Câu 1. Trình bày quan hệ pháp luật dân sự?
Là quan hệ xã hội do các quan hệ pháp luật dân sự điều chỉnh, tức là quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dân sự, các quan hệ liên quan đến yếu tố nhân thân và tài sản trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại…Quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ xã hội phát sinh từ những lợi ích vật chất, lợi ích nhân thân được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh, trong đó các bên tham gia bình đẳng về mặt pháp lý, quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp mang tính cưỡng chế.
Do có sự tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội nên các bên tham gia vào các quan hệ đó có các quyền và nghĩa vụ pháp lí tương ứng. Các quyền, nghĩa vụ pháp lí này được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự tác động của các quy phạm pháp luật vào các quan hệ xã hội không làm mất đi tính xã hội của các quan hệ đó mà làm cho các quan hệ này mang một hình thức mới “quan hệ pháp luật”. Hậu quả của nó là các quyền và nghĩa vụ của các bên được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, các bên đều có mục đích và lợi ích nhất định nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất hoặc tinh thần. Tuy các quan hệ dân sự hình thành một cách khách quan nhưng được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người, do vậy việc tham gia hay không tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, xác định nội dung mối quan hệ mà họ tham gia phải xuất phát từ ý chí của các bên.
Có thể nói, sự tự định đoạt, ý chí tự do thể hiện của các chủ thể được thể hiện trọn vẹn nhất, ở đỉnh cao nhất khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ pháp luật dân sự có thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật hoặc trên cơ sở ý chí của các bên tham gia nhưng phải phù hợp với quy phạm pháp luật dân sự.
Câu 2. Trình bày về đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự?
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là quan hệ nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự) (Điều 1 BLDS 2015)
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản. Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn với một tài sản nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác.
Tài sản (được khái quát chung ở Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015) bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản). Quan hệ tài sản không chỉ bó hẹp ở những vật vô tri mà còn hàm chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến một tài sản
Cùng với quan hệ tài sản, luật dân sự còn điều chỉnh các quan hệ nhân thân (Điều 1 Bộ luật Dân sự năm 2015). Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân là quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan có quy định khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều có nghĩa vụ toont rọng quyền nhân thân của người khác.
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân đó, đồng thời quy định các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền nhân thân (ĐIều 11 – 14 Bộ luật Dân sự năm 2015)
Có thể chia thành các nhóm sau:
– Quan hệ nhân thân gắn với tài sản
– Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản
Câu 3. So sánh phương pháp điều chỉnh Luật Dân sự với các ngành luật công.
– Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự: là phương pháp thỏa thuận, bình đẳng, thương lượng, tự định đoạt.
– Phương pháp điều chỉnh của các ngành luật công: phương pháp mệnh lệnh, có tính bắt buộc.
Câu 4. Vị trí của Luật Dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam?
* Theo chức năng: Luật Dân sự là luật gốc của luật tư.
– Được gọi là luật chung, Luật Dân sự thiết lập các nguyên tắc cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống luật tư.Các nguyên tắc ấy phải được tôn trọng trong quá trình xây dựng các luật chuyên ngành, nhằm đảm bảo tính thống nhất về quan điểm lập pháp của hệ thống pháp luật.
Điều 4 Bộ Luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định: “1. Bộ luật này là luật chung đều chỉnh các quan hệ dân sự; 2.Luật khác liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp Luật Dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này; 3.Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng”.
* Theo tôn ti trật tự quy phạm:
– Về nguyên tắc, Luật Dân sự được xếp ngang hàng với các luật khác, kể cả các luật điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực chuyên biệt, và có vị trí cao hơn các văn bản dưới luật.Điều đó có nghĩa là trong trường hợp cần giải quyết các xung đột giữa quy phạm của BLDS với các quy phạm pháp luật khác, thì phải áp dụng các quy tắc xử lý mang tính nguyên tắc: luật ra đời sau thủ tiêu luật ra đời trước, ngoại lệ phủ định nguyên tắc, luật riêng thay luật chung để chi phối lĩnh vực chuyên biệt thuộc phạm vi điều chỉnh…
Câu 5. Trình bày về cấu trúc, bố cục BLDS 2015?
* Cấu trúc, bố cục BLDS 2015: BLDS 2015 gồm sáu phần với 689 điều chia làm 27 chương:
– Phần thứ nhất:Quy định chung (10 chương).
– Phần thứ hai: Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản (4 chương).
– Phần thứ ba: Nghĩa vụ và hợp đồng (6 chương).
– Phần thứ tư: Thừa kế (4 chương).
– Phần thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (3 chương).
– Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành.
Câu 6. Lịch sử hình thành và phát triển BLDS Việt Nam?
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến, Luật Dân sự Việt Nam không được tách ra thành một bộ luật riêng mà được tìm thấy trong các điều khoản của các bộ luật phong kiến như Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức), Nguyễn triều hình luật (Hoàng Việt luật lệ). Đến khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam thì các bộ Luật Dân sự được áp dụng riêng rẽ ở ba kỳ lần lượt xuất hiện. Ví dụ ở Nam Kỳ thì bộ Luật Dân sự Nam Kỳ giản yếu ra đời năm 1883, bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và tại Trung Kỳ là bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) ra đời năm 1936.[1] Sau ngày 2 tháng 9 năm[1]1945, do hoàn cảnh chiến tranh với người Pháp nên chính phủ của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn áp dụng các bộ Luật Dân sự này. Ngày 22 tháng 5 năm 1950, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 97/SL để “sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật” nhằm sửa đổi một số điều trong các bộ dân luật cũ này. Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 tòa án tối cao ra chỉ thị số 772/TATC để “đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ của phong kiến đế quốc”.[1] Từ thời điểm đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu hẳn bộ Luật Dân sự thực thụ. Một số mảng của Luật Dân sự được tách ra thành các bộ luật khác như Luật hôn nhân và gia đình hay các văn bản pháp quy dưới luật như thông tư, chỉ thị, nghị định, pháp lệnh. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực dân sự như thừa kế, quyền sở hữu trí tuệ v.v. không được điều chỉnh trực tiếp. Các quy định về nghĩa vụ dân sự được quy định chủ yếu là các vấn đề về nhà ở, vàng bạc, kim khí quý và đá quý v.v. và nói chung mang nặng tính chất hành chính. Có thể liệt kê một số văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự như: Luật hôn nhân gia đình (1986), Luật Quốc tịch (1988), Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988), Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh về thừa kế (1990), Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991) v.v. Tuy các pháp lệnh có nhiều nhưng đôi khi chồng chéo và mâu thuẫn với nhau nên đã gây ra nhiều khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
Năm 1995, quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ Luật Dân sự (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1996).
Sau 10 năm thi hành, Bộ Luật Dân sự đã có nhiều hạn chế, bất cập như: một số quy định không phù hợp với sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế thị trường, không rõ ràng hay không đầy đủ hoặc còn mang tính hành chính. Nhiều bộ luật mới ra đời có các nội dung liên quan đến Bộ Luật Dân sự Việt Nam 1995 nhưng bộ luật này lại không điều chỉnh, sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn giữa chúng cũng như chưa có sự tương thích với các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế. Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ Luật Dân sự sửa đổi. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2006.
Tháng 11 năm 2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ Luật Dân sự sửa đổi lần 2. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2017.
[1] Lê Tiến Dũng. “Án lệ trong pháp luật Việt Nam”
Câu 7. Mối quan hệ giữa Luật Dân sự và các luật chuyên ngành như Luật thương mại, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao động?
Nội dung quan hệ dân sự là các quan hệ phát sinh trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ sản xuất kinh doanh đến sinh hoạt hàng ngày của con người. Các quan hệ này dù phát sinh trong lĩnh vực nào cũng đều có những tính chất, đặc điểm chung và những tính chất, đặc điểm riêng. Chính vì vậy, có thể chia các quy phạm pháp luật dân sự thành hai nhóm lớn: Một là, nhóm các quy phạm quy định về những vấn đề, những nguyên tắc dân sự chung, bao quát các quan hệ dân sự thuộc tất cả các lĩnh vực, nhóm này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự (BLDS). Hai là, nhóm các quy phạm điều chỉnh các quan hệ dân sự cụ thể, bao gồm cả các nguyên tắc chuyên ngành cho từng lĩnh vực của đời sống xã hội, nhóm này được ghi nhận trong các đạo luật cụ thể như: Luật Thương mại,Luật Hàng không dân dụng, Luật Giao thông đường bộ…
Trong điều kiện nước ta hiện nay, mô hình hệ thống pháp luật dân sự có tính khả thi nhất là vẫn giữ lại BLDS, nhưng chỉ với vai trò quy định về những vấn đề chung nhất như về các nguyên tắc cơ bản của BLDS, về cá nhân, pháp nhân, về tài sản và quyền sở hữu tài sản, về các giao dịch dân sự…, kết hợp với các quy định dân sự trong các luật, pháp lệnh chuyên ngành.
Theo mô hình được kiến nghị nêu trên, các vấn đề dân sự vừa được quy định trong BLDS, vừa được quy định tại các đạo luật chuyên ngành, nhng có sự phân công hợp lý theo hớng, BLDS chỉ quy định nội dung chung của tất cả các lĩnh vực, còn đạo luật chuyên ngành cụ thể hoá các quy định chung đó như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Sở hữu trí tuệ…, nhưng không có chồng chéo, mâu thuẫn nhau.
Tuy nhiên, nếu cùng về một vấn đề mà có sự quy định khác nhau giữa BLDS và đạo luật chuyên ngành thì phải cho phép áp dụng quy định của đạo luật chuyên ngành, bởi vì, quy định của đạo luật chuyên ngành là sự cụ thể hoá các quy định chung.Trong trờng hợp nếu có vấn đề thuộc pháp luật chuyên ngành điều chỉnh nhưng đạo luật này cha quy định thì phải áp dụng các quy định chung của BLDS.
Câu 8. Khái niệm nguồn của Luật Dân sự?
Nguồn của pháp luật bao gồm nguồn nội dung và nguồn hình thức, trong đó, “nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật” và “nguồn hình thức của pháp luật được hiếu là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”.
Quan niệm về nguồn của luật dân sự có sự thay đổi theo thời gian, dựa trên quy định của luật tương ứng với thời kỳ đó. Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu tiên chính thức ghi nhận việc áp dụng án lệ, trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh. Do đó, luật Dân sự bao gồm một hệ thống các văn bản pháp luật (luật thành văn) cùng với tập quán, án lệ trong đó chứa đựng các quy tắc xử sự chung theo một chuẩn mực pháp lý nhất định. Vì thế, nguồn của luật dân sự là quy tắc ứng xử được ghi nhận trong các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành, những tập quán, khuôn mẫu được xác định từ án lệ mà theo đó, các chủ thể phải tuân theo khi tham gia và thực hiện các quan hệ dân sự.
Câu 9. Các loại nguồn của Luật Dân sự dưới góc độ so sánh BLDS 2005 và BLDS 2015?
* Các loại nguồn được sử dụng trong cả hai Bộ luật:
+ Thỏa thuận
+ Văn bản quy phạm pháp luật
+ Tập quán
+ Áp dụng tương tự pháp luật
* Loại nguồn chỉ sử dụng trong BLDS 2015:
+ Án lệ.
+ Lẽ công bằng.
Câu 10. Khái niệm án lệ?
Thuật ngữ “án lệ” có nguồn gốc Latinh được hiểu là việc có trước, xảy ra trước hay cách thức xử lí một tình huống nhất định, được xem là một mẫu mực cho việc xử lí trong những tình huống tương tự về sau. Ở nước Anh và các nước theo hệ thống thông luật (Common law), án lệ được coi là một nguồn quan trọng của pháp luật, không kém văn bản quy phạm pháp luật.
Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù hàng năm khi tổng kết công tác xét xử, Toà án nhân dân tối cao có đưa ra các vụ án điển hình để hướng dẫn toà án cấp dưới xét xử, tuy nhiên khi lập luận cho quyết định của mình, các thẩm phán vẫn phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, chứ không dựa vào các bản án đã xét xử. Việt Nam không có truyền thống áp dụng án lệ và không coi án lệ là một hình thức pháp luật.
Câu 11. Khái niệm tập quán.
Dưới góc độ ngôn ngữ tập quán được hiểu là “thói quen được hình thành đã lâu trong đời sống, được mọi người tuân theo”[2], là “những quy tắc xử sự được hình thành một cách tự phát lâu ngày thành thói quen trong đời sống xã hội hoặc giao lưu quốc tế, đang tồn tại và được các chủ thể thừa nhân như là quy tắc xử sự chung”[3]. Dưới góc độ pháp lý, tập quán là “thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng”[4]. Trong BLDS 2015 thuật ngữ “tập quán” được định nghĩa tại khoản 1 Điều 5, theo đó: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự”.
Tập quán được tuân thủ chủ yếu bằng thói quen và dư luận xã hội nhưng cũng có thể được vận dụng như một quy tắc xử sự thay thế quy định của pháp luật như trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán… (Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005). Đối với những trường hợp mà pháp luật của Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc gia nhập chưa có quy định thì có thể áp dụng tập quán và thông lệ quốc tế, nếu việc áp dụng tập quán và thông lệ quốc tế đó không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Có những tập quán do tính hợp lí và phù hợp, đáp ứng nhu cầu của một lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định nên được Nhà nước chính thức thừa nhận và đâm bảo việc tôn trọng, chấp hành và trở thành pháp luật tập quán (tập quán pháp).
Câu 12. Thứ tự áp dụng nguồn của Luật Dân sự.
* Thỏa thuận được áp dụng trước tiên, nếu các bên không có thỏa thuận thì áp dụng các quy định của pháp luật. Pháp luật không có quy định thì áp dụng tập quán. Các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự (áp dụng tương tự pháp luật).
* Nếu không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp Luật Dân sự, án lệ, lẽ công bằng (khoản 2 Điều 6 BLDS 2015).
Câu 13. Trình bày về áp dụng tương tự pháp luật.
* Áp dụng tương tự pháp luật là trường hợp cần phải giải quyết một vụ việc thực tế, cụ thể nào đó “mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự đó”. (Khoản 1 Điều 6 BLDS 2015). Đồng thời, ở những mức độ nhất định, cần dựa vào các chuẩn mực và quan niệm đạo đức xã hội, lẽ phải, sự công bằng, tính hợp lí…để giải quyết, đưa ra các áp dụng pháp luật cần thiết, hợp lí.
Áp dụng tương tự pháp luật có thể được thể hiện dưới dạng:
Thứ nhất, có quan hệ thuộc lĩnh vực luật dân sự điều chỉnh nhưng không có quy phạm trực tiếp điều chỉnh quan hệ A này. Trường hợp này còn được gọi là áp dụng tương tự quy phạm pháp luật.
Thứ hai, có quan hệ B, có quy phạm B trực tiếp điều chỉnh, quan hệ B tương tự như A thuộc lĩnh vực do luật dân sự điều chỉnh. Trong trường hợp này có thể dùng quy phạm B để điều chỉnh quan hệ A. Đây là trường hợp áp dụng tương tự pháp luật.
Câu 14. Nêu các nguyên tắc của Luật Dân sự.
* Các nguyên tắc cơ bản của pháp Luật Dân sự:
– Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử, được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và quyền tài sản (nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật).
– Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng (nguyên tắc tự do, tự nguyện).
– Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực (nguyên tắc thiện chí, trung thực).
– Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (nguyên tắc cấm lạm dụng quyền).
– Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự (nguyên tắc tự chịu trách nhiệm).
(Điều 3 BLDS 2015)
Câu 15. Trình bày ý nghĩa và chức năng của nguyên tắc thiện chí, trung thực.
* Ý nghĩa: đảm bảo các giao dịch dân sự được thực hiện một cách trung thực, không vì lợi ích cá nhân mà làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác.
Câu 16. Khái niệm quyền dân sự.
* Quyền dân sự là khả năng được phép xử sự theo một cách nhất định của chủ thể trong quan hệ dân sự để thực hiện, bảo vệ lợi ích của mình.
Câu 17. Phân loại quyền dân sự.
* Quyền dân sự gồm 2 loại: quyền tài sản và quyền không có tính tài sản (quyền thân nhân).
+ Quyền tài sản: Gọi là quyền có tính chất tài sản những quyền định giá được bằng tiền, là quan hệ giữa các chủ thể mà có đối tượng là một vật có giá trị tài sản.
+ Quyền nhân thân: Là quyền gắn với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan có quy định khác.
Câu 18. Phân tích giới hạn của quyền dân sự.
Giới hạn việc thực hiện quyền dân sự tức là các chủ thể chỉ có thể thực hiện quyền của mình ở một mức độ nhất định, không được phép vượt qua mức do pháp luật quy định. Họ được tự do thực hiện quyền của mình nhưng phải trong khuôn khổ.
Pháp luật dân sự tôn trọng quyền của chủ thể trong quan hệ dân sự, cho phép cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình. Nhưng pháp luật dân sự cũng quy định về giới hạn thực hiện quyền dân sự và không được lạm quyền trong quan hệ dân sự. Đó là quy định: “Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật”.
Câu 19. Phân tích nguyên tắc thiện chí trung thực, bình đẳng tự nhiên trong luật dân sự?
Về cơ sở pháp lý:
Bộ luật dân sự năm 2015
1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
Theo Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về “Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự” như sau:
– Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
– Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
– Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
– Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
– Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.
2. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc trung thực, thiện chí
Cơ sở pháp lý: Khoản 3 điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015.
“Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực…”.
3. Phân tích nguyên tắc trung thực, thiện chí
Nguyên tắc trung thực, thiện chí là nền tảng của mọi giao dịch dân sự, bởi lẽ một giao dịch dân sự dù đơn giản hay phức tạp, mức độ dù lớn hay nhỏ thì khi thực hiện các quyền và thi hành các nghĩa vụ, sự trung thực, thiện chí luôn được đặt lên vị trí hàng đầu. Trung thực, thiện chí là thực hiện hành vi với ý định tốt một cách ngay thẳng, chính trực, nên cũng có tài liệu ghi nhận nguyên tắc này dưới tên là “nguyên tắc thẳng thắn và ngay tình”. Cùng một nội hàm như nhau nhưng hai hệ thống pháp luật thông luật và dân luật lại định nghĩa dưới hai tên gọi khác nhau là good faith và pacta sunt servanda. Khoản 1 Điều 2 Bộ dân luật Thụy Sỹ quy định rằng các bên phải trung thực, thiện chí khi thực hiện nghĩa vụ, và sự trung thực, thiện chí mang tính giả định và do pháp luật quy định, các bên không được xem là trung thực, thiện chí khi không thực hiện hành vi một cách mẫn cán, cẩn trọng và không đáp ứng được các điều kiện đặt ra. Khoản 2 Điều 1 Bộ dân luật Nhật Bản, Điều 19 Bộ dân luật Philippines, Điều 4 Bộ Quy tắc chung về dân luật của Trung Quốc và Điều 5 Bộ luật dân sự và Thương mại Thái Lan cũng rất đề cao nguyên tắc trung thực và định chế nó vào trong Bộ dân sự.
– Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình; đồng thời thể hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi tham gia các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau; không ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo… để tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của cac bên chủ thể tham gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi phương diện. Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý chí tự nguyện của các bên hay chưa, trong một số trường hợp lại là một công việc hoàn toàn không đơn giản và khá phức tạp bởi nhiều nguyên do chủ quan và khách quan khác nhau.
Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất ý chí của chủ thể giao kết hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong nội dung hợp đồng mà chủ thể này đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để xác định một hợp đồng đã đảm bảo nguyên tắc tự nguyện hay chưa. Hay nói cách khác, việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự nguyện khi hình thức của hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
Do đó, theo quy định của pháp luật thì tất cả những hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, lừa dối hay bị đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết và do đó bị vô hiệu.
4. Nội dung nguyên tắc trung thực, thiện chí
Nguyên tắc này được Bộ luật Dân sự quy định trên cơ sở tôn trọng quyền con người, quyền công dân đã được nêu rõ trong Hiến pháp 2013. Điều 15, Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác. Để thực hiện các quy định nêu trên của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự cụ thể hóa bằng việc đưa ra nguyên tắc thiện chí, trung thực khi cá nhân, pháp nhân tham gia giao dịch dân sự. Điều đó hoàn toàn phù hợp về lý luận cũng như về thực tiễn. Cá nhân, pháp nhân khi tham gia giao dịch dân sự bao giờ cũng mong đạt được mục đích là mang lại lợi ích cho bản thân, tổ chức của mình. Mục đích ấy luôn gắn liền với lợi ích của cá nhân, pháp nhân khác khi cùng tham gia giao dịch dân sự. Do đó, cá nhân, pháp nhân phải tôn trọng lợi ích của các cá nhân và pháp nhân khác khi tham gia thực hiện các cam kết, thỏa thuận. Muốn thực hiện sự tôn trọng ấy, không có cách nào khác là cá nhân, pháp nhân phải thể hiện thái độ thiện chí, trung thực của mình trong các giao dịch dân sự.
Nội dung của nguyên tắc thiện chí, trung thực là cá nhân, pháp nhân khi tham gia giao dịch dân sự phải hợp tác, giúp đỡ nhau để xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân khác, của Nhà nước và xã hội. Cùng với việc quan tâm, tôn trọng các lợi ích hợp pháp của người khác, các bên tham gia giao dịch dân sự còn phải tìm mọi biện pháp cần thiết để thực hiện các cam kết, thỏa thuận và hạn chế các thiệt hại gây ra cho nhau.
Tuy nhiên, để đánh giá tính thiện chí, trung thực của cá nhân, pháp nhân phải căn cứ vào thái độ và việc làm của họ trên thực tế, vào mục đích mà họ mong muốn đạt được khi tham gia giao dịch dân sự. Thái độ bàng quang, thiếu trách nhiệm hoặc lừa dối không mong muốn thực hiện các cam kết, thỏa thuận của một bên là không phù hợp với cách ứng xử mà Bộ luật Dân sự quy định. Những biểu hiện của việc thực hiện cam kết, thỏa thuận không thiện chí, trung thực của các bên phải được chứng minh bằng các chứng cứ cụ thể, xác thực.
Để thực hiện nguyên tắc thiện chí, trung thực của Bộ luật Dân sự, yêu cầu cá nhân, pháp nhân phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh, khả năng thực hiện các cam kết, thỏa thuận; phải có trách nhiệm với các cam kết, thỏa thuận của mình để đạt được mục đích chung khi tham gia các giao dịch dân sự. Khi xuất hiện những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện cam kết, thỏa thuận các bên phải cùng nhau bàn bạc tìm cách khắc phục trên tinh thần hợp tác. Các cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án, Viện Kiểm sát và các cơ quan Nhà nước khác khi giải quyết tranh chấp giữa cá nhân, pháp nhân trong giao dịch dân sự cần phải khách quan, minh bạch đánh giá tính trung thực, thiện chí của các bên. Đồng thời hướng dẫn, định hướng cho các bên có thái độ thiện chí, trung thực, hợp tác khi có xung đột về mặt lợi ích hợp pháp giữa các bên.
Câu 20. Các phương thức bảo vệ quyền dân sự.
* Các phương thức bảo vệ quyền:
– Tự bảo vệ quyền: Việc tự bảo vệ quyền dân sự phải phù hợp với tính chất, mức độ xâm phạm đến quyền đó và không được trái các nguyên tắc cơ bản của pháp Luật Dân sự.
– Yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
– Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình;
– Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
– Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
– Buộc thực hiện nghĩa vụ;
– Buộc bồi thường thiệt hại;
– Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền;
– Yêu cầu khác theo quy định của luật.
Câu 21. Khái niệm và đặc điểm của quyền tài sản.
* Khái niệm: Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữa trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
* Đặc điểm:
– Quyền tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh rất đa dạng và phức tạp;
– Quyền tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh luôn mang tính ý chí, phản ánh ý thức của các chủ thể tham gia; luôn thể hiện động cơ, mục đích của chủ thể tham gia;
– Là quyền có tính chất hàng hóa;
– Thể hiện rõ bản chất đền bù tương đương trong trao đổi.
Câu 22. Khái niệm và đặc điểm của quyền nhân thân.
