Nội dung quyền tác giả

[VPLUDVN]Nội dung quyền tác giả bao gồm các quyền của các chủ thể tham gia QHPLDS này, cụ thể là của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Đó cũng là trọng tâm của sự ra đời luật bảo hộ quyền tác giả. Như vậy quyền tác giả không chỉ đơn thuần là quyền của tác giả mà còn là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả.

Trước đây, trong BLDS 1995, quyền của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả được quy định trong ba điều:

– Quyền của tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả: Điều 751.

– Quyền của tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả: Điều 752.

– Quyền của chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả: Điều 753.

Khi quan sát kỹ nội dung ba điều nói trên, chúng ta sẽ thấy tổng hợp các quyền trong hai điều 752 và Điều 753 đúng bằng các quyền được ghi nhận trong Điều 751. Như vậy là đúng với nguyên tắc bảo toàn quyền đã có từ thời La Mã “không ai có nhiều quyền hơn quyền mà họ được chuyển giao”, hay “quyền

không tự nhiên sinh ra và tự nhiên mất đi, nó chỉ được chuyển từ người này sang người khác” (nemo plus iuris in alieni transfere plus quam ipse habet). Hiện nay, quyền tác giả được tập trung lại thành hai mảng lớn: quyền nhân thân (Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ) và quyền tài sản (Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ).

1. Quyền nhân thân

Quyền nhân thân bao gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao, bao gồm ba quyền: quyền được đặt tên tác phẩm, đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của nội dung tác phẩm. Nếu chúng ta ví tác phẩm là đứa con tinh thần của tác giả, thì các quyền nhân thân này cũng tương tự quyền của cha mẹ được đặt tên cho con, nhận con và bảo vệ chăm sóc con cái. Vì là quyền nhân thân không được chuyển giao nên nó chỉ được dành cho tác giả (cho dù đồng thời hay không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả). Các quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và danh dự của tác giả, tồn tại một cách độc lập đối với quyền tài sản, gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm đã được chuyển giao. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được bảo hộ vô thời hạn, khác với những quyền khác được bảo hộ có thời hạn.

Về quyền bảo vệ sự toàn vẹn nội dung của tác phẩm, xin lưu ý là quyền bảo vệ sự toàn vẹn này chỉ liên quan đến “nội dung tác phẩm”, chứ không nhắc đến “phương thức thể hiện tác phẩm”. Thí dụ một cộng tác viên gửi bài đăng lên báo có thể bị ban biên tập chỉnh sửa một số câu chữ quá dài dòng hay không đúng chính tả. Một luật sư là người lao động ở một văn phòng luật sư, có các bài tư vấn, sau khi thôi không công tác trong văn phòng này nữa thì các luật sư khác trong văn phòng có thể sử dụng lại các bài tư vấn này, chỉnh sửa câu chữ có liên quan. Hành vi biên tập không phải là xâm phạm quyền tác giả. Tuy vậy nếu sự chỉnh sửa làm thay đổi nội dung tác phẩm thì phải có sự đồng ý của tác giả. Một số vụ kiện hiện nay về bản quyền cũng liên quan đến vấn đề bảo vệ sự toàn vẹn của nội dung tác phẩm. Điển hình là vụ nhà văn Nguyễn Kim Ánh kiện Xưởng Phim truyện 1 về bộ phim “Hôn nhân không giá thú”. Bộ phim dựa trên truyện ngắn cùng tên đã được giải thưởng của nhà văn Nguyễn Kim Ánh.

Tác giả tác phẩm văn học đã bất bình khi thấy nội dung tác phẩm của mình qua tay nhà viết kịch bản và đạo diễn bộ phim đã bị thay đổi rất nhiều, đến nỗi “không còn nhận ra đứa con tinh thần của mình nữa”. Án dân sự sơ thẩm bác đơn kiện của nhà văn Nguyễn Kim Ánh, vì theo cơ quan giám định – Cục Điện ảnh “việc sửa đổi nội dung tác phẩm chỉ làm tác phẩm hay thêm.” Song như chúng ta biết, việc đánh giá quyền tác giả không phải ở chất lượng hay dở của tác phẩm.

Mặc dù quyền nhân thân không gắn với tài sản cũng là quyền quan trọng, nhưng quyền quan trọng nhất trong tất cả các nội dung của quyền tác giả là các quyền nhân thân gắn với tài sản. Đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm (về khái niệm sử dụng, xin xem phần trình bày dưới đây). Chính từ này làm phát sinh bản chất độc quyền của quyền tác giả. Nhiều người cho rằng, trước kia khi chưa có quyền tác giả vẫn có nhà văn, nhạc sỹ, nhà khoa học. Họ có quyền đặt tên, đứng tên, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, sử dụng tác phẩm hay nhận thù lao, giải thưởng. Nay có quyền tác giả, thì cũng chính những người đó có những quyền này, chẳng có gì khác. Hay nói khác đi, các chế định về quyền tác giả không mang lại cho các chủ thể nhiều quyền hơn cái bản thân họ từ trước đến nay vẫn có. Nhận xét trên không sai nếu chúng ta quên mất một quyền của tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả, đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm.56 Quyền này là quyền nhân thân có thể chuyển giao, gắn với các quyền tài sản trong chế định quyền tác giả, vì thế nó chỉ giành cho chủ sở hữu quyền tác giả và tác giả nếu như tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả.

Việc quy định bảo hộ quyền nhