1. Định nghĩa môi trường quốc tế
Hậu quả của các vụ ô nhiễm Minamata năm 1953, Toưey Canon năm 1967, sa mạc hoá tại Ấn Độ và Pakistan, thảm hoạ hạt nhân ở Chernobyl năm 1986, động đất ở Kobe năm 1995, ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 1999, cháy rừng ở Indonexia năm 1998, lụt lớn tại Ấn Độ, Việt Nam, Venezuela, châu Âu năm 1999, ô nhiễm sông Đa Nuýp tháng 2/2000, hiệu ứng lồng kính, suy giảm tầng ozon, suy thoái môi trường, thay đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao… tất cả đã buộc nhân loại phải nhận thức lại về mối quan hệ giữa môi trường và phát triển, giữa môi trường và con người. Việc đối mặt với tình trạng nghèo đói hơn, thiếu ăn, bệnh tật, thất học và sự tiếp tục suy giảm của hệ sinh thái và các vấn đề môi trường khác cho thấy cách duy nhất để đảm bảo cho nhân loại có được tương lai an toàn hơn, phồn thịnh hơn là phải cân bằng môi trường và phát triển. Sự thay đổi nhận thức này được phản ánh trong quá trình hình thành và phát triển của một ngành luật mới của hệ thống luật quốc tế – Luật quốc tế về môi trường. Đây là tất yếu khách quan, từ cả hai phương diện: khoa học pháp lý và nhu cầu phát triển của thực tiễn đời sống quốc tế.
Có thể khái quát quá trình phát triển của luật quốc tế về môi trường theo ba giai đoạn, với những đặc thù thể hiện sự thay đổi nhận thức chung của cộng đồng quốc tế về các vấn đề môi trường, đó là giai đoạn môi trường riêng biệt; môi trường con người; môi trường và phát triển bền vững. Mặc dù không có sự thống nhất hoàn toàn trong cách phân chia các giai đoạn phát triển của luật quốc tế về môi trường theo dấu mốc các năm cụ thể nhưng tựu chung lại, quá trình phát triển của luật quốc tế về môi trường phản ánh khách quan sự thay đổi trong tư duy nhận thức chung của các quốc gia về các vấn đề môi trường quốc gia cũng như môi trường quốc tế.
Từ chỗ sử dụng và khai thác môi trường tự nhiên với tính chất hoàn toàn tự phát, vì lợi ích kinh tế đơn thuần, tạo ra khủng hoảng cục bộ về môi trường ở nhiều quốc gia, dẫn đến suy giảm môi trường toàn cầu, con người đã dần nhận thức được hậu quả ghê gớm của khủng hoảng môi trường với những đe dọa đến sự phát triển của từng quốc gia và toàn thế giới. Sự hình thành nhanh chóng của khung pháp luật quốc tế về môi trường, thông qua một loạt các điều ước quốc tế đa phương về các lĩnh vực bảo vệ, phát triển bền vững môi trường đã cho thấy rõ bước phát triển quan trọng của ngành luật này trong hệ thống luật quốc tế hiện đại.
Luật môi trường quốc tế là tổng hợp các nguyên tắc và quy phạm, điều chỉnh các quan hê quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế, phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, vì lợi ích của mỗi quốc gia, khu vực và công đồng quốc tế.
Cùng với sự gia tăng của hàng loạt các công ước quốc tế về môi trường quốc tế, các chương trình và cơ chế quốc tế về hợp tác, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường quốc tế cũng hình thành nhanh chóng và ngày càng khẳng định vai trò trong phối hợp hành động của các quốc gia, nhằm bảo vệ môi trường tại mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn thế giới.
Đặc biệt, từ sau năm 1992 (tức sau Hội nghị Rio de Janeiro, Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển, với sự tham gia của 178 quốc gia), luật môi trường quốc tế đã có sự phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức pháp luật, với sự trợ giúp cùa các chương trình môi trường, các tuyên bố về môi trường của Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ khác về môi trường nhằm tạo ra hiệu quả điều chỉnh của các quy định pháp luật quốc tế về môi trường.
