước không được mang tính phân biệt đối xử cũng như mang tính bảo hộ trá hình.

2.5. Thanh toán và chuyển tiền quốc tế theo lộ trình tự do hoá

Một khi đã cam kết mở cửa một ngành dịch vụ cho cạnh tranh nước ngoài thì về nguyên tắc chính phủ không được cấm việc chuyển tiền ra nước ngoài dưới danh nghĩa chi trả cho các dịch vụ đã tiêu dùng (giao dịch vãng lai) trong ngành này. Chỉ có một trường hợp ngoại lệ duy nhất được quy định trong Hiệp định đó là trường hợp một nước gặp khó khăn về cán cân thanh toán nhưng ngay cả trong trường hợp này thì các quy định cấm đó chỉ có thể được áp dụng tạm thời và phải tuân thủ những hạn chế và điều kiện khác .

3. Các quy định đặc biệt

Khác với thương mại hàng hoá quốc tế , thương mại dịch vụ quốc tế khá phức tạp và rất đa dạng. Các công ti điện thoại, ngân hàng, các công ti hàng không và các văn phòng kế toán cung ứng dịch vụ của họ theo các cách rất khác nhau. Do vậy, luật thương mại dịch vụ quốc tế có các quy định đặc biệt về một số lĩnh vực cụ thể.

3.1. Các quy định về di trú đối với thể nhân

Các quy định này liên quan đến quyền của các cá nhân được tạm thời xuất cảnh, cư trú, đi lại tại một nước để cung ứng một dịch vụ. Các quy định này không áp dụng cho những người đang tìm kiếm việc làm thường xuyên cũng như không được sử dụng như một điều kiện đã được đáp ứng để xin quy chế công dân, lưu trú hoặc một công việc thường xuyên .

3.2 . Dịch vụ tài chính

Sự bất ổn của hệ thống ngân hàng có thể gây phương hại tới toàn bộ nền kinh tế. Theo quy định về dịch vụ tài chính thì các chính phủ có toàn quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa, chẳng hạn, để bảo vệ các nhà đầu tư, người gửi tiền và người mua bảo hiểm, để bảo đảm tính thống nhất và ổn định của hệ thống tài chính. Tuy vậy, các quy định này cũng nêu rõ Hiệp định GATS không áp dụng đối với các dịch vụ được cung cấp nhằm thực thi quyền lực của chính phủ đối với hệ thống tài chính, ví dụ : các dịch vụ do các ngân hàng trung ương cung cấp

3.3 . Viễn thông

Ngành viễn thông đóng một vai trò kép, nó vừa là ngành hoạt động kinh tế riêng biệt, vừa là thành tố của hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động kinh tế khác (chẳng hạn như việc chuyển tiền điện tử). Theo các quy định này, chính phủ các nước phải bảo đảm cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài được sử dụng các mạng thông công cộng mà không phải chịu bất cứ sự phân biệt đối xử nào.

3.4. Các dịch vụ vận tải hàng không

Theo quy định, các quyền không lưu và các hoạt động đi kèm với chúng thường thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định song phương . Tuy nhiên, các quy định của luật thương mại quốc tế sẽ được áp dụng cho các dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, cho việc thương mại hoá các dịch vụ vận tải hàng không và cho các dịch vụ của hệ thống đặt vé qua mạng. Hiện nay các nước thành viên WTO đang Xem xét lại các quy định này.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *