1. Vai trò của Luật Quốc gia đối với Luật Quốc tế? Cho ví dụ ?
Luật quốc gia ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển, quá trình xây dựng và thực hiện luật quốc tế.
Trong quá trình xây dựng luật quốc tế, các quốc gia luôn cố gắng tận dụng mọi cơ hội để gây ảnh hưởng đến luật quốc tế và bảo vệ lợi ích của mình một cách tốt nhất trong mối tương quan với lợi ích của quốc gia khác và lợi ích chung của công đồng quốc tế. Do đó, quá trình xây dựng luật quốc tế phải xuất phát từ lợi ích của mỗi quốc gia. Đồng thời, sự hình thành các nguyên tắc và QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các quốc gia, mà quan điểm của mỗi quốc gia trong quá trình thỏa thuận thương lượng đó phải dựa trên những nguyên tắc và quy phạm nền tảng của quốc gia mình. Chính vì thế, pháp luật quốc gia thể hiện sự định hướng đến quá trình xây dựng luật quốc tế.
VD: Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế; nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết đều bắt nguồn từ nguyên tắc Cấm chiến tranh xâm lược lần đầu tiên được ghi nhận trong Sắc lệnh Hòa bình của Liên Xô năm 1917.
Pháp luật quốc gia là đảm bảo pháp lý quan trọng để các nguyên tắc, QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Bởi nghĩa vụ của mỗi quốc gia khi tham gia quan hệ quốc tế là phải bảo đảm thực hiện luật quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình. Bằng nhiều cách khác nhau, các QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ sẽ được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật quốc gia và có hiệu lực trong phạm vi Lãnh thổ quốc gia.
VD: Luật quốc tế có Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989. Năm 1991, Việt nam đã ban hành Luật bảo vệ trẻ em nhằm pháp điển hóa các quy định của luật quốc tế vào pháp luật quốc gia.
2. Nêu khái niệm và đặc điểm của Điều ước Quốc tế ?
1. Khái niệm điều ước quốc tế
Theo Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia thì điều ước quốc tế được xác định là “một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.
Như vậy, với tư cách là nguồn cơ bản của luật quốc tế, điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những quy phạm luật quốc tế, để ấn định, thay đổi hoặc hủy bỏ những quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, điều ước quốc tế chủ yếu được trình bày dưới dạng thành văn, nhưng cũng một số điều ước quốc tế chỉ là thỏa thuận miệng – đó là các Điều ước quân tử (Thường tồn tại sau CTTG II, cam kết dựa trên danh dự, uy tín quốc gia), tuy nhiên hiện nay không còn tồn tại.
2. Đặc điểm của điều ước quốc tế
+ Chủ thể ký kết: Chủ thể của luật quốc tế.
+ Nội dung: Quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể.
+ Tồn tại chủ yếu dưới dạng văn bản. Tên gọi: Hiến chương, Hiệp định, Hiệp ước, Công ước, Nghị định thư…tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Kết cấu của ĐUQT được chia thành các chương, điều, khoản với 3 phần: Mở đầu, Nội dung chính và Điều khoản cuối cùng. Một số điều ước quốc tế có thêm phụ lục.
+ Quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế được điều chỉnh bằng các Nguyên tắc, Quy phạm pháp luật quốc tế và tuân thủ các quy phạm Jus Cogens của Luật quốc tế.
+ Điều ước quốc tế chỉ trở thành nguồn của Luật quốc tế nếu nó là điều ước đã có hiệu lực.
3. Tại sao luật quốc gia lại đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành Luật quốc tế? Đánh giá xu thế của vai trò ấy trong tương lai?
Luật quốc gia đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành luật quốc tế, vì:
Trong quá trình xây dựng luật quốc tế, các quốc gia luôn cố gắng tận dụng mọi cơ hội để gây ảnh hưởng đến luật quốc tế và bảo vệ lợi ích của mình một cách tốt nhất trong mối tương quan với lợi ích của quốc gia khác và lợi ích chung của công đồng quốc tế. Do đó, quá trình xây dựng luật quốc tế phải xuất phát từ lợi ích của mỗi quốc gia. Đồng thời, sự hình thành các nguyên tắc và QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các quốc gia, mà quan điểm của mỗi quốc gia trong quá trình thỏa thuận thương lượng đó phải dựa trên những nguyên tắc và quy phạm nền tảng của quốc gia mình. Chính vì thế, pháp luật quốc gia thể hiện sự định hướng đến quá trình xây dựng luật quốc tế.
VD: Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế; nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết đều bắt nguồn từ nguyên tắc Cấm chiến tranh xâm lược lần đầu tiên được ghi nhận trong Sắc lệnh Hòa bình của Liên Xô năm 1917.
Pháp luật quốc gia là đảm bảo pháp lý quan trọng để các nguyên tắc, QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Bởi nghĩa vụ của mỗi quốc gia khi tham gia quan hệ quốc tế là phải bảo đảm thực hiện luật quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình. Bằng nhiều cách khác nhau, các QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ sẽ được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật quốc gia và có hiệu lực trong phạm vi Lãnh thổ quốc gia.
VD: Luật quốc tế có Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989. Năm 1991, Việt nam đã ban hành Luật bảo vệ trẻ em nhằm pháp điển hóa các quy định của luật quốc tế vào pháp luật quốc gia.
Đánh giá xu thế của vai trò ấy trong tương lai
Trong tương lai, với sự phát triển không ngừng của tiến trình hội nhập quốc tế và sự tiến bộ của pháp luật quốc gia, xu thế Pháp luật quốc gia đóng vai trò quyết định trong việc hình thành pháp luật quốc tế sẽ ngày càng được củng cố. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, việc Pháp luật quốc tế bị ảnh hưởng bởi pháp luật của các quốc gia lớn mạnh, phát triển như Mỹ, Nga, Trung Quốc… sẽ ngày càng rõ rệt.
4. Công ước Viên là gì? Trình bày khái niệm, đặc điểm Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969?
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ thời kỳ cổ đại cho đến nay, điều ước quốc tế luôn giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống sinh hoạt giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Hợp tác quốc tế giữa các nước là xu thế mang tính tất yếu khách quan và công cụ pháp lý điều chỉnh có hiệu quả nhất quá trình hợp tác đó chính là điều ước quốc tế. Bài viết này sẽ tìm hiểu về Công ước Viên – một trong những điều ước quốc tế quan trọng và phổ biến nhất.
1. Công ước Viên là gì?
Công ước Viên (Vienna) là điều ước quốc tế mà các quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận ký kết với nhau về những vấn đề như điều ước quốc tế, mua bán hàng hóa quốc tế, ngoại giao, lãnh sự,… trong quá trình hợp tác phát triển của mình.
2. Công ước Viên tiếng Anh là gì?
Công ước Viên trong tiếng Anh là “Vienna conventions”.
3. Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969
3.1. Khái niệm
Sự ra đời của Công ước Viên năm 1969 và Công ước Viên năm 1986 về luật điều ước quốc tế đã đặt nền móng, cơ sở xây dựng những quy phạm pháp luật liên quan đến quá trình ký kết, gia nhập thực hiện điều ước quốc tế thống nhất trên phạm vi toàn cầu.
Công ước Viên 1969 (Luật Điều ước quốc tế) là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế bao gồm tổng thể các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế, điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau.
3.2. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh
– Đối tượng điều chỉnh: bao gồm các quan hệ phát sinh trong hoạt động của các chủ thể luật quốc tế tham gia vào quá trình ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế.
– Phạm vi điều chỉnh: chỉ điều chỉnh hoạt động ký kết điều ước quốc tế giữa các quốc gia với nhau và giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế liên chính phủ hoặc giữa các tổ chức quốc tế liên chính phủ với nhau.
3.3. Các nguyên tắc
Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quá trình ký kết điều ước quốc tế.
Một điều ước quốc tế được ký kết không trên cơ sở tự nguyện bình đẳng là hành động vi phạm pháp luật quốc tế, đi ngược lại với bản chất của điều ước quốc tế là sự thỏa thuận, thống nhất về mặt ý chí giữa các bên tham gia. Điều 52 Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế quy định: “Mọi điều ước mà việc ký kết đạt được bằng việc đe dọa hay sử dụng vũ lực trái với những nguyên tắc của pháp luật quốc tế… đều vô hiệu”.
Bên cạnh đó, việc ký kết điều ước quốc tế phải trên cơ sở bình đẳng, tức không phân biệt chế độ kinh tế giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, không phân biệt chính trị, phải bình đẳng như nhau trong đàm phán, ký kết điều ước quốc tế.
Nguyên tắc điều ước quốc tế phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Một điều ước quốc tế chỉ được coi là nguồn của luật quốc tế khi nội dung điều ước quốc tế đó không được phép đi trái với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế hiện đại. Nếu một điều ước quốc tế có nội dung vi phạm một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thì điều ước quốc tế đó đương nhiên vô hiệu. Việc không thực hiện các cam kết quốc tế đó sẽ không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế.
Nguyên tắc “Pacta sunt servanda”.
Tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nói chung và luật điều ước quốc tế nói riêng. Theo tinh thần nguyên tắc, khi một điều ước quốc tế đã được ký kết phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, việc tận tâm thực hiện các cam kết đã thỏa thuận là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên tham gia điều ước.
3.4. Chủ thể
Các quốc gia: quốc gia là chủ thể cơ bản của luật quốc tế và việc tham gia ký kết điều ước quốc tế là một hoạt động sinh hoạt quốc tế quan trọng của quốc gia. Trong những trường hợp đặc biệt, quốc gia có thể ủy quyền cho quốc gia khác hay một tổ chức quốc tế khác thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế thay mình.
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ: đây là chủ thể đặc biệt của luật quốc tế. Tổ chức quốc tế có thể ký kết các điều ước quốc tế với các quốc gia, kể cả với quốc gia trong và ngoài thành viên tổ chức đó.
