Cho đến nay, trong luật quốc tế nói chung và luật hàng không dân dụng quốc tế nói riêng vẫn chưa có quy định xác định cụ thể độ cao của vùng trời. Nhưng các quốc gia thường coi độ cao của vùng trời chính là độ cao của bầu khí quyển.
Vùng trời của quốc gia thuộc chủ quyền hoàn toàn, riêng biệt của quốc gia. Điều 1 Công ước Chicago năm 1944 quy định: “Các quốc gia kết ước thừa nhận rằng mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối đối với khoảng không gian bao trùm trên lãnh thổ của quốc gia”.
Các phương tiện bay của nước ngoài muốn hoạt động trên vùng trời của quốc gia phải được sự đồng ý của quốc gia đó theo những điều kiện và thể thức nhất định và phải tuân thủ pháp luật của quốc gia đó.
1. Vùng trời quốc gia là gì ?
Vùng trời là khoảng không gian bao trùm lên vùng đất, vùng nước của lãnh thổ quốc gia và nằm dưới chủ quyền hoàn toàn, riêng biệt của quốc gia đó. Vùng trời của mỗi quốc gia bị giới hạn bởi:
– Biên giới xung quanh là mặt thẳng đứng được dựng qua các điểm nằm trên đường biên giói trên bộ và trên biển cùa lãnh thổ quốc gia và có hướng chạy thẳng vào tâm trái đất. Biên giói xung quanh giới hạn chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia trong vùng trời nước mình.
– Biên giới trên cao để xác định chủ quyền của mỗi quốc gia đối với vùng trời của mình. Ý nghĩa pháp lý quan trọng của việc xác định biên giới này đã được khẳng định trong Luật hàng không quốc tế cũng như thực tiễn hoạt động của các quốc gia. Cho đến nay, Luật hàng không quốc tế chưa quy định cụ thể về độ cao của biên giói này.
Dựa trên nguyên tắc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với vùng trời, các quốc gia có toàn quyền quy định chế độ sử dụng và khai thác vùng trời quốc gia. Nội dung của quy chế gồm:
– Các chuyến bay cùa phương tiện bay (phương tiện bay) nước ngoài chỉ được thực hiện trên cơ sở giấy phép hàng không;
– Điều ước quốc tế hàng không là cơ sở pháp lý để cấp giấy phép cùng các điều kiện thực hiện giấy phép này;
– Trong quá trình khai thác vùng ười quốc gia, các phương tiện bay nước ngoài phải chấp hành các quy định về cửa khẩu hàng không, hành lang bay, độ cao bay và sân bay hạ cánh;
– Quốc gia sở tại có quyền quy định vùng cấm bay hoặc hạn chế bay, các phương tiên bay nước ngoài phải có nghĩa vụ tôn trọng các quy định này;
– Tất cả hành vi vi phạm chủ quyền quốc gia trong vùng ười đều sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc theo quy định và các điều khoản có liên quan của luật quốc gia cũng như luật quốc tế.
Trong tuyên bố ngày 5/6/1984 của Việt Nam về vùng ười đã thể hiện rõ ràng nội dung các quy định nêu ưên, theo đó:
– Các chuyến bay của phương tiên bay nước ngoài chỉ được thực hiện trong vùng trời Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế hàng không hoặc trên cơ sở cho phép của Chính phủ Việt Nam.
– Các phương tiện bay nước ngoài phải tuân theo các quy định của Việt Nam về đường bay, sân bay hàng không; phải chịu mọi sự kiểm soát và hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam.
– Phương tiện bay nước ngoài không được tiến hành dưới bất kỳ hình thức nào các hoạt động xâm phạm tói vùng trời Việt Nam.
Tất cả các hành vi vi phạm các quy định về vùng trời Việt Nam sẽ bị xử lý theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Chế độ pháp lý về vùng trời quốc gia ngày càng được bổ sung và hoàn thiên đầy đủ và chặt chẽ hơn. Điều khoản pháp lý quốc tế quan trọng bổ sung cho chế định pháp lý về vùng trời là điều khoản 3 bis của Công ước Chicagô 1944. Điều khoản 3 bis có nội dung sau:
– Mỗi quốc gia có quyền bắt những phương tiện bay xâm phạm vùng trời nước mình phải hạ cánh hoặc chấm dứt hành vi xâm phạm. Mỗi quốc gia phải công bố các quy định pháp luật về ngăn chặn và bắt phương tiện bay dân dụng vi phạm phải hạ cánh.
– Mỗi quốc gia phải thi hành những biện pháp thích đáng để ngăn cấm việc sử dụng phương tiện bay dân dụng vào những hoạt động bất hợp pháp.
– Các quốc gia thoả thuận việc cấm dùng vũ khí chống lại phương tiên bay dân dụng và đảm bảo an toàn tuyệt đôì cho phương tiện bay cùng hành khách trên phương tiện bay.
Với nội dung như vây, điều khoản 3 bis đã góp phần củng cố hơn nữa chủ quyền quốc gia đối với vùng trời của mình, cho phép các quốc gia sử dụng các biện pháp bảo đảm an ninh và chù quyền quốc gia trong vùng trời mỗi nước, đồng thời nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tới chủ quyền quốc gia.
2. Phương tiện bay hàng không
2.1 Khái niệm phương tiện bay hàng không
Phương tiện bay hàng không là tất cả các loại phương tiên, vật thể có thể tự duy trì hoạt động trong không gian (môi trường hoạt động của phương tiện bay hàng không) nhờ tác động của khí quyển.
Công ước Chicagô 1944 chia phương tiện bay hàng không ra làm 2 loại:
– Phương tiện bay hàng không dân sự là phương tiện bay được sử dụng trong vận chuyển, nông nghiệp, y tế, khí tượng… và nếu được sử dụng trong hoạt động hàng không quốc tế thì gọi là phương tiện bay hàng không dân dụng quốc tế.
– Phương tiện bay nhà nước là các phương tiên bay được sử dụng trong các lực lượng vũ trang, hải quan và cảnh sát.
Luật hàng không quốc tế chỉ có hiệu lực điều chỉnh chủ yếu đối với các hoạt động liên quan đến phương tiện bay dân sự chứ không điều chỉnh các hoạt động của phương tiện bay nhà nước.
2.2 Quy chế pháp lý phương tiện bay hàng không
Theo quy định chung, mỗi phương tiện bay hàng không phải có một quốc tịch xác định của nước tiến hành thù tục đăng ký phương tiện bay. Điều kiện, trình tự đăng ký phương tiện bay phải tuân theo các quy định của luật quốc gia có thẩm quyền. Luật hàng không quốc tế quy định mỗi phương tiện bay chỉ có một quốc tịch và không được đăng ký ở nhiều nước khác nhau. Tuy nhiên, có thể chuyển đăng ký từ nước này sang nước khác (Điều 8 Công ước Chicagô 1944).
Quốc tịch phương tiện bay là mối hên hê pháp lý giữa phương tiện bay với quốc gia mà phương tiên bay mang quốc tịch trên cơ sở đăng ký. Quốc gia đăng tịch phương tiện bay có thẩm quyền tài phán và nghĩa vụ bảo hộ ngoại giao đối với phương tiện bay mang quốc tịch nước mình. Thực tiễn hoạt động hàng không dân dụng quốc tế xuất hiện hai loại thẩm quyền là thẩm quyền đối với phương tiện bay hàng không và thẩm quyền lãnh thổ (thẩm quyền của quốc gia mà trên lãnh thổ của nó đang có phương tiện bay hàng không hoạt động). Hai loại hình thẩm quyền này đã xung đột và gây ra nhiều quan điểm đối lập và mâu thuẫn với nhau. Quan điểm ủng hộ thẩm quyền phương tiện bay cho rằng, quốc gia đăng tịch phương tiện bay có thẩm quyền tài phán đối với phương tiện bay nước mình, dù nó đang ở đâu. Còn quan điểm ủng hộ thẩm quyền lãnh thổ khẳng định thẩm quyền tuyệt đối của mỗi quốc gia, xuất phát từ chủ quyền lãnh thổ áp dụng cho phương tiện bay đang hoạt động, không tính đến yếu tố quốc tịch của phương tiện bay. Khoa học Luật hàng không quốc tế tán thành quan điểm thẩm quyền tài phán hỗn hợp, được sử dụng tương đối rộng rãi trong thực tiễn hoạt động hàng không dân dụng quốc tế. Theo thẩm quyền tài phán hỗn hợp, quốc gia có thẩm quyền đối với phương tiện bay mang quốc tịch nước mình, dù phương tiện bay đang hoạt động trong phạm vi chủ quyền của quốc gia khác, nhưng chỉ trong mức độ, phạm vi mà luật pháp của nước này không có quy định khác.