* Khái niệm: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
* Đặc điểm:
– Gắn liền với mỗi cá nhân, không có nội dung kinh tế không gắn với quyền lợi tài sản của chủ thể;
– Không thể chuyển giao cho người khác dưới bất kỳ hình thức nào, không thể là đối tượng của hợp đồng trao đổi, mua bán…
Câu 23. So sánh quyền nhân thân và quyền tài sản.
*Với bản chất là một bộ phận quyền dân sự, quyền nhân thân có đầy đủ các đặc điểm của quyền dân sự nói chung. Ngoài ra, nó còn mang một số đặc điểm riêng biệt nhằm phân biệt với quyền tài sản. Cụ thể như:
Thứ nhất, quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản
Khác với quyền tài sản, đối tượng của quyền nhân thân là một giá trị tinh thần, do đó, quyền nhân thân không biểu hiện bằng vật chất, không quy đổi được thành tiền và mang giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Do vậy, quyền nhân thân không thể bị định đoạt hay mang ra chuyển nhượng cho người khác.
Thứ hai, quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển dịch
Mỗi một chủ thể mang một giá trị nhân thân đặc trưng, do đó, quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất địnhkhông bị phụ thuộc, chi phối bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ, giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội,….
Quyền nhân thân không thể chuyển dịch cho người khác, tức là, quyền nhân thân của mỗi cá nhân chỉ do chính cá nhân đó hoặc trong một số trường hợp do chủ thể khác được pháp luật quy định thực hiện. Quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch mua bán, trao đổi, tặng, cho,…
*Tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định: Quyền tài sản là quyền trị giá tính bằng tiền, gồm có quyền tài sản đối với đối tượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Theo đó:
Quyền tài sản là quyền trị giá được tính bằng tiền, không đòi hỏi có sự chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được tính bằng tiền và được chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản gồm có: quyền sử dụng tài sản thuê, quyền thực hiện hợp đồng, quyền đòi nợ, quyền trị giá bằng tiền, quyền sở hữu trí tuệ. Các quyền tài sản khác gắn với nhân thân thì không thể chuyển giao như: quyền cấp dưỡng, quyền thừa kế, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe.
Quyền tài sản gồm có quyền sử dụng đất, quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Quyền tài sản có thể được chia thành hai loại: quyền đối nhân và quyền đối vật. Quyền đối vật là quyền chủ thể được tác động trực tiếp vào vật nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình như quyền cầm cố, quyền sở hữu, quyền hưởng hoa lợi, quyền thế chấp, … Quyền đối nhân là quyền chủ thể này đối với chủ thể khác. Quyền đối nhân được đáp ứng nếu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ theo yêu cầu của bên có quyền
Câu 24. Phân loại quyền tài sản.
- Quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện hành vi trực tiếp trên các vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay sự hợp tác của các chủ thể khác. Các quyền tài sản được thể hiện dưới dạng quyền đối vật như: quyền sở hữu, quyền bề mặt, quyền hưởng dụng, quyền của bên bảo đảm đối với tài sản bảo đảm, quyền đối với bất động sản liền kề…
- Quyền đối nhân được thiết lập trong mối quan hệ giữa 2 người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật. Có thể hiểu, quyền đối nhân là quyền cho phép 1 người yêu cầu người khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn nhu cầu gắn liền về lợi ích vật chất của mình. Tiêu biểu về quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân gồm có: quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm…
Câu 25. Phân loại quyền nhân thân.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của BLDS năm 2005, hiện nay, tại BLDS năm 2015 ghi nhận quyền nhân thân của cá nhân bao gồm các quyền cụ thể sau: Quyền có họ, tên (Điều 26); Quyền thay đổi họ (Điều 27); Quyền thay đổi tên (Điều 28); Quyền xác định, xác định lại dân tộc (Điều 29); Quyền được khai sinh, khai tử (Điều 30); Quyền đối với quốc tịch (Điều 31); Quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 32); Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều 33); Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 34); Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (Điều 35); Quyền xác định lại giới tính (Điều 36); Chuyển đổi giới tính (Điều 37); Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 38) và Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 39). Các quyền nêu trên chính là các quyền nhân thân của cá nhân nhằm xác định tư cách của chủ thể của cá nhân trong quan hệ dân sự (ví dụ: quyền về họ, tên, dân tộc, nơi cư trú..) và có tính đặc thù trong quan hệ dân sự, chưa được quy định cụ thể trong Hiến pháp (ví dụ: quyền được khai sinh, khai tử,..) hoặc dễ bị phân biệt đối xử do các định kiến xã hội (ví dụ: quyền xác định lại giới tính). Xét từ vị trí, vai trò của Bộ luật dân sự, mối quan hệ của Bộ luật này với Hiến pháp, các luật khác có liên quan và sự thay đổi không ngừng của các lợi ích tinh thần của cá nhân trong đời sống xã hội thì việc BLDS năm 2015 tập trung quy định các quyền này cũng là phù hợp.
Câu 26. Nêu khái niệm chủ thể pháp Luật Dân sự.
Chủ thể là một cá nhân hoặc tổ chức tồn tại hữu hình và tham gia vào một quan hệ pháp luật, quan hệ xã hội để phối hợp thực hiện một giao dịch, một quan hệ nào đó.
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân, tổ chức có khả năng có quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật dân sự.
Câu 27. Nêu điều kiện trở thành một cá nhân tham gia pháp luật dân sự.
Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cá nhân phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự:
+ Năng lực pháp luật dân sự theo quy định tại Điều 16 Bộ luật dân sự năm 2015:
“1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.”
Năng lực pháp luật dân sự bao gồm các quyền như: Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản; Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (theo quy định tại Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015). Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có được khi cá nhân đạt được độ tuổi nhất định và các yêu cầu về sức khỏe như sau:
– Năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Theo quy định tại Điều 20 người thành niên (từu đủ 18 tuổi trở lên) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22 (người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi), điều 23 (người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do tình trạng thể chất hoặc tinh thần) và điều 24 (người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình) của Bộ luật này;
– Năng lực hành vi một phần: Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi:
+ Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
+ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Câu 28. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của năng lực pháp Luật Dân sự cá nhân.
Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cá nhân phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự:
+ Năng lực pháp luật dân sự theo quy định tại Điều 16 Bộ luật dân sự năm 2015:
“1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.”
Năng lực pháp luật dân sự bao gồm các quyền như: Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản; Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (theo quy định tại Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015). Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có được khi cá nhân đạt được độ tuổi nhất định và các yêu cầu về sức khỏe như sau:
– Năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Theo quy định tại Điều 20 người thành niên (từu đủ 18 tuổi trở lên) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22 (người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi), điều 23 (người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do tình trạng thể chất hoặc tinh thần) và điều 24 (người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình) của Bộ luật này;
– Năng lực hành vi một phần: Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi:
+ Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
+ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Câu 29. Ý nghĩa của chế định năng lực pháp Luật Dân sự.
Năng lực pháp luật của cá nhân. Cá nhân là thực thế tự nhiên, là chủ thể phổ biến nhất của giao dịch dân sự. Tuy nhiên, không phải mọi giao dịch dân sự cá nhân đều có thể tham gia. Trong một số trường hợp nhất định pháp luật dân sự Việt Nam quy định, cá nhân chỉ trở thành chủ thể của giao dịch dân sự khi pháp luật trao quyền cho cá nhân đó. Do đó, điều kiện cần để trở thành chủ thể của giao dịch dân sự là cá nhân phải có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với nội dung của giao dịch. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Điều này được hiểu, cá nhân được thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi năng lực pháp luật dân sự mà pháp luật quy định cho cá nhân. Các cá nhân được tự mình đặt ra các quyền cho mình ngoài phạm vi do luật định. Mỗi quốc gia khác nhau đều có những nét tương đồng và khác biệt trong cách quy định về năng lực pháp luật dân sự là khác nhau, phù họp với chế độ chính trị của quốc gia đó. Và trong cùng một phạm vi lãnh thổ, năng lực pháp luật dân sự về nguyên tắc là bình đẳng giữa các cá nhân, nhưng trong một số lĩnh vực chuyên biệt, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người Việt Nam sẽ khác năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người không có quốc tịch Việt Nam. Ví dụ: A có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng A không thuộc diện được thuê nhà công vụ theo quy định tại Điều 32 Luật nhà ở thì A không thể ký kết hợp đồng thuê nhà công vụ.
Tóm lại, khi xác lập giao dịch dân sự thì cá nhân phải có năng lực pháp luật phù hợp với giao dịch mà minh xác lập. Nếu năng lực pháp luật của cá nhân không bao gồm việc xác lập những giao dịch nhất định mà cá nhân xác lập thì giao dịch không có hiệu lực pháp luật.
Năng lực hành vi của cá nhân: Bên cạnh việc cá nhân phải đáp ứng điều kiện về năng lực pháp luật dân sự, cá nhân đó còn phải có năng lực hành vi dân sự. Chỉ khi có năng lực hành vi dân sự cá nhân đó mới có ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về những ý chí mà cá nhân đó đã bày tỏ khi xác lập thực hiện giao dịch. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2015). Do đó, một giao dịch dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực pháp luật dân sự và mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Câu 30. Thời điểm phát sinh năng lực pháp Luật Dân sự là thời điểm cá nhân được sinh ra, vậy cụ thể đó là thời điểm nào?
* Có 3 quan điểm về thời điểm phát sinh năng lực pháp Luật Dân sự.
– Quan điểm thứ nhất: Thời điểm phát sinh năng lực pháp Luật Dân sự là thời điểm cá nhân được sinh ra, cụ thể là khi cá nhân đã có một phần cơ thể nằm ngoài cơ thể của người mẹ.
– Quan điểm thứ hai: Thời điểm phát sinh năng lực dân sự là thời điểm cá nhân được sinh ra, cụ thể là khi cá nhân hoàn toàn nằm ngoài cơ thể của người mẹ.
– Quan điểm thứ ba: Thời điểm phát sinh năng lực dân sự là thời điểm cá nhân được sinh ra, cụ thể là khi cá nhân cất tiếng khóc đầu tiên.
* Pháp Luật Dân sự Việt Nam lấy quan điểm thứ ba là căn cứ xác định thời điểm cá nhân phát sinh năng lực dân sự.
Câu 31. Thai nhi có năng lực pháp Luật Dân sự không? Vì sao?
* Thai nhi không có năng lực pháp Luật Dân sự.
– Vì: năng lực pháp Luật Dân sự chính thức phát sinh khi cá nhân được sinh ra, tức là thời điểm cá nhân hoàn toàn nằm ngoài cơ thể người mẹ và cất tiếng khóc đầu tiên.Ở đây thai nhi vẫn nằm trong cơ thể người mẹ, không đáp ứng được điều kiện cần để phát sinh năng lực pháp Luật Dân sự.
* Tuy nhiên, trong một số trường hợp thai nhi được pháp luật trao cho một số quyền có liên quan đến vấn đề thừa kế “đã hình thành thai trước khi người thừa kế di sản chết” (Điều 613 DLDS 2015).
Câu 32. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Năng lực hành vi của cá nhân: Bên cạnh việc cá nhân phải đáp ứng điều kiện về năng lực pháp luật dân sự, cá nhân đó còn phải có năng lực hành vi dân sự. Chỉ khi có năng lực hành vi dân sự cá nhân đó mới có ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về những ý chí mà cá nhân đó đã bày tỏ khi xác lập thực hiện giao dịch. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2015). Do đó, một giao dịch dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực pháp luật dân sự và mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tùy theo từng độ tuổi và mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân mà phạm vi giao dịch dân sự được xác lập của mỗi cá nhân là khác nhau:
Thứ nhất, trường hợp cá nhân là người thành niên. Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các Điều 22, Điều 23 và Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được xác lập mọi giao dịch. Nếu người thành niên rơi vào các trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22), có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 23) và bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 24) thì phạm vi các giao dịch được xác lập như sau: Một là, phạm vi xác lập giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự: Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện; Hai là, phạm vi xác lập giao dịch dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Tòa án chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Do đó, trong phạm vi nhất định người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được xác lập những giao dịch dân sự mà không nằm trong phần quyền của người giám hộ do Tòa án xác định; Ba là, phạm vi xác lập giao dịch dân sự của người hạn chế năng lực hành vi dân sự: Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác (khoản 2 Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Thứ hai, trường hợp cá nhân là người chưa thành niên. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Phạm vi giao dịch dân sự do người chưa thành niên xác lập được xác định theo từng các trường hợp sau đây: Một là, phạm vi xác lập giao dịch dân sự của cá nhân chưa đủ 6 tuổi: Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện; Hai là, phạm vi xác lập giao dịch dân sự của cá nhân từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi: Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù họp với lứa tuổi; Ba là, phạm vi xác lập giao dịch dân sự của cá nhân từ đủ mười lãm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi: Nhóm cá nhân này được tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đãng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Câu 33. Ý nghĩa của chế định năng lực hành vi dân sự.
* Ý nghĩa: nhằm bảo vệ chủ thể trong các giao dịch dân sự; đặc biệt trong các trường hợp chủ thể là người năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ; người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Câu 34. Phân tích mối quan hệ giữa năng lực ý chí và năng lực hành vi dân sự.
Ý chí là khả năng có trong mỗi con người, chúng giúp kiểm soát các quyết định, cũng như bản thân của mình. Nói đơn giản, nó cách suy nghĩ, nhận thức, mong muốn nằm bên trong suy nghĩ của con người. Ý chí thể hiên ra bên ngoài bằng hành vi của mỗi cá nhân. Vì thế, có ý chí, có hành vi thì cá nhân đó mới có ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về những ý chí mà cá nhân đó đã bày tỏ khi xác lập thực hiện giao dịch. Tuy nhiên ý chí thì tồn tại sẵn trong con người, qua môi trường sống, sự va chạm mà mỗi người sẽ có ý chí riêng còn năng lực hành vi dân sự còn phải căn cứ vào độ tuổi và loại giao dịch mà cá nhân tham gia thì giao dịch dân sự mới phát sinh hiệu lực.
Câu 35. Trình bày về các mức năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên và đưa ra nhận xét quy định của BLDS 2015.
* Các mức năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên (người chưa đủ 18 tuổi):
– Người chưa đủ 6 tuổi thì giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
– Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phái được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi.
– Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Câu 36. Nhận xét Điều 23 BLDS 2015 trong mối tương quan với ý nghĩa chế định hành vi dân sự.
* Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Theo quy định tại điều 23 BLDS 2015, chủ thể được nhắc đến ở đây là người “có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”, tức là người đó không thể tự mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Câu 37. Bình luận về Điều 24 BLDS 2015 trong mối tương quan với nguyên tắc tôn trọng tính tự định đoạt của cá nhân.
* Ở một số nước trên thế giới, phạm vi chủ thể bị hạn chế về năng lực hành vi dân sự đã loại bỏ những người nghiện ma túy, nghiện chất kích thích được pháp luật bảo vệ.Bởi họ cho rằng những hành vi của những người nghiện rượu, nghiện ma túy khiến phá tán tài sản không liên quan đến năng lực hành vi dân sự, trừ lúc họ sử dụng chất kích thích.Và họ cũng đặt ra câu hỏi là liệu hạn chế năng lực hành vi của những người nghiện ma túy, người nghiện chất kích thích có vi phạm nguyên tắc tự định đoạt hay không?
* Theo như cách lý giải trên thì tài sản của người nghiện ma túy, nghiện chất kích thích là tài sản thuộc quyền sở hữu của họ thì họ có quyền định đoạt, không nhất thiết cần phải được sự đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ, không nhất thiết phải là chủ thể được pháp luật bảo vệ.
Câu 38. Bình luận về chế định năng lực hành vi dân sự trong BLDS 2015 dưới góc độ cân bằng lợi ích của chủ thể và đảm bảo an toàn trong giao dịch.
* BLDS 2015 chưa có quy định cụ thể giao dịch như thế nào được gọi là “giao dịch phù hợp nhu cầu sinh hoạt”.Bởi vậy, trong nhiều trường hợp không xác định được đâu là giao dịch mà người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;người bị hạn chế hành vi dân sự được phép thực hiện không thông qua đại diện hoặc người giám hộ.
* Trong trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dùng thủ đoạn nhằm làm cho giao dịch dân sự vô hiệu để hưởng lợi cho bản thân thì Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu hay không? Và làm thế nào để bảo vệ người thứ ba ngay tình trong các giao dịch dân sự này?
Câu 39. Khái niệm nơi cư trú của cá nhân.
* Nơi cư trú là nơi người đó thường xuyên sinh sống (khoản 1 Điều 40 BLDS 2015), hoặc là nơi người đó đang sinh sống (khoản 2 Điều 40 BLDS 2015).
Câu 40. Chỉ ra những điểm không tương thích giữa Luật cư trú và BLDS liên quan đến việc xác định nơi cư trú của cá nhân.
* Những điểm không tương đồng giữa Luật cư trú và BLDS liên quan đến việc xác định nơi cư trú của cá nhân:
– Theo Luật cư trú thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đã đăng ký thường trú hoặc tạm trú.
– Theo BLDS 2015 thì nơi cứ trú của công dân là nơi người đó thường xuyên sinh sống (khoản 1 Điều 40).
– Trong nhiều trường hợp nơi công dân đăng ký thường trú, tạm trú không phải là nơi người đó đang sinh sống, từ đó dẫn đến việc khó khăn trong việc xác định nơi cư trú của cá nhân.
Câu 41. Khái niệm và phân loại giám hộ.
* Giám hộ: là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc quy định tạo khoản 2 Điều 48 của Bô luật này để thực hiện chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
* Phân loại:
– Giám hộ cho người chưa thành niên;
– Giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự;
– Giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Câu 42. Khái niệm người được giám hộ và người giám hộ.
* Người được giám hộ:
– Người được giám hộ bao gồm:
– Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ.
– Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ dều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ.
– Người mất năng lực hành vi dân sự;
– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
* Người giám hộ:
– Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 BLDS 2015 để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Câu 43. Điều kiện để chủ thể pháp Luật Dân sự làm người giám hộ.
* Điều kiện của chủ thể làm người giám hộ:
+ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
+ Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ;
+ Không phải người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
+ Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
Câu 44. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.
* Quyền của người giám hộ:
– Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có những quyền sau đây:
– Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chỉ dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ.
– Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lí tài sản của người được giám hộ.
– Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện gian dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
* Nghĩa vụ của người giám hộ được chia làm ba trường hợp theo đối tượng giám hộ.
– Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ 15 tuổi:
– Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
– Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ 15 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
– Quản lý tài sản của người được giám hộ;
– Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
– Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi:
– Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hp pháp luật quy định người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể tự mình thự hiện, xác lập giao dịch dân sự.
– Quản lí tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
– Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
– Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng lục hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:
– Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau:
+ Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
+ Đại diện cho người được giám hộ tham gia các giao dịch dân sự;
+ Quản lí tài sản của người được giám hộ
+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
– Người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của mình có nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều 57 BLDS 2015.
Câu 45. Quản lí tài sản của người được giám hộ.
* Quản lí tài sản đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự:
– Quản lí như tài sản của chính mình, được thực hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người giám hộ.
– Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, giao dịch dân sự khác đối với tài sản lớn phải có sự
đồng ý của người giám sát giám hộ.
– Không được tặng cho người khác.
– Giao dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp luật định.
* Quản lí tài sản đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quuyết định của Tòa án.
Câu 46. Sự khác nhau giữa giám hộ và đại diện.
Giám hộ và đại diện là hai chế định được quy định rõ trong Bộ Luật dân sự 2015 ( Mục 4 Chương III về giám hộ và Chương IX về đại diện).
Về khái niệm:
Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người giám hộ cho mình để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Như vậy, về bản chất giám hộ và đại diện là 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau, giám hộ là thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Còn đại diện là nhân danh và vì lợi ích hợp pháp của người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Người giám hộ có thể đồng thời là đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật. Còn người đại diện chưa chắc đã là người giám hộ.
Về căn cứ xác lập:
Đối với giám hộ:Phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Đối với đại diện: Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền; theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Về phạm vi thực hiện:
* Đối với người giám hộ:
– Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ;
– Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ;
– Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
* Đối với đại diện:
Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:
– Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
– Điều lệ của pháp nhân;
– Nội dung ủy quyền;
– Quy định khác của pháp luật.
Về đối tượng:
* Người được giám hộ bao gồm:
– Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;
– Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;
– Người mất năng lực hành vi dân sự;
– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
* Trường hợp đại diện
+ Đại diện theo pháp luật của cá nhân
– Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
– Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
– Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện.
– Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
– Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
– Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
– Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
+ Đại diện theo ủy quyền
– Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
– Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.
Về trường hợp chấm dứt:
* Việc giám hộ chấm dứt trong trường hợp sau đây:
– Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
– Người được giám hộ chết;
– Cha, mẹ của người được giám hộ là người chưa thành niên đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình;
– Người được giám hộ được nhận làm con nuôi.
* Đại diện chấm dứt trong các trường hợp sau:
+ Đại diện theo ủy quyền
– Theo thỏa thuận;
– Thời hạn ủy quyền đã hết;
– Công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
– Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;
– Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
– Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật dân sự;
– Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.
+ Đại diện theo pháp luật:
– Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục;
– Người được đại diện là cá nhân chết;
– Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
– Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc luật khác có liên quan.
Trong hoạt động công chứng thường hay gặp nhất các trường hợp giám hộ hoặc đại diện trong các giao dịch liên quan đến hộ gia đình, thỏa thuận phân chia di sản thừa kế…Hiểu đúng bản chất của hai chế định này giúp cho công chứng viên có thể dễ dàng áp dụng chính xác những trường hợp nào cần người giám hộ, những trường hợp nào cần người đại diện. Qua đó hạn chế, ngăn ngừa các tranh chấp xảy ra, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công chứng./.
Câu 47. Chấm dứt giám hộ và hậu quả pháp lý.
* Chấm dứt giám hộ:
– Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
– Người được giám hộ chết;
– Cha, me của người được giám hộ là người chưa thành niên đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình;
– Người được giám hộ được nhận làm con nuôi.
* Hậu quả pháp lý:
– Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: trong vòng 15 ngày, kể từ ngày chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người được giám hộ, chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ cho người được giám hộ.
– Người được giám hộ chết: trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người thừa kế hoặc giao cho người quản lí tài sản của người được giám hộ, chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ cho người thừa kế của người được giám hộ;nếu trong thời hạn đó mà chưa xác định được người thừa kế của người được giám hộ thì người giám hộ tiếp tục quản lí tài sản cho đến khi tài sản được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế và thông báo cho Ủy ban nhân dan cấp xx nơi cư trú của người được giám hộ.
– Người giám hộ có cha, mẹ đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của con hoặc người được giám hộ được nhận làm con nuôi:trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản và chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ cho cha, mẹ của người được giám hộ.
Câu 48. Nhận xét về hậu quả pháp lý của chấm dứt giám hộ theo quy định của BLDS 2015 về hiệu lực giao dịch dân sự với người thứ ba.
* Theo quy định của BLDS 2015 thì người giám hộ có nghĩa vụ đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, nhưng việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền đều thuộc về người đại diện.Vì vậy, khi chấm dứt việc giám hộ thì các giao dịch dân sự trước đó do người giám hộ thực hiện để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người được đại diện đối với bên thức ba vẫn có hiệu lực.
Câu 49. So sánh giám hộ và đại diện theo pháp luật.
– Giám hộ là một trường hợp của chế định đại diện.
– Giống nhau:
+ Đại diện cho cá nhân tham gia các giao dịch dân sự khi cá nhân không thể hoặc không được phép tự mình xác lập các giao dịch dân sự.
– Khác nhau:
+ Giám hộ:
+ Chỉ áp dụng cho cá nhân
+ Có cơ chế giám sát chặt chẽ
+ Đại diện:
+ Áp dụng cho cả cá nhân và pháp nhân
+Không bị giám sát
Câu 50. Điều kiện để tuyên bố một người vắng mặt tại nơi cư trú.
* Điều kiện để tuyên bố một người vắng mặt tại nơi cư trú: Khi một người biệt tích sáu tháng liền trở lên thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
– Điều kiện cần: người được xác định là vắng mặt phải ngưng xuất hiện ở nơi cư trú liên tục trong thời gian ít nhất 6 tháng.
– Điều kiện đủ: phải có người nộp đơn yêu cầu Tòa án, sau đó Tòa án phải ra thông báo tìm kiếm.
Ghi chú: Bài viết được được tặng hoặc được sưu tầm hoặc được biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện đáp án chưa chính xác, vui lòng góp ý tại phần Bình luận. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.