2. Các nguyên tắc của luật môi trường quốc tế
Luật môi trường quốc tế có một hệ các nguyên tắc pháp lý đa dạng, được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế khác nhau, đó là:
2.1 Nguyên tắc tiếp cận tổng hợp và phối hợp
Nguyên tắc tiếp cận tổng hợp và phối hợp là nguyên tắc cực kỳ quan trọng của bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Đối với lĩnh vực môi trường, nguyên tắc này được đề cập trong Tuyên bố Rio (Nguyên tắc 3, 4 và 25) và chương trình hành động 21 (Chương vm), nguyên tắc 13 cùa Tuyên bố Stockhom, Công ước 1982 của Liên hợp quốc về luật biển… Về tổng thể, các thành phần của môi trường có mối quan hệ gắn bó trong một chỉnh thể thống nhất để tạo thành môi trường sôrig cho con người. Do đó, trong lĩnh vực môi trường, cần có sự tiếp cận tổng hợp và phối hợp để không làm mất đi tính chất đặc thù của từng lĩnh vực mà coi chúng như đối tượng nghiên cứu của cách tiếp cận từ mọi phía, trong một tổng thể không chia cắt của vấn đề môi trường và phát triển.
2.2 Nguyên tắc phát triển bền vững
Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng của luật môi trường quốc tế. Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới định nghĩa phát triển bền vững là: “Sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Nguyên tắc này thể hiện những nội dung sau:
– Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ môi trường để đảm bảo cho thế hê hiện tại và mai sau được sống trong một môi trường trong lành. Sự ghi nhận quyền này dựa trên quan điểm cho rằng, con người là trung tâm của các mối quan tâm phát triển bền vững và họ được quyền có một cuộc sống hữu ích và lành mạnh, hài hoà với thiên nhiên. Xét về bản chất pháp lý, quyền nói trên xuất phát từ bản chất của quyền con người về cả phương diện các quyền cá nhân và quyền tập thể, tức quyền của dân tộc, quốc gia, đã được thừa nhận trong luật quốc tế về quyền con người. Vì vây, quyền được sống trong môi trường trong sạch và phát triển bền vững là một trong những quyền cơ bản cùa con người, suy rộng ra là quyền của các thế hệ hiện tại và tương lai.
– Công nhận quyền được phát triển của tất cả các quốc gia trên cơ sở bình đẳng chủ quyền. Theo đó, các quốc gia đang phát triển có quyền được hưởng các ưu đãi để đảm bảo quyền phát triển và các quốc gia phát triển có nghĩa vụ phải hợp tác, giúp đỡ các quốc gia đang phát triển cả về phương diện tài chính và kỹ thuật.
– Phải xem xét sự phụ thuộc lẫn nhau của các khía cạnh xã hội, kinh tế, môi trường và quyền con ngưòi trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo có một sự phát triển bền vững từ cả hai góc độ, kinh tế-xã hội và môi trường, để không làm tổn hại đến môi trường, đáp ứng nhu cầu cùa các thế hê mai sau và hiên tại, phù hợp với các nguyên tắc chung của luật quốc tế.
– Các quốc gia có nghĩa vụ phải sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thuộc quyền tài phán quốc gia cũng như nằm ngoài quyền tài phán quốc gia. Đối với các quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng bởi các thiệt hại môi trường xuyên biên giới có thể áp dụng các biện pháp tự vệ bảo vệ môi trường của mình trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia nơi các mối đe doạ và thiệt hại tiềm ẩn về môi trường xuất phát.
2.3 Nguyên tắc bình dẳng
Trong lĩnh vực môi trường, nguyên tắc bình đẳng thể hiên:
– Bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng và bảo vệ môi trường.
– Bình đẳng giữa các thành viên của thế hê hiện tại trong việc đáp ứng quyền được phát triển và được sống trong môi trường trong lành của tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế.
– Các quốc gia có quyền bình đẳng và trách nhiệm chung nhưng khác biệt nhau đối với các vấn đề môi trường, về nguyên tắc, các quốc gia cần hợp tác để bảo vệ môi trường toàn cầu. Tuy nhiên, vì có sự khác nhau trong việc làm thoái hoá môi trường toàn cầu, các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển phải chịu trách nhiệm khác biệt nhau. Trách nhiêm bảo vệ môi trường giữa các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, có các nhu cầu và ưu tiên phát triển và môi trường khác nhau, có mức độ đóng góp khác nhau đối với từng vấn đề riêng biệt sẽ khác nhau. Các nước phát triển phải có trách nhiệm trong các nỗ lực quốc tế về phát triển bền vững do những áp lực mà xã hội của họ gây ra cho môi trường toàn cầu và do những công nghệ và những nguồn tài chính của họ chi phối, điều khiển.