Tất cả các phương tiện bay được sử dụng trong hàng không dân dụng quốc tế, phải có đầy đủ các loại giấy tờ hàng không cần thiết sau đây theo yêu cầu của Công ước Chicagô 1944:
– Chứng chỉ đăng ký phương tiên bay và chứng chỉ này phải phù hợp với các quy định của phụ bản 7 Công ước Chicagô.
– Chứng chỉ kỹ thuật hàng không công nhận phương tiện bay có đầy đủ các điều kiên kỹ thuật bay. Chứng chỉ này do quốc gia đăng tịch phương tiên bay cấp dựa trên cơ sở kiểm tra tình trạng kỹ thuật của phương tiện bay theo định kỳ được quy định.
– Nhật ký hàng không ghi nhận thông tin cần thiết về phương tiện bay và chuyến bay, phi hành đoàn trong toàn bộ hành trình hàng không.
– Bằng cấp chuyên môn của mỗi nhân viên thuộc phi hành đoàn hàng không.
– Giấy phép sử dụng và giấy chứng nhận các trang thiết bị thông tin vô tuyến, nếu phương tiện bay có trang thiết bị này.
– Danh sách hành khách, vận đơn hàng hoá và hành lý cùng các loại giấy tờ vận chuyển cần thiết khác nếu phương tiện bay vận chuyển hành khách, hàng hoá và hành lý.
Trong quá trình thực hiện chuyến bay, các phương tiện bay hàng không có nghĩa vụ tuân thủ nghiêm chỉnh và chấp hành nghiêm túc các quy định hàng không có liên quan của quốc gia, nơi phương tiện bầy đang hoạt động.
3. Phi hành đoàn hàng không
Phi hành đoàn hàng không bao gồm tất cả các thành viên thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được phân công theo chuyên môn trên phương tiện bay, liên quan tới việc điều khiển phương tiện bay, đảm bảo an toàn hàng không và công việc phục vụ trên phương tiện bay trong toàn bộ chuyến bay. Mỗi thành viên phi hành đoàn hàng không được pháp nhân khai thác phương tiện bay bổ nhiệm để thực hiện chuyến bay an toàn. Các thành viên phải chịu trách nhiệm về phần việc chuyên môn được phân công, và có nghĩa vụ đảm bảo an ninh, trật tự, kỷ luật tuyệt đối cho chuyến bay. Trong thành phần phi hành đoàn hàng không, người chỉ huy phương tiện bay chịu trách nhiệm chung đối với phương tiện bay, toàn bộ phi hành đoàn, hành khách và hàng hoá trong thời gian bay được quy định cụ thể trong Luật hàng không quốc tế.
Địa vị pháp lý của phi hành đoàn được quy định cụ thể trong luật quốc gia của nước đăng ký phương tiện bay. Nhiều quốc gia quy định người nước ngoài không thể tham gia vào thành phần của phi hành đoàn còn một số quốc gia do không đủ đội ngũ chuyên môn và nhân viên hàng không cần thiết, vẫn sử dụng người nước ngoài trong hoạt động hàng không dân dụng quốc gia. Luật hàng không quốc tế không có văn bản pháp lý riêng quy định địa vị pháp lý của phi hành đoàn hàng không. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của phi hành đoàn được quy định trong Điều 32 và 33 Công ước Chicagô trong phụ bản 1 của Công ước này cũng như trong Chương ni của Công ước Tôkyô 1963 về ngăn chặn các hành vi phạm pháp thực hiện trên phương tiên bay trong thời gian bay.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.