Các thực thể khác của luật quốc tế: dù Công ước Viên năm 1969 và Công ước Viên năm 1986 về luật điều ước quốc tế không đề cập các thực thể như các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền tự quyết dân tộc, các vùng lãnh thổ như Hồng Kông, Ma Cao, Tòa thánh Vantican,… nhưng thực tế, các thực thể này cũng tham gia rộng rãi và tích cực vào nhiều mặt của đời sống quốc tế, kể cả ký kết các điều ước.
3.5. Các chế định pháp lý cơ bản
Chế định ký kết điều ước quốc tế
– Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế:
Theo Điều 6 Công ước Viên năm 1969: “Mọi quốc gia đều có tư cách để ký kết các điều ước”. Chính vì vậy, không ai có thể phủ nhận hay tước bỏ quyền này của quốc gia trong sinh hoạt quốc tế. Vấn đề đặt ra là ai sẽ là người đại diện quốc gia để tham gia đàm phán, ký kết điều ước quốc tế. Theo Điều 7 Công ước Viên 1969 thì:
“Một người được coi là đại diện cho một quốc gia để thông qua hoặc để xác thực văn bản của một điều ước hay để tỏ sự đồng ý của quốc gia chịu sự ràng buộc của điều ước:
+ Nếu người đó xuất trình thư ủy quyền thích hợp; hoặc
+ Nếu chiểu theo thực tiễn của các quốc gia hữu quan hoặc theo những hoàn cảnh khác, những quốc gia này có ý định coi người đó là đại diện của quốc gia mình nhằm đạt được những mục đích nêu trên và không đòi hỏi phải xuất trình thư ủy quyền.”
Những cá nhân được xem là đại diện đương nhiên của quốc gia và không cần thư ủy nhiệm bao gồm:
+ Các Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao;
+ Các Trường đoàn ngoại giao trong việc thông qua văn bản của một điều ước giữa quốc gia cử và quốc gia nhận đại diện;
+ Những đại diện của các quốc gia được ủy quyền tại một hội nghị quốc tế hoặc tại một tổ chức quốc tế hoặc tại một cơ quan của tổ chức này trong việc thông qua văn bản của một điều ước quốc tế trong khuôn khổ hội nghị hay tổ chức đó.
– Trình tự, thủ tục ký kết:
+ Đàm phán: Theo cách giải thích thuật ngữ được sử dụng tại Điểm e Khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1969 thì đàm phán có thể thực hiện bằng 2 cách: cách 1 là các bên tham gia cùng nhau đàm phán, trực tiếp xây dựng văn bản điều ước quốc tế; cách 2 là các bên tiến hành đàm phán trên cơ sở dự thảo văn bản điều ước do các bên hay một bên soạn thảo.
+ Soạn thảo: trên cơ sở những vấn đề đã được các bên nhất trí, văn bản điều ước quốc tế sẽ được soạn thảo chính thức để các bên thông qua.
+ Thông qua văn bản: đây là thủ tục bắt buộc nằm trong quy trình ký kết điều ước quốc tế. Theo Công ước, văn bản của một điều ước được coi là xác thực và không thay đổi khi: theo thủ tục được quy định trong văn bản đó hoặc được các quốc gia tham gia soạn thảo điều ước đồng ý; nếu không có các thủ tục như thế thì bằng việc đại diện của các quốc gia đó ký, ký “ad referendum” hoặc ký tắt vào văn bản điều ước.
Chế định bảo lưu điều ước quốc tế
– Khái niệm: Bảo lưu dùng để chỉ một tuyên bố đơn phương, bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi ký kết, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập một điều ước, nhằm qua đó loại bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực pháp lý của một số quy định của điều ước trong việc áp dụng đối với quốc gia đó.
– Điều kiện: Khi ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập một điều ước, một quốc gia có thể đề ra một bảo lưu, trừ khi:
+ Điều ước đó ngăn cấm việc bảo lưu;
+ Điều ước đó quy định rằng chỉ có thể có những bảo lưu cụ thể, trong số đó không có bảo lưu đã đề cập nói trên;
+ Bảo lưu không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước, ngoài những trường hợp ghi ở 2 Điểm trên
– Thủ tục:
+ Trường hợp điều ước quốc tế quy định rõ điều Khoản nào được bảo lưu thì việc bảo lưu đối với điều Khoản đó không cần sự đồng ý rõ ràng và riêng biệt từ phía các quốc gia ký kết khác. Khi đó, quốc gia sẽ chỉ tuyên bố bảo lưu trong phạm vi mà điều ước cho phép.
+ Trường hợp điều ước quốc tế không có điều Khoản quy định liên quan đến bảo lưu thì việc bảo lưu phải được tất cả các quốc gia thành viên chấp nhận nếu số quốc gia đàm phán có hạn hoặc việc thi hành toàn bộ điều ước là điều kiện dẫn tới sự chấp nhận ràng buộc của các bên đối với điều ước.
+ Một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp nhận nếu quốc gia đó không phản đối trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu; nếu điều ước quốc tế là văn kiện về thành lập tổ chức quốc tế thì bảo lưu phải được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức đó.
– Hệ quả pháp lý của bảo lưu và phản đối bảo lưu:
+ Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia chấp nhận bảo lưu được điều chỉnh bởi các quy định của điều ước quốc tế, trừ các điều Khoản liên quan đến bảo lưu.
+ Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu vẫn được điều chỉnh bằng điều ước quốc tế, loại trừ các điều Khoản bảo lưu không được chấp nhận.
Chế định hiệu lực của điều ước quốc tế:
– Hiệu lực về thời gian
+ Đối với các điều ước song phương: thời điểm điều ước có hiệu lực có thể là thời điểm các bên tiến hành ký đầy đủ hoặc tiến hành trao đổi thư phê chuẩn hoặc phê duyệt.
+ Đối với các điều ước đa phương: thời điểm có hiệu lực khi các điều kiện về hiệu lực được ghi nhận trong điều ước quốc tế cụ thể được thỏa mãn.
– Hiệu lực về không gian
+ Về nguyên tắc, điều ước quốc tế có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của các quốc gia thành viên điều ước.
– Hiệu lực đối với bên thứ ba
+ Một điều ước không tạo ra nghĩa vụ hay quyền hạn cho một quốc gia thứ ba, nếu không có sự đồng ý của quốc gia đó.
5. Phê chuẩn Điều ước quốc tế là gì? Trình tự kí kết Điều ước quốc tế?
1. Quy định chung về phê chuẩn điều ước quốc tế
Thực tiễn quốc tế cho thấy những điều ước thuộc các lĩnh vực hòa bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ… là những điều ước quan trọng và thường được các bên kí kết thoả thuận áp dụng thủ tục phê chuẩn. Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế do pháp luật quốc gia quy định có thể là do nguyên thủ quốc gia (tổng thống, vua, chủ tịch nước…), quốc hội hoặc nghị viện…
Thông thường, đối với điều ước quốc tế song phương, sau khi phê chuẩn các bên sẽ tiến hành trao đổi thư phê chuẩn. Đối với điều ước quốc tế đa phương, sau khi phê chuẩn phù hợp với quy định của chính điều ước đó, các thư phê chuẩn sẽ được chuyển tới cho quốc gia hoặc tổ chức quốc tế có trách nhiệm lưu chiểu điều ước quốc tế.
Theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, những điều ước quốc tế sau đây phải được phê chuẩn:
1) Điều ước quốc tế có quy định về việc phê chuẩn;
2) Điều ước quốc tế được kí nhân danh nhà nước;
3) Điều ước quốc tế được kí nhân danh chính phủ có quy định trái với quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc có quy định liên quan đến ngân sách nhà nước (Điều 31).
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (khoản 9 Điều 103), Chủ tịch nước phê chuẩn điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội phê chuẩn, Trong trường hợp Chủ tịch nước không tự mình mà trình Quốc hội quyết định, thì Quốc hội quyết định việc phê chuẩn (khoản 13 Điều 84). Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế được quy định cụ thể tại Điều 32 Luật kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, theo đó:
1) Quốc hội quyết định phê chuẩn điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kí với người đứng đầu nhà nước khác hoặc các điều ước quốc tế khác theo đề nghị của Chủ tịch nước;
2) Chủ tịch nước quyết định phê chuẩn các điều ước quốc tế cần phải được phê chuẩn, trừ các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội.
Quyết định phê chuẩn điều ước quốc tế phải thể hiện những nội dung sau:
1) Ghi rõ tên điều ước quốc tế, thời gian, địa điểm kí;
2) Nội dung bảo lưu, chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên kí kết nước ngoài, tuyên bố đối với điều ước quốc tế nhiều bên và những vấn đề khác;
3) Quyết định việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế, quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội để thực hiện điều ước quốc tế; 4) Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc hoàn thành thủ tục phê chuẩn và thực hiện điều ước quốc tế.
Đồng thời, theo quy định của Luật kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, còn có hình thức phê duyệt điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
2. Trình tự ký kết điều ước quốc tế
2.1 Đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước
Đàm phán là quá trình thỏa thuận, thương lượng để tiến tới xác định quyền và nghĩa vụ của các bên ghi nhận trong nội dung của văn bản điều ước. Có thể tiến hành đàm phán theo các cách thức như đàm phán trên cơ sở của dự thảo văn bản điều ước đã chuẩn bị trước của mỗi bên hay một bên hoặc cùng đàm phán để trực tiếp xây dựng văn bản điều ước.
Nếu đàm phán thành công, văn bản dự thảo điều ước sẽ được soạn thảo chính thức để các bên thông qua. Việc soạn thảo văn bản điều ước sẽ do một cơ quan có thẩm quyền được các bên lập ra (hoặc thừa nhận) tiến hành hoặc do một cơ quan bao gồm đại diện của các bên tiến hành.
Thông qua văn bản điều ước là thủ tục không thể thiếu. Thực tiễn ký kết điều ước quốc tế cho thấy, có nhiều cách để thông qua văn bản điều ước, như biểu quyết, thoả thuận miệng. Văn bản đã được các bên nhất trí thông qua là văn bản cuối cùng, các chủ thể kết ước không được đơn phương sửa đổi, chỉnh lý hoặc bổ sung mới.
2.2 Ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế
Bản chất của các bước ký, phê duyệt, phê chuẩn hay gia nhập điều ước là hành vi nhằm thực hiện sự ràng buộc quốc gia với điều ước quốc tế và có giá trị tạo ra hiệu lực thi hành của điều ước đó.
+ Các hình thức ký điều, ước quốc tế
Có ba hình thức ký điều ước như sau:
– Ký tắt: Ký của các vị đại diện của các bên tham gia đàm phán xây dựng văn bản điều ước nhằm xác nhận văn bản dự thảo điều ước. Ký tắt chưa làm điều ước phát sinh hiệu lực
– Ký ad referendum: Ký của vị đại diện với điều kiện có sự đồng ý tiếp sau đó của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật quốc gia. Hình thức ký này có thể làm phát sinh hiệu lực cho điều ước nếu các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia tỏ rõ sự chấp thuận sau khi ký ad referendum.
– Ký đầy đủ (ký chính thức): Ký của vị đại diện của các bên vào văn bản dự thảo điều ước. Sau khi ký đầy đủ điều ước có thể phát sinh hiệu lực.
Trong các hình thức ký nên trên, ký đầy đủ là hình thức ký phổ biến nhất và được áp dụng cho cả điều ước song phương và điều ước quốc tế đa phương. Tuy nhiên, hành vi ký đã thể hiện rõ ý định của quốc gia ký trong việc ràng buộc với điều ước quốc tế sau này nên trong thời gian điều ước chưa có hiệu lực, quốc gia đó không được có những hành vi có thể làm ảnh hưởng đến mục đích và đối tượng của điều ước quốc tế.
Các điều ước quốc tế đa phương có thể có quy định về thời điểm mở ra để ký không giống nhau. Sau thời điểm này, quốc gia chỉ có thể trở thành thành viên của điều ước đó bằng cách gia nhập (Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948). Một số điều ước đa phương về nhân quyền lại thường không ấn định thời điểm này.
+ Phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế
Phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế là những hành vi pháp lý của một chủ thể luật quốc tế, theo đó chủ thể này xác nhận sự đồng ý ràng buộc với một điều ước quốc tế nhất định. Việc có áp dụng hình thức phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế hay không được ghi nhận rõ ràng trong điều ước. Một số loại điều ước đa phương toàn cầu, đa phương khu vực, các điều ước về các vấn đề biên giới, lãnh thổ, tương trợ tư pháp… thường quy định thủ tục phê chuẩn hoặc phê duyệt. Công ước Viên năm 1969 có quy định các trường hợp điều ước áp dụng hình thức phê chuẩn thể để thể hiện sự đồng ý ràng buộc đối với điều ước quốc tế của một quốc gia.
Quy định về việc phải phê chuẩn cho phép các quốc gia có thời gian và cơ hội để xem xét hoặc kiểm tra lại việc ký kết của những đại diện của quốc gia mình và ban hành những văn bản pháp luật cần thiết cho việc thực thi điều ước quốc tế đó ở trong nước. Đồng thời, hoạt động phê chuẩn cũng thể hiện vai trò của các cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động ký kết, gia nhập điều ước quốc tế của nhà nước đó.
Bản chất của việc một quốc gia đồng ý chịu sự ràng buộc với một điều ước quốc tế được biểu thị bằng việc phê duyệt cũng tương tự như hành vi phê chuẩn.
Gia nhập điều ước quốc tế là hành động của một chủ thể luật quốc tế đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước quốc tế đa phương đối với chủ thể đó. Việc gia nhập thường được đặt ra đối với quốc gia khi thời hạn ký kết điều ước đã chấm dứt hoặc điều ước đã có hiệu lực mà quốc gia đỏ chưa phải là thành viên. Thủ tục gia nhập được quy định cụ thể trong phần cuối cùng của điều ước đó. Giống như phê chuẩn hoặc phê duyệt, gia nhập thường được thực hiện thông qua việc gửi văn kiện gia nhập đến quốc gia hoặc cơ quan của tổ chức quốc tế có chức năng bảo quản điều ước quốc tế đó. Ngoại trừ một số điều ước quốc tế nhất định, hầu hết các điều ước đa phương phổ cập đều cho phép các quốc gia gia nhập, ví dụ, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự… đều quy định về việc cho phép các quốc gia gia nhập.
Trừ khi điều ước có quy định khác, thời điểm xác nhận sự đồng ý ràng buộc đối với điều ước quốc tế bằng hình thức phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập có thể được tính khi các bên ký kết trao đổi các văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập; khi quốc gia ký kết nộp lưu chiểu các văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập tại cơ quan lưu chiểu và khi thông báo những văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập cho các quốc gia kết ước hoặc cho cơ quan lưu chiểu.
6. Thế nào là luật Quốc tế, trình bày đặc trưng của quá trình hình thành luật quốc tế?
Thế nào là Luật Quốc tế
Khái niệm: Luật quốc tế hiện đại hay còn gọi là công pháp quốc tế là tổng thể những nguyên tắc, những quy phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp lí quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên và chủ yếu giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ thế giới.
Đặc điểm: từ khái niệm nêu trên, luật quốc tế có những đặc điểm cơ bản như sau:
Đối tượng điều chỉnh : nếu như luật trong nước điều chỉnh về quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và quan hệ có yếu tố nước ngoài thì luật quốc tế chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống quốc tế như quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, môi trường…giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau mà chủ yếu là những quan hệ chính trị. Tuy nhiên không phải tất cả quan hệ quốc tế đều là đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế
(VD: quan hệ quốc tế theo con đường các tổ chức chính trị –xã hội…không do luật quốc tế chính trị điều chỉnh)
Trình tự xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế: trong hệ thống quốc tế dựa trên nguyên tắc cơ bản bình đẳng về chủ quyền các quốc gia nên không có cơ quan làm luật. Con đường duy nhất để hình thành các quy phạm pháp luật quốc tế đó là sự thỏa thuận giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau dưới hình thức ký kết các điều ước quốc tế (quy phạm thành văn); cùng nhau thừa nhận những tập quán quốc tế trong quan hệ giữa họ (quy phạm bất thành văn). Đây là đặc trưng quan trọng nhất.
Chủ thể của luật quốc tế:
Các quốc gia có chủ quyền: Chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực đối nội là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình, quyền làm luật, quyền giám sát việc thi hành pháp luật, quyền xét xử những hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia.
Trong lĩnh vực đối ngoại đó là quyền độc lập trong hệ thống quốc tế, tự do quan hệ không lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào, hai mối quan hệ này có quan hệ mật thiết với nhau, chỉ vì khi quốc gia có quyền tối cao trong quan hệ đối ngoại thì mới có quyết định trong quan hệ đối ngoại. Quốc gia là chủ thể đặc biệt khi tham gia vào hoạt động tư pháp quốc tế, được miễn trừ về tư pháp quốc tế: quyền miễn trừ về xét xử, quyền miễn trừ về tài sản, quyền miễn trừ về thi hành án.
Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập được xem là quốc gia đang hình thành, đứng lên đấu tranh giành độc lập, thành lập quốc gia có chủ quyền, có quyền tham gia đại diện ký kết các điều ước quốc tế với các quốc gia khác, tự do không bị lệ thuộc vào bất cứ quốc gia nào.
Các tổ chức quốc liên chính phủ ( liên quốc gia) là tổ chức thành lập trên sự liên kết giữa các quốc gia, và hoạt động dưới sự thỏa thuận giữa các quốc gia (VD: LHQ, Asean, EU…).
Tổ chức phi chính phủ được thành lập dưới sự thỏa thuận giữa các thể nhân với pháp nhân thì không được coi là chủ thể của luật quốc tế, không được thừa nhận của luật quốc tế (VD: Hội luật gia thế giới, Hội Liên hiệp phụ nữ thế giới…)
Tư cách chủ thể của tòa thánh Vatican: tòa thánh Vatican không phải là một quốc gia, tư cách chủ thể của Vatican không được đặt ra.
Biện pháp bảo đảm thi hành luật quốc tế khi xây dựng các điều ước quốc tế: Các bên thường thỏa thuận các biện pháp cưỡng chế để áp dụng cho các quốc gia vi phạm. Đó là những quan hệ mà tự các chủ thể thỏa thuận xây dựng các biện pháp nhất định vì lợi ích của chính họ. Các chủ thể bị hại được quyền sử dụng một số biện pháp nhất định cho quốc gia gây hại. Biện pháp cưỡng chế được thể hiện dưới hai hình thức:
Cưỡng chế cá thể : trên bình diện quốc tế không có cơ quan cưỡng chế tập trung thường trực, những biện pháp do chính chủ thể của luật quốc tế thực hiện dưới hình thức cá thể, riêng lẻ tức là chủ thể bị hại được quyền sử dụng những biện pháp cưỡng chế trả đũa hay biện pháp tự vệ đối với chủ thể gây hại cho mình (rút đại sứ về nước, cắt đứt quan hệ ngoại giao, bao vây kinh tế, giáng trả…)
Biện pháp cưỡng chế tập thể tức là quốc gia bị hại có quyền liên minh các quốc gia trên cơ sở các cam kết phù hợp để chống lại quốc gia gây hại cho mình.LHQ giao cho HĐBA LHQ có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình và an ninh của các quốc gia trong khuôn khổ tuân thủ hiến chương LHQ, có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế và trừng phạt kể cả dùng vũ lực chống lại các quốc gia vi phạm.
Ngoài ra vấn đề dư luận tiến bộ trên thế giới và sự đấu tranh của nhân dân các nước cũng là biện pháp để cho pháp luật quốc tế phải tuân theo.
7. Trong Luật ký kết điều ước 2005 có mấy loại điều ước. Điều ước nào cần có sự phê chuẩn?
Theo Điều 7 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 có 03 loại điều ước quốc tế như sau:
1. Điều ước quốc tế hai bên hoặc nhiều bên mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập bao gồm:
a) Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước;
b) Điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ.
2. Điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước trong các trường hợp sau đây:
a) Điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu Nhà nước khác;
b) Điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia;
c) Điều ước quốc tế về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về tương trợ tư pháp;
d) Điều ước quốc tế về tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức quốc tế khu vực quan trọng;
đ) Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.
3. Điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Chính phủ trong các trường hợp sau đây:
a) Để thực hiện điều ước quốc tế đã được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước;
b) Điều ước quốc tế về các lĩnh vực, trừ các trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này;
c) Điều ước quốc tế về các tổ chức quốc tế, trừ trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này;
d) Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Chính phủ theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.
Theo Điều 31 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005, những điều ước quốc tế sau đây phải được phê chuẩn:
1. Điều ước quốc tế có quy định phải phê chuẩn;
2. Điều ước quốc tế được ký nhân danh Nhà nước;
3. Điều ước quốc tế được ký nhân danh Chính phủ có quy định trái với quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc có quy định liên quan đến ngân sách nhà nước.
8. Trình bày nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
1. Sự hình thành nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
– Xuất hiện trong thời kỳ cách mạng tư sản, với “mầm mống” là quy định trong bản Hiến pháp của Nhà nước tư sản Pháp, đó là “nước Pháp không can thiệp vào các công việc nội bộ của quốc gia khác và không cam chịu để các quốc gia khác can thiệp vào công việc nội bộ của mình”. Tuy nhiên, những quy định liên quan đến vấn đề này thời kỳ đó còn rất nhiều hạn chế, chưa được thừa nhận rộng rãi là nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế.
– Khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, Hiến chương của tổ chức này đã cụ thể hóa nội dung của nguyên tắc tại khoản 7 điều 2, ” Tổ chức Liên hợp quốc không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kì quốc gia nào” . Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc của quốc gia khác cũng đồng thời nghĩa vụ này cũng được đặt ra cho tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế.
– Dưới tác động mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Nghị quyết về nguyên tắc “không can thiệp vào công việc nội bộ” được thông qua năm 1965 với việc “tuyên bố cấm can thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia”. Đến nay, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng khác như: Tuyên bố của liên hợp quốc về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa năm 1960, Tuyến bố cuối cùng của hội nghị các nước Á Phi năm 1955 tại Băng-đung, Định ước Henxinki năm 1975, Hiệp ước Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, Hiệp định Pari năm 1973 về lập lại hòa bình tại Việt nam…
2. Nội dung nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
- Về khái niệm “công việc nội bộ” của mỗi quốc gia:
Công việc nội bộ của mỗi quốc gia được hiểu là công việc nằm trong thẩm quyền giải quyết của mỗi quốc gia độc lập xuất phát từ chủ quyền của mình, đó là quyền tối thượng của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình (như: quyền tự do lựa chọn, tự do xây dựng và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội phù hợp với nguyện vọng của nhân dân; quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp…) và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế (như: quyền độc lập thiết lập mối quan hệ với bất kỳ quốc gia nào, quyền tự do tham gia vào các tổ chức quốc tế khu vực và phổ cập…).
Từ những quy định của các văn kiện pháp lý quốc tế có thể thấy công việc thuộc thẩm quyền nội bộ của quốc gia là các phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà nước dựa trên cơ sở của chủ quyền quốc gia, bao gồm toàn bộ những hoạt động mang tính chất đối nội, đối ngoại của quốc gia và được tiến hành phù hợp với luật quốc gia cũng như luật quốc tế, chẳng hạn các công việc như:
– Việc lựa chọn và tiến hành đường lối chính trị và các chính sách kinh tế- văn hóa- xã hội để phát triển đất nước;
-Việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của nhà nước và thiết lập quan hệ hợp tác với các chủ thể của luật quốc tế;
-Việc xây dựng và duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước;
-Việc quản lý điều hành hoạt động của xã hội tuân theo quy định của pháp luật quốc gia.
- Thế nào là can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác?
Việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác được thực hiện theo 2 cách là can thiệp trực tiếp và can thiệp gián tiếp.
– Can thiệp trực tiếp là việc một (hoặc một nhóm) quốc gia dùng áp lực quân sự, chính trị, kinh tế…và các biện pháp khác nhằm khống chế quốc gia khác trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền nhằm ép buộc quốc gia đó phụ thuộc vào mình.
– Can thiệp gián tiếp là các biện pháp quân sự, kinh tế…do quốc gia tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm vào mục đích lật đổ chính quyền hợp pháp của quốc gia khác hoặc gây mất ổn định cho tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước này.
Ví dụ: hành vi giúp đỡ tài chính, cung cấp vũ khí, huấn luyện đào tạo các băng đảng vũ trang nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác.
- Nội dung của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:
Nguyên tắc này không cho phép bất kỳ quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù văn minh hay lạc hậu được quyền can thiệp vào các lĩnh vực thuộc thẩm quyền riêng biệt của mỗi quốc gia, xuất phát từ chủ quyền của mình. Cụ thể:
– Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, văn hóa-xã hội của quốc gia;
– Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc vào mình;
– Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác;
– Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ của quốc gia khác;
– Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội không có sự can thiệp từ phía các quốc gia khác.
Về nguyên tắc, luật quốc tế không điều chỉnh các vấn đề thuộc nội bộ quốc gia. Do đó, bất kỳ biện pháp nào mà các quốc gia hay tổ chức quốc tế sử dụng để cản trở chủ thể của luật quốc tế giải quyết những công việc thuộc thẩm quyền nội bộ của mình đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, cũng có một ngoại lệ của nguyên tắc này là theo quy định của Hiến chương, Liên hợp quốc cũng có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong trường hợp có đe dọa hòa bình hoặc hành động xâm lược. Như vậy, nếu Hội đồng bảo an Liên hợp quốc xác định một sự biến nào đó xảy ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế thì sự biến đó không còn thuần túy là công việc nội bộ của quốc gia đó nữa và hành động của Liên hợp quốc trong trường hợp này không được coi là biện pháp can thiệp vào công việc riêng, công việc nội bộ của quốc gia.
3. Ngoại lệ của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
Hiện nay, do quá trình toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ nên ranh giới giữa công việc nội bộ thuộc thẩm quyền mỗi quốc gia và công việc có sự tham gia của cộng đồng quốc tế trong nhiều trường hợp không độc lập hoàn toàn với nhau mà có sự đan xen nhất định (Ví dụ: vấn đề nhân quyền, nhân đạo, môi trường…). Về nguyên tắc, Luật quốc tế không điều chỉnh những vấn đề thuộc thẩm quyền nội bộ của mỗi quốc gia. Do đó, mọi biện pháp được sử dụng nhằm cản trở việc thực hiện công việc nội bộ của quốc gia đều bị coi là vi phạm Luật quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế, các chủ thể Luật quốc tế lại thừa nhận việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác trong các trường hợp sau:
+ Khi có xung đột vũ trang xảy ra trong nội bộ của quốc gia: về nguyên tắc, vì cộng đồng quốc tế sẽ không có quyền can thiệp. Tuy nhiên, nếu cuộc xung đột này đạt đến mức độ nghiêm trọng, và có thể gây ra mất ổn định trong khu vực, đe dọa hoà bình và an ninh quốc tế, thì cộng đồng quốc tế – thông qua Hội đồng bảo an Liên hợp quốc – được quyền can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào cuộc xung đột hành động này không bị coi là vi phạm nội dung của nguyên tắc “không can này thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác”.
+ Khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh quốc tế.
Ví dụ: Nam Phi cũ: việc thiết lập chủ nghĩa phân biệt – Đây là công việc nội bộ của Nam Phi. Tuy nhiên, việc phân biệt chủng tộc Apacthai là tội ác diệt chủng vô cùng dã man, vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế về quyền con người. Các tổ chức quốc tế đã lên tiếng và áp dụng các biện pháp cần thiết để “can thiệp” phù hợp và ngăn cản chính sách này của Nam Phi và phải có sự thỏa thuận của các bên liên quan.
9. Hiệu lực của Điều ước quốc tế?
1. Hiệu lực của điều ước quốc tế theo không gian và thời gian
Khi một điều ước quốc tế phát sinh hiệu lực sẽ ràng buộc các bên kết ước trong toàn lãnh thổ (không gian) thuộc phạm vi điều chỉnh của điều ước đó, trừ khi có các quy định khác.
Thực tế, có những điều ước có hiệu lực trên toàn bộ lãnh thổ của các quốc gia thành viên (kể cả những phần lãnh thổ mà quốc gia thành viên chịu trách nhiệm về mặt đối ngoại). Nhưng cũng sẽ có một số điều ước có các điều khoản loại trừ hoặc hạn chế việc áp dụng đối với những bộ phận lãnh thổ nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện điều ước, quốc gia thành viên vẫn có thể thông báo rút lại việc không áp dụng về mặt lãnh thổ (ví dụ: Tuyên bố của Đan Mạch năm 1987 về việc áp dụng Công ước vận chuyển hàng hóa quốc tế cho quần đảo Faroe) hoặc tuyên bố mở rộng phạm vi áp dụng về mặt lãnh thổ (ví dụ, thông báo của Hà Lan năm 1986 về việc áp dụng Công ước về quy tắc ứng xử liên quan đến vận tải bằng đường biển cho Aruba thuộc Hà Lan).
Về thời gian, đa số các điều ước quốc tế điều chỉnh các quan hệ hợp tác về thương mại, hàng hải, du lịch, các điều ước về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, về tránh đánh thuế hai lần… đều xác lập một cách rõ ràng, chính xác thời điểm bắt đầu có hiệu lực và thời điểm kết thúc hiệu lực của điều ước đó. Thời điểm có hiệu lực của điều ước thường là ngày mà các điều kiện cụ thể được trù liệu trong điều ước quốc tế đó đã được thoả mãn. Ví dụ, khi đã có đủ số lượng nhất định các quốc gia chấp nhận sự ràng buộc của điều ước; sau khoảng thời gian nhất định kể từ khi có đủ số lượng các quốc gia chấp nhận sự ràng buộc của điều ước.
Trong thực tiễn, có không ít các điều ước quốc tế chỉ xác định thời điểm bắt đầu có hiệu lực mà không quy định thời điểm kết thúc hiệu lực. Những điều ước này thường được gọi là điều ước vô thời hạn. Ví dụ, Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật biển năm 1982…
2. Hiệu lực của điều ước quốc tế và quốc gia thứ ba
Luật điều ước quốc tế quy định một điều ước quốc tế không tạo ra nghĩa vụ hay quyền hạn nào cho một quốc gia thứ ba, tức quốc gia không phải là thành viên của điều ước, trừ khi có sự đồng ý của quốc gia đó (Điều 34 Công ước Viên năm 1969).
Luật quốc tế nói chung và điều ước quốc tế nói riêng được hình thành trên cơ sở của sự thoả thuận. Vì vậy, nếu một chủ thể luật quốc tế không tham gia vào quá trình thỏa thuận này thì về nguyên tắc, họ cũng không chịu sự ràng buộc của những điều ước quốc tế đó nhưng nếu quốc gia thứ ba không phản đối những quyền phát sinh từ một điều ước thì họ cũng phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng. Riêng đối với các nghĩa vụ, quốc gia thứ ba nếu chấp thuận phải thể hiện rõ ràng bằng văn bản và nghĩa vụ này chỉ có thể bị hủy bỏ hoặc sửa đổi khi có sự đồng ý của các thành viên điều ước và của quốc gia thứ ba. Điều ước có thể phát sinh hiệu lực với quốc gia thứ ba trong một số trường hợp sau đây:
– Điều ước có điều khoản tối huệ quốc.
– Điều ước tạo ra các hoàn cảnh khách quan. Đây là những điều ước mà quốc gia thứ ba phải tôn trọng và tính đến trong quan hệ của họ với những quốc gia liên quan, như điều ước liên quan đến giao thông trên các sông quốc tế (sông Ranh, sông Đanuyp…) kênh đào quốc tế (kênh đào Panama, kênh đào Suez) và eo biển quốc tế (eo biển Gibranta, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ), điều ước về phân định biên giới.
– Điều ước được quốc gia thứ ba viện dẫn áp dụng với tính chất của tập quán quốc tế.
3. Tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan tới hiệu lực của điều ước
Hiệu lực thi hành một điều ước quốc tế có thể chịu sự tác động khác nhau của các yếu tố khách quan, chủ quan, dẫn đến hệ quả chấm dứt vĩnh viễn hoặc tạm thời đình chỉ, cụ thể:
– Những tác động mang tính chất khách quan, dẫn đến hệ quả điều ước chấm dứt hoàn toàn, như trường hợp do đối tượng của điều ước đã bị huỷ bỏ hoặc không còn tồn tại hoặc do việc xuất hiện một quy phạm bắt buộc chung của luật quốc tế (Jus cogens). Riêng trường hợp do có sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh (Rebus sic stantibus) thì theo Điều 62 Công ước Viên năm 1969 một quốc gia có thổ viện dẫn một sự thay đổi cơ bản các điều kiện, hoàn cảnh hiện tại, so với các điều kiện, hoàn cảnh đã tồn tại vào lúc ký kết điều ước quốc tế mà các bên đã không dự kiến được để có cơ sở hay lý do chấm dứt, rút ra khỏi điều ước. Tuy nhiên, các quốc gia không thể viện dẫn sự thay đổi này để hủy bỏ hoặc đình chỉ hiệu lực của điều ước về xác lập biên giới. Ngoài ra, nếu sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh là do sự vi phạm của chính bên đã nêu ra lý do thì điều ước vẫn có hiệu lực thực hiện.
– Yếu tố chủ quan tác động đến thực hiện điều ước thường xảy ra khi có sự vi phạm cơ bản đối với một điều ước. Trường hợp này được áp dụng trên nguyên tắc có đi có lại nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi giữa các bên ký kết. Một bên ký kết có quyền viện dẫn sự vi phạm của bên ký kết khác để chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thực hiện hiệu lực của toàn bộ hay một phần điều ước đã ký kết. Trong trường hợp các bên đã thoả thuận về việc hủy bỏ hoặc tạm đình chỉ hiệu lực thi hành của điều ước thì chủ thể kết ước có quyền hành động theo thỏa thuận trong điều ước đó.
Ngoài ra, hiệu lực thi hành một phần hay toàn bộ điều ước quốc tế có thể bị tác động bởi việc thực hiện các hành vi hợp pháp của chủ thể ký kết, như hành vi bảo lưu điều ước, hành vi thực hiện quyền kế thừa của chủ thể luật quốc tế trong giải quyết các vấn đề kế thừa quốc gia, chính phủ.
10. Các yếu tố ảnh hưởng hiệu lực của điều ước quốc tế?
Về nguyên tắc, các điều ước quốc tế khi ký kết thỏa mãn những điều kiện được đặt ra sẽ có hiệu lực. Tuy nhiên, hiệu lực thi hành của một điều ước quốc tế có thể chịu sự tác động khác nhau của các yếu tố khách quan, chủ quan dẫn đến hệ quả chấm dứt vĩnh viễn hoặc tạm thời đình chỉ hiệu lực của điều ước quốc tế trong các trường hợp sau
1. Về yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế
– Do các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thi hành điều ước quốc tế.
Khi ĐƯQT vẫn còn hiệu lực nhưng các bên đã thực hiện xong các quyền và nghĩa vụ quy định trong Điều ước thì các bên có thể thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của Điều ước.
– Do điều ước quốc tế hết thời hạn. Trường hợp này xảy ra khi các bên thỏa thuận về thời hạn xác định nhằm chấm dứt hiệu lực của ĐƯQT mà không quy định hay thỏa thuận về việc gia hạn Điều ước.
– Do một bên đơn phương tuyên bố chấm dứt hiệu lực của ĐUQT: Theo Công ước Viên 1949, nếu ĐƯQT cho phép các thành viên có quyền đơn phương tuyên bố từ bỏ hiệu lực của Điều ước thì hành vi này là phù hợp. Ngược lại, nếu 1 ĐƯQT không ghi nhận quyền đơn phương chấm dứt HL thì tuyên bố này không phù hợp trừ khi tuyên bố đó được tất cả các thành viên của Điều ước đó cho phép hoặc có thể được suy ra từ bản chất của Điều ước.
Nếu hành vi đơn phương chấm dứt hiệu lực của Điều ước là hợp pháp, nó sẽ làm chấm dứt hiệu lực của ĐƯQT (đối với Điều ước song phương) hoặc chỉ làm chấm dứt tư cách thành viên ĐƯQT của QG đưa ra tuyên bố còn hiệu lực của ĐƯQT vẫn được duy trì với các QG thành viên còn lại (đối với ĐƯQT đa phương).
– Một bên ký kết có hành vi vi phạm nghiêm trọng Điều ước: Theo Điều 60 Công ước Viên 1969, hành vi vi phạm nghiêm trọng ĐƯQT của 1 bên có thể là căn cứ để bên kia chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện ĐƯQT (đối với ĐƯQT song phương); hoặc là căn cứ để các bên ký kết còn lại chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện ĐƯQT trong quan hệ giữa những QG đó với QG vi phạm hoặc trong quan hệ giữa tất cả các quốc gia thành viên (đối với ĐƯQT đa phương).
– Do các bên ký kết một điều ước quốc tế mới về cùng một vấn đề và thỏa thuận ĐƯQT mới sẽ thay thế ĐƯQT cũ. TH này, ĐƯQT cũ sẽ hoàn toàn chấm dứt HL và quan hệ giữa các bên tham gia ký kết sẽ được điều chỉnh bởi ĐƯQT được ký kết sau.
– Do có hành vi bảo lưu điều ước.
2. Về yếu tố khách quan ảnh hưởng hiệu lực của điều ước quốc tế
– Do có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh: Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh được coi là lý do để giải thoát cho các bên ký kết ĐƯQT khỏi nghĩa vụ của mình khi:
+ Các bên không thể thấy được, không thể dự liệu được về sự thay đổi này vào thời điểm ký kết.
+ Sự thay đổi phải là khách quan, không phải do con người.
+ Sự thay đổi này phải là triệt để, tức là làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi những nghĩa vụ mà các bên vẫn còn phải thi hành theo Điều ước.
Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 62 Công ước Viên 1969, không được viện dẫn sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh làm lý do chấm dứt hay rút khỏi 1 Điều ước nếu:
+ Điều ước đó liên quan đến việc thiết lập biên giới quốc gia. Vì: Thứ nhất, liên quan đến tính ổn định của biên giới lãnh thổ, việc xác định ranh giới rất khó khăn do đó biên giới quốc gia đòi hỏi tính ổn định. Thứ hai, sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh trong trường hợp này thường có lỗi của cả 2 bên, do đó không còn khách quan.
+ Sự thay đổi đó là kết quả của một sự vi phạm nguyên tắc của chính bên nêu lên đó.
– Do mất đối tượng của điều ước quốc tế. Ví dụ: Việt Nam và Mỹ ký kết Hiệp định Hòa bình paris 1973 về trao trả tù binh chiến tranh. Đến nay, đối tượng là tù binh không còn nên hiệu lực của ĐƯQT cũng chấm dứt.