– Sự đại diện công bằng theo khu vực địa lý giữa các thành viên của các tổ chức quốc tế trong việc đề xuất và thực hiện các chính sách liên quan đến môi trường.
– Chủ quyền đôì với tài nguyên thiên nhiên và trách nhiêm không gây tổn hại tới môi trường của các quốc gia khác hoặc các vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia là một nội dung quan trọng của nguyên tắc bình đẳng áp dụng đối với mỗi quốc gia.
Nghĩa vụ không gây hại không có nghĩa là tuyệt đối không gây hại hay gây ra những rủi ro nào mà là ngăn ngừa và làm giảm các tác động gây hại đáng kể hay gây ra rủi ro cho các quốc gia khác. Trong trường hợp gây tổn hại tới môi trường của các quốc gia khác, quốc gia có hành vi vi phạm luật môi trường quốc tê’ phải có nghĩa vụ chấm dứt ngay các hành vi gây hại và gánh chịu trách nhiêm pháp lý quốc tế về các hành vi đó.
2.4 Nguyên tắc ngăn ngừa và giảm thiểu tổn hại môi trường
Nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở môi trường sẽ được bảo vệ một cách tốt nhất thông qua các biện pháp phòng ngừa thiệt hại hơn là thông qua các nỗ lực sửa chữa hoặc đền bù, sau khi tổn hại xảy ra cho môi trường. Các biện pháp ngăn ngừa sẽ trở nên hữu hiệu hơn khi chúng nhằm giảm thiểu các nguồn gây hại môi trường nhiều hơn là nhằm giải quyết hậu quả của các tác động gây hại. Sự thay đổi quy trình sản xuất nhằm giảm thiểu các chất gây hại ngay từ ban đầu sẽ hiệu quả và đỡ tốn hơn là việc đầu tư cho hệ thống kiểm tra, xử lý, thu gom các chất gây tổn hại môi ưường ở cuối quy trình sản xuất. Áp dụng nguyên tắc này cũng nhằm ngăn ngừa sự lan truyền tổn hại môi trường từ vùng này sang vùng khác hoặc chuyển từ trạng thái tổn hại môi ttường này sang trạng thái tổn hại môi trường khác.
Ở cấp quốc gia, nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia cần ban hành luật pháp hữu hiệu về môi trường, các tiêu chuẩn môi trường, những mục tiêu quản lý và những ưu tiên, phản ánh nội dung môi trường và phát triển, các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho các hoạt động công cộng và tư nhân có thể gây ra các tổn hại tiềm năng cho môi trường. Các quốc gia cần khuyến khích sự tham gia của các công dân vào giải quyết các vấn đề môi trường và đánh giá tác động môi trường đối với các biện pháp được áp dụng.
Các quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng bởi các thiệt hại môi trường xuyên biên giới có thể áp dụng các biện pháp tự vệ bảo vệ môi trường của mình trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia nơi các mối đe doạ và thiệt hại tiềm ẩn về môi trường xuất phát.
2.5 Nguyên tắc hợp tác toàn cầu trong lĩnh vực môi trường
Nguyên tắc hợp tác toàn cầu trong lĩnh vực môi trường đòi hỏi sự hợp tác trên tất cả các cấp độ toàn cầu, khu vực, song phương, không chỉ giữa các quốc gia mà còn đối với tất cả các thực thể khác, từ các hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ tới các thành phần khác trong xã hội. Các nội dung chính của nghĩa vụ hợp tác trong lĩnh vực môi trường là:
– Hợp tác nhằm thực hiên các biện pháp cần thiết (thông báo trước, tham khảo ý kiến và đàm phán, đánh giá tác động môi trường) để bảo vệ môi trường và thực hiện phát triển bền vững, sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng chia xẻ, đề phòng, ngăn ngừa và giảm thiểu các tổn hại môi trường, ngăn chặn và giải quyết hoà bình các tranh chấp về môi trường.
– Hợp tác trong chuyển giao công nghệ và cung cấp tài chính, thực hiện các cam kết trong các điều ước quốc tế.
– Hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và quan trắc có hệ thống.
– Hợp tác trong lĩnh vực thông tin.
– Hợp tác trong xây dựng những quy định pháp lý thống nhất về môi trường.
– Hợp tác để sử dụng một cách công bằng và hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.