– Xuất hiện quy phạm Jus cogens mới có nội dung trái với điều ước, trong trường hợp này điều ước quốc tế sẽ đương nhiên chấm dứt hiệu lực. Vì quy phạm Jus Cogens là cơ sở xác định tính hợp pháp của các QPPLQT, do đó khi xuất hiện một quy phạm Jus cogens mới thì mọi quy định hiện hữu trái với quy phạm mới đó đều trở thành vô giá trị và chấm dứt hiệu lực.
Ví dụ: Trước 1945, một số ĐƯQT cho phép sử dụng chiến tranh để giải quyết tranh chấp quốc tế. Nhưng sau 1945, nguyên tắc “Hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế” đã thay thế các quy định trước đó.
11. Đặc điểm, vai trò của các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế? Cho ví dụ?
1. Khái niệm Luật Quốc tế
Sở dĩ gọi một số nguyên tắc của Luật quốc tế là những nguyên tắc cơ bản bởi vì trong hệ thống luật quốc tế tồn tại nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ liên quốc gia ở phạm vi toàn cầu, đồng thời lại có cả những nguyên tắc điều chỉnh quan hệ giữa các nước cùng khu vực và nguyên tắc điều chỉnh quan hệ trong từng ngành luật cụ thể của hệ thống luật quốc tế.
Trong các nguyên tắc này thì hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là những nguyên tắc thể hiện tập trung nhất các quan điểm chính trị – pháp lý và cách xử sự của các quốc gia trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của đời sống quốc tế.
Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được hiểu là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi chủ thể Luật quốc tế. Trong Luật quốc tế, các nguyên tắc cơ bản tồn tại dưới dạng những quy phạm Jus cogens được ghi nhận ở điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
2. Đặc điểm của các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
- Có 4 đặc điểm sau:
– Tính mệnh lệnh chung: Biểu hiện ở điểm:
+ Tất cả các loại chủ thể đều phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế.
(VD: Hiến chương Liên hợp quốc ghi nhận nguyên tắc “tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế” là nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Theo nguyên tắc này, tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc khi tham gia quan hệ quốc tế đều có nghĩa vụ phải tuân thủ một cách triệt để, có thiện chí, không do dự các nghĩa vụ phát sinh từ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế; trừ các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc).
+ Không một chủ thể hay nhóm chủ thể nào của Luật quốc tế có quyền hủy bỏ nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế.
+ Bất kỳ hành vi đơn phương nào không tuân thủ triệt để nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế.
+ Các quy phạm điều ước và tập quán quốc tế có nội dung trái với các nguyên tắc cơ bản của LQT đều không có giá trị pháp lý.
+ Ngoài ra, đối với các lĩnh vực có các nguyên tắc chuyên biệt như: Luật Biển quốc tế, Luật hàng không dân dụng quốc tế…thì bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, các bên còn phải chấp hành các nguyên tắc chuyên biệt trong từng lĩnh vực cụ thể.
(Ví dụ: Trong luật biển quốc tế có ghi nhận một loạt các nguyên tắc chuyên ngành như: nguyên tắc tự do biển cả, nguyên tắc đất thống trị biển…các quốc gia khi tham gia các quan hệ liên quan đến biển, song song với việc thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc chuyên ngành họ cũng phải tuân thủ nghiêm chỉnh 7 nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế).
– Tính bao trùm: Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là chuẩn mực để xác định tính hợp pháp của toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế. Đồng thời chúng được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế giữa các quốc gia.
(Ví dụ: Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác được áp dụng trong hầu hết các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa-xã hội…hay nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia là nguyên tắc giữ vai trò quan trọng và có tính chất xuyên suốt quá trình hợp tác trong tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế).
– Tính hệ thống: Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Biểu hiện ở chỗ: việc tôn trọng hay phá vỡ nguyên tắc này sẽ làm ảnh hưởng đến nội dung và việc tuân thủ nguyên tắc khác.
(Ví dụ:. Nguyên tắc “bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia” là nguyên tắc nền tảng để trên cơ sở đó các chủ thể Luật quốc tế thực hiện các nguyên tắc khác như: hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau… Việc vi phạm hay tuân thủ một cách triệt để nguyên tắc này sẽ tác động rất lớn đến việc thực hiện một loạt các nguyên tắc còn lại của Luật quốc tế).
– Tính thừa nhận rộng rãi: Đặc trưng này thể hiện ở chỗ: các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được áp dụng trong phạm vi toàn thế giới, đồng thời chúng được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến Chương Liên hợp quốc, Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, Định ước Hen-xin-ki năm 1975 về an ninh và hợp tác các nước Châu Âu, Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á…
Trong các đặc điểm nêu trên, đặc điểm về tính mệnh lệnh chung là quan trọng nhất, tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế chi phối lại các nguyên tắc pháp luật chung và nguyên tắc chuyên ngành.
3. Vai trò của các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
Trong quá trình xây dựng Luật quốc tế các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế đóng góp vai trò khá quan trọng. Các nguyên tắc của Luật quốc tế là nền tảng, nguồn góp phần trong việc xây dựng và hoàn thiện Luật quốc tế.
– Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là nền tảng của quan hệ quốc tế hiện đại, Hiến chương Liên hợp quốc đã lấy nguyên tắc này làm cơ sở cho hoạt động của mình: “Liên Hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các thành viên” ( khoản 1 Điều 2). Nguyên tắc này là nền tảng quan trọng nhất của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc Luật quốc tế hiện đại, nó đã được ghi nhận trong điều lệ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc, của tuyệt đại đa số các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức khu vực, trong nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương và trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng của các hội nghị và tổ chức quốc tế. Qua đó các quy định của Luật quốc tế được xây dựng dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia vì trong quan hệ quốc tế việc xác định chủ quyền quốc gia có vai trò rất quan trọng. Việc thực hiện chủ quyền quốc gia sẽ khẳng định được vị thế của quốc gia trong hoạt động đối nội cũng như là đối ngoại. Ngoài ra, các nguyên tắc khác cũng góp phần xây dựng Luật quốc tế, cụ thể hóa qua các điều ước, tuyên bố, định ước… trong khuôn khổ Liên Hợp quốc.
– Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực được quy định tại khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên Hợp quốc. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong một loạt các văn bản quốc tế quan trọng như Tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc (được Đại hội đồng thông qua năm 1970), Định ước Henxinki năm 1975,…
– Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác xuất hiện đầu tiên trong các hiến pháp của một số nước tư sản thời kỳ cách mạng tư sản của châu Âu đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp quốc tại khoản 7 Điều 2. Nguyên tắc này đã góp phần vào điều chỉnh mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia trong tuyên bố của Liên Hợp quốc về các nguyên tắc của Luật quốc tế liên quan đến hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia năm 1970. Ngoài ra, nguyên tắc này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng như Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị các nước Á-Phi năm 1975 tại Băng-đung, Hiệp định Geneve,.. Các quy phạm Luật quốc tế do chính các chủ thể của Luật quốc tế xây dựng, không phải do một cơ quan quyền lực nào sáng tạo nên. Các quy phạm đó được xây dựng dựa trên cơ sở bình đẳng chủ quyền và trên cơ sở thỏa hiệp và nhân nhượng giữa các chủ thể của hệ thống pháp luật này. Có nghĩa là trong quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế các chủ thể phải cố gắng đạt được sự thỏa hiệp tương ứng với các quy tắc xử sự và bên cạnh đó quan hệ với nhau, các chủ thể có cùng công nhận quy tắc xử sự đó là bắt buộc (pacta sunt servanda).
Xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế hiện nay là sự hội nhập, hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi. Sự hợp tác giữa các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế đã được pháp luật hóa trong các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Ý tưởng về sự hợp tác giữa các quốc gia lần đầu tiên được thể hiện trong khoản 3 Điều 4 Hiến chương Liên Hợp quốc, rằng một trong những mục đích của tổ chức là “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, khuyến khích và phát triển dân sự tôn trọng các quyền của con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Mặc dù Hiến chương LHQ không ghi nhận nghĩa vụ các quốc gia phải hợp tác với nhau như một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhưng trong nhiều điều khoản của Hiến chương lại nhắc đến sự hợp tác giữa các quốc gia như là nguyên tắc tồn tại của cộng đồng quốc tế. Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc về các nguyên tắc của Luật quốc tế đã mở rộng nội dung pháp lý của nguyên tắc này, theo đó “các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế không phụ thuộc vào hệ thống chính trị, kinh tế và văn hóa, nhằm mục đích duy trì hoà bình, an ninh quốc tế và góp phần vào việc ổn định kinh tế thế giới, vì sự phồn vinh chung của các dân tộc và hợp tác quốc tế”.
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế này gắn liền với sự hình thành và phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và là hệ quả tất yếu của nguyên tắc này. Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả năng tiềm ẩn phát sinh từ các mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó là hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các chủ thể luật quốc tế có những quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau ” không thống nhất được về quyền và lợi ích ” xung đột, mâu thuẫn. Liên hợp quốc cùng với bản Hiến chương của mình lần đầu tiên đã nâng vấn đề giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế lên thành nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia. Khoản 3 điều 2 Hiến chương ghi nhận: “Hội viên Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng phương pháp hòa bình, làm thế nào khỏi nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế cũng như đến công lý”. Cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, với việc tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, hiện nay cộng đồng quốc tế đang dần thừa nhận vai trò cũng như tính hiệu quả của các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của các tổ chức quốc tế như: EU, Asean, Liên Hợp quốc,…
12. Phân tích tác động của Luật Quốc tế đến luật quốc gia. Cho ví dụ
Luật Quốc tế có tác động đến sự phát triển và hoàn thiện của Luật quốc gia.
Khi tham gia quan hệ quốc tế, quốc gia có nghĩa vụ phải tận tâm thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế của mình. Điều này được quốc gia thể hiện thông qua nhiều hành vi cụ thể khác nhau trong đó có hành vi sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia sao cho các quy định của pháp luật quốc gia vừa mang tính đặc thù của mỗi quốc gia vừa phù hợp với các cam kết quốc tế của quốc gia. Chính vì vậy, các quy định có nội dung tiến bộ của Luật Quốc tế thể hiện thành tựu mới của khóa học pháp lý dần dần sẽ được truyền tải vào trong các văn bản pháp luật quốc gia. Những thành tựu này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của pháp luật quốc gia, đảm bảo cho quốc gia vừa có thể hội nhập vào nền tảng pháp lý chung, vừa có thể thiết lập được một hệ thống pháp luật quốc gia hoàn chỉnh, phù hợp với yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Ở Việt Nam, vấn đề áp dụng các điều ước quốc tế được thực hiện theo quy định của pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, cụ thể là: “Trong trường hợp việc thực hiện điều ước quốc tế đòi hỏi phải bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành văn bản pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cơ quan các ngành hữu quan có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trình kiến nghị về việc bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành văn bản pháp luật đó” (khoản 6 điều 11)
Điều ước quốc tế được Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết với danh nghĩa Nhà nước, Chính phủ hoặc cấp ngành. Do vậy, khi một điều ước quốc tế được phía Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thì có nghĩa là Nhà nước, Chính phủ hoặc ngành liên quan có trách nhiệm thực hiện điều ước quốc tế đó bằng cách nội luật hóa hoặc quy chiếu trực tiếp, có nghĩa là nó sẽ nằm trong hệ thống pháp luật quốc gia, khi đó, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ xã hội được nó điều chỉnh phải tuân theo. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập quy định những vấn đề mà pháp luật trong nước chưa điều chỉnh thì nó có thể trở thành căn cứ pháp lý để ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trong nước, đặc biệt là các văn bản của bộ, ngành. Trường hợp điều ước quốc tế và luật nội địa cùng quy định về một vấn đề thì về nguyên tắc, luật nội địa phải phù hợp với điều ước quốc tế bằng cách phải sửa đổi, bổ sung hoặc dẫn chiếu áp dụng điều ước quốc tế. Như vậy, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là căn cứ cho việc ban hành văn bản. Chính vì vậy mà các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên nói riêng và pháp luật quốc tế nói chung là cơ sở, căn cứ quan trọng để chúng ta phát triển, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước.
13. Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh ảnh hưởng như thế nào đến hiệu lực thi hành của ĐƯQT trên phạm vi lãnh thổ các quốc gia
Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh được coi là lý do để giải thoát cho các bên ký kết ĐƯQT khỏi nghĩa vụ của mình khi:
+ Các bên không thể thấy được, không thể dự liệu được về sự thay đổi này vào thời điểm ký kết.
+ Sự thay đổi phải là khách quan, không phải do con người.
+ Sự thay đổi này phải là triệt để, tức là làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi những nghĩa vụ mà các bên vẫn còn phải thi hành theo Điều ước.
Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 62 Công ước Viên 1969, không được viện dẫn sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh làm lý do chấm dứt hay rút khỏi một Điều ước nếu:
+ Điều ước đó liên quan đến việc thiết lập BGQG. Vì: Thứ nhất, liên quan đến tính ổn định của biên giới lãnh thổ, việc xác định ranh giới rất khó khăn do đó BGQG đòi hỏi tính ổn định. Thứ hai, sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh trong trường hợp này thường có lỗi của cả 2 bên, do đó không còn khách quan.
+ Sự thay đổi đó là kết quả của một sự vi phạm nguyên tắc của chính bên nêu lên đó.
14. Trong những trường hợp nào thì được sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế? Điều này có trái với các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế không?
Về nguyên tắc, mọi hành vi sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực đều bị coi là bất hợp pháp trừ hai trường hợp ngoại lệ sau đây:
Trong trường hợp có hành vi xâm lược hoặc phá hoại hòa bình và an ninh quốc tế đã được Đại hội đồng Bảo an áp dụng các biện pháp phi vũ trang như cắt đứt toàn bộ hay từng phần quan hệ kinh tế, đường sắt, đường biển, hàng không,.. và các phương tiện thông tin khác, kể cả việc cắt đứt quan hệ ngoại giao nhưng HĐBA nhận thấy những biện pháp đó “… là không thích hợp, hoặc tỏ ra là không thích hợp, thì HĐBA có quyền áp dụng mọi hành động của hải, lục, không quân mà HĐBA xét thấy cần thiết cho việc duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế. Những hành động này có thể là những cuộc biểu dương lực lượng, phong tỏa và những cuộc hành quân khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của các quốc gia thành viên LHQ thực hiện” (điều 42 Hiến chương LHQ).
Trong trường hợp các quốc gia bị xâm lược vũ trang, Hiến chương LHQ quy định: “không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng trong trường hợp thành viên LHQ bị tấn công vũ trang cho đến khi HĐBA chưa áp dụng được các biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp mà các thành viên LHQ áp dụng trong việc bảo vệ quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho HĐBA và không được gây ảnh hưởng gì đến quyền hạn và trách nhiệm của HĐBA, chiếu theo hiến chương này, đối với việc HĐBA áp dụng bất kỳ lúc nào những hành động mà Hội đồng thấy cần thiết để duy trì và khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế” (điều 51 Hiến chương LHQ).
Như vậy, khi bị xâm lược vũ trang, các quốc gia, các dân tộc có quyền tự vệ cá thể hoặc tập thể cho đến khi HĐBA áp dụng các biện pháp hữu hiệu để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế và phải báo ngay cho HĐBA.
Đồng thời không được cản trở HĐBA hành động để thực hiện sứ mệnh bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế của mình. Về phương diện pháp lý, hành vi tự vệ của các quốc gia, các dân tộc dưới hình thức cá thể và tập thể là những hành vi hợp pháp, không vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Mức độ chống trả phải tương xứng với mức độ thiệt hại mà bên kia đã gây ra và phải báo với HĐBA.
15. So sánh Tập quán quốc tế và Điều ước quốc tế trong việc giải quyết xung đột quốc tế?
So với TQQT thì ĐUQT có những điều kiện thuận lợi, có nhiều ưu thế hơn, vì vậy khi có sự xung đột pháp luật giữa ĐUQT và TQQT nếu như các chủ thể của Luật quốc tế không có sự thoả thuận áp dụng ĐUQT hay TQQT thì hầu như các chủ thể của Luật quốc tế đều chọn ĐUQT làm cơ sở pháp lý để giải quyết, vì:
– Quá trình lập pháp của ĐUQT nhanh, chính xác dựa trên cơ sở sự thoả thuận của các quốc gia quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên tham gia và phải thoả mãn được các điều kiện được quy định trong việc lập pháp ĐUQT.
– Về hình thức thì ĐUQT tồn tại dưới hình thức bằng văn bản, quy định cụ thể, rõ ràng rất dễ cho các bên áp dụng khi có sự xung đột xảy ra. Còn TQQT tồn tại dưới hình thức bất thành văn, trên thực tế khi giải quyết xung đột rất khó đưa vào áp dụng, vì các chủ thể luôn lý giải hướng sao cho có lợi cho mình.
|
Điều ước quốc tế |
Tập quán quốc tế |
Khái niệm |
Căn cứ vào các quy định của luật quốc tế và thực tiễn sinh hoạt quốc tế, điều ước quốc tế được hiểu “là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó được ghi nhận trang một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó”. |
So với điều ước quốc tế, tập quán quốc tế ra đời sớm hơn. Đó là những quy tắc xử sự chung ban đầu do một hay một số quốc gia đưa ra và áp dụng trong quan hệ với nhau. Sau một quá trình áp dụng lâu dài, rộng rãi và được nhiều quốc gia thừa nhận như những qui phạm pháp lý nên những quy tắc xử sự đó đã trở thành tập quán quốc tế. Vậy, tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể của luật quốc tế thừa nhận rộng rãi là những quy tắc có tính chất pháp lý bắt buộc. |
Đối tượng thi hành |
Điều chỉnh trực tiếp các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các chủ thể luật QT. Giải quyết các vấn đề như: thương mại, hàng hải, đầu tư, chuyển giao công nghệ, bảo hiểm, thanh toán tố tụng kinh tế quốc tế,… Ngoài ra, một số điều ước không điều chỉnh trực tiếp mà tồn tại với tư cách là nguồn gián tiếp hay bổ trợ cho các hoạt động ktqt kể trên, chúng chủ yếu điều chỉnh vấn đề tính hợp pháp của tư cách chủ thể trong các hoạt động kinh tế quốc tế, vấn đề tương trợ tư pháp giữa các nhà nước trong tư pháp quốc tế nói chung… |
Là nguồn luật QT điều chỉnh trực tiếp các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các chủ thể luật QT.. Giải quyết các vấn đề như: thương mại, hàng hải, đầu tư, chuyển giao công nghệ, bảo hiểm, thanh toán tố tụng kinh tế quốc tế,… |
Quá trình hình thành |
Thông qua các hình thức đàm phán và ký kết các văn bản pháp lý quốc tế của các quốc gia. Quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phải được điều chỉnh bằng các quy định của luật quốc tế và phải tuân thủ các quy phạm của luật quốc tế. |
Không thông qua hành vi ký kết mà nó được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được sự thừa nhận của các chủ thể LQT. |
Cơ chế đảm bảo thi hành |
Các điều ước được ký kết dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng chủ quyền của các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, tôn trọng tự do ý chí, tự do cam kết, hợp tác và cùng có lợi. |
Quá trình hình thành tập quán quốc tế rất lâu dài và đòi hỏi phải có sự liên tục. Không có một thước đo chung cho thời gian hình thành các tập quán, có thể là 50-100 năm, hoặc nhiều hơn nữa, thậm chí hàng trăm năm. Tuy nhiên, tập quán quốc tế chủ yếu hình thành theo các con đường sau: – Từ thực tiễn thực hiện các nghị quyết có tính chất khuyến nghị của các tổ chức quốc tế. – Từ thực tiễn thực hiện các phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế – Hình thành từ điều ước quốc tế – Hình thành từ một tiền lệ duy nhất |
Hình thức thể hiện |
Các điều ước QT đều được xây dựng thành các văn bản pháp lý. Có thể phân chia điều ước quốc tế thành nhiều loại trên cơ sở các căn cứ khác nhau, nhìn chung việc phân loại thường dựa vào các cơ sở sau: – Dựa vào số lượng các bên kết ước, điều ước được phân thành: điều ước quốc tế song phương, điều ước quốc tế đa phương; – Dựa vào lĩnh vực điều chỉnh, điều ước được phân thành: điều ước về chính trị, điều ước về kinh tế…; – Dựa vào phạm vi áp dụng, có điều ước song phương, điều ước khu vực, điều ước phổ cập. |
Quy phạm tập quán quốc tế tồn tại dưới dạng các hành vi xử sự của các chủ thể LQT. Do đó, tập quán quốc tế luôn ở dạng bất thành văn. |
Giá trị pháp lý |
Giống nhau |
Giống nhau |
Giá trị sử dụng |
Giống nhau |
Giống nhau |
16. Tại sao luật quốc gia lại đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành luật quốc tế? Đánh giá vai trò của xu thế đó trong tương lai.
Luật quốc gia đóng vai trò chủ đao trong việc hình thành luật quốc tế, vì:
Trong quá trình xây dựng luật quốc tế, các quốc gia luôn cố gắng tận dụng mọi cơ hội để gây ảnh hưởng đến luật quốc tế và bảo vệ lợi ích của mình 1 cách tốt nhất trong mối tương quan với lợi ích của quốc gia khác và lợi ích chung của công đồng quốc tế. Do đó, quá trình xây dựng luật quốc tế phải xuất phát từ lợi ích của mỗi quốc gia. Đồng thời, sự hình thành các nguyên tắc và QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các quốc gia, mà quan điểm của mỗi quốc gia trong quá trình thỏa thuận thương lượng đó phải dựa trên những nguyên tắc và quy phạm nền tảng của quốc gia mình. Chính vì thế, pháp luật quốc gia thể hiện sự định hướng đến quá trình xây dựng luật quốc tế.
VD: Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế; nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết đều bắt nguồn từ nguyên tắc Cấm chiến tranh xâm lược lần đầu tiên được ghi nhận trong Sắc lệnh Hòa bình của Liên Xô năm 1917.
Pháp luật quốc gia là đảm bảo pháp lý quan trọng để các nguyên tắc, QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Bởi nghĩa vụ của mỗi quốc gia khi tham gia quan hệ quốc tế là phải bảo đảm thực hiện luật quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình. Bằng nhiều cách khác nhau, các QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ sẽ được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật quốc gia và có hiệu lực trong phạm vi Lãnh thổ quốc gia.
VD: Luật quốc tế có Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989. Năm 1991, Việt nam đã ban hành Luật bảo vệ trẻ em nhằm pháp điển hóa các quy định của luật quốc tế vào pháp luật quốc gia.
Đánh giá xu thế của vai trò ấy trong tương lai
Trong tương lai, với sự phát triển không ngừng của tiến trình hội nhập quốc tế và sự tiến bộ của pháp luật quốc gia, xu thế Pháp luật quốc gia đóng vai trò quyết định trong việc hình thành pháp luật quốc tế sẽ ngày càng được củng cố. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, việc Pháp luật quốc tế bị ảnh hưởng bởi pháp luật của các quốc gia lớn mạnh, phát triển như Mỹ, Nga, Trung Quốc… sẽ ngày càng rõ rệt.
17. Có tồn tại cơ quan quyền lực tối cao trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế và cưỡng chế thi hành luật quốc tế không? Vì sao?
Các chủ thể của Luật quốc tế luôn bình đẳng và ngang bằng với nhau khi tham gia vào mọi quan hệ pháp luật quốc tế trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng. Sự tồn tại của hệ thống quốc tế mà trung tâm là các quốc gia – chủ thể cơ bản của Luật quốc tế, đã hình thành một cách khách quan cơ chế thỏa thuận trong quá trình hình thành Luật quốc tế nói chung cũng như quy phạm pháp luật quốc tế nói riêng.
Khi trong quan hệ quốc tế luôn xuất hiện và hiện hữu tương quan lợi ích riêng của của mỗi quốc gia, bên cạnh lợi ích của quốc gia khác và lợi ích của cộng đồng quốc tế thì các quy phạm pháp luật quốc tế tất yếu là sản phẩm của sự đấu tranh, nhân nhượng lẫn nhau giữa các quốc gia trong quá trình hợp tác và phát triển.
Quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền loại bỏ quyền lực siêu quốc gia và những khả năng áp đặt các quy tắc hay quy phạm pháp luật bắt buộc cho bất kì quốc gia nào khác và thay vào đó là sự thừa nhận thỏa thuận là phương thức duy nhất để hình thành hệ thống các quy phạm pháp luật quốc tế, có chức năng duy trì trật tự pháp lý cần thiết đối với cộng đồng quốc tế. Đây cũng là đặc điểm lý giải cho sự thiếu vắng cơ chế quyền lực chung, “đứng trên” các quốc gia khi tiến hành các hoạt động liên quan đến quá trình hình thành hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế.
Chính vì vậy, có thể nói, quá trình hình thành hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế không hướng tới sự tối cao Quá trình hình thành hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế là sự tự nguyện thỏa thuận của các quốc gia dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền Trên thực tế, quá trình hình thành luật quốc tế khác với trình tự xây dựng luật quốc gia.
Thông thường, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia chủ yếu do các cơ quan lập pháp (Quốc hội, nghị viện) ban hành, thể hiện sâu sắc tính giai cấp và tính xã hội. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế, do các chủ thể bình đẳng với nhau về chủ quyền, không có cơ quan quyền lực nào có thể đứng trên quốc gia để ấn định hay áp đặt ý chí của mình cũng như các quy phạm pháp lý buộc các quốc gia phải tuân theo. Thay vào đó, cộng đồng quốc tế đã thừa nhận thỏa thuận là phương thức duy nhất để hình thành hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế. Sự thỏa thuận giữa các chủ thể của Luật quốc tế để xây dựng nên các quy phạm pháp luật quốc tế có thể dùng hai phương pháp đó là: Các chủ thể thỏa thuận rõ ràng, minh bạch thông qua việc kí kết Điều ước quốc tế.
Điều ước quốc tế là văn bản ghi nhận sự thỏa thuận giữa các chủ thể của Luật quốc tế. Một trong những nguyên tắc quan trọng điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đó là nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quá trình ký kết điều ước quốc tế. Do đặc điểm cơ bản của luật quốc tế là không có cơ quan lập pháp chuyên trách nên quá trình xây dựng luật quốc tế nói chung cũng như các quy phạm pháp luật quốc tế nói riêng luôn được tiến hành bởi chính các chủ thể của Luật quốc tế. Đặc điểm này tác động đến quá trình ký kết điều ước quốc tế hướng theo việc ký kết điều ước sẽ hoàn toàn dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện, thỏa thuận của các thành viên. Sự tự nguyện thỏa thuận và bình đẳng trong các quan hệ điều ước trở thành một trong những căn cứ để đánh giá tính hợp pháp của điều ước quốc tế. Theo nguyên tắc này, những điều ước được ký kết mà có sự lừa dối, có sử dụng vũ lực hoặc ép buộc sẽ không có giá trị pháp lý (Điều 49, 52 Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia).
Việc các chủ thể thỏa thuận ký kết điều ước quốc tế góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, tránh sự áp đặt từ bên ngoài với mục đích thôn tính hay tạo ra tình trạng phải lệ thuộc về kinh tế, chính trị vào quốc gia khác. Các chủ thể thỏa thuận thừa nhận tập quán quốc tế (không thành văn) Các chủ thể thỏa thuận ngầm định thông qua việc các chủ thể cùng thừa nhận những quy tắc xử sự chung hình thành trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế.
Việc hình thành các quy phạm pháp luật quốc tế theo hai giai đoạn này không nhằm tạo ra ý chí tối cao, duy nhất mà là sự tự nguyện thỏa thuận của các quốc gia dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền Vậy, tại sao các quốc gia có nền kinh tế, có xu hướng chính trị khác nhau lại có thể cùng nhau thỏa thuận xây dựng nên các quy phạm pháp luật quốc tế? Sở dĩ các quốc gia đạt được sự thoả thuận này tất cả đều xuất phát từ lợi ích của chính họ.
Các quy phạm pháp luật quốc tế được hình thành là kết quả của sự thỏa thuận, tự nguyện, và nhượng bộ lẫn nhau giữa các chủ thể, hướng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, cũng như vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Việc không có cơ quan lập pháp trong hệ thống pháp luật quốc tế cũng là một minh chứng rõ ràng cho sự tự thỏa thuận của các quốc gia khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Nếu thành lập cơ quan lập pháp rõ ràng và bắt các quốc gia phải tuân theo thì rõ ràng nó đã đi trái lại nguyên tắc nền móng ban đầu khi hình thành hệ thống pháp luật quốc tế đồng thời mất đi tính linh hoạt và sự tự nguyện giữa các quốc gia khi tham gia ký kết một số điều ước nhất định.
Bên cạnh đó, cơ quan cưỡng chế luật quốc tế cũng không được thành lập. Các bên khi tham gia quan hệ quốc tế sẽ giám sát việc thực thi pháp luật quốc tế lẫn nhau đồng thời có những biện pháp giải quyết hay trừng phạt nếu một quốc gia nào đó không tuân thủ những gì quốc gia đó cam kết hoặc làm ảnh hưởng xấu đến tình hình chung của thế giới. Nói tóm lại, việc hình thành hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế không nhằm tạo ra ý chí tối cao, duy nhất mà là sự tự nguyện thỏa thuận của các quốc gia dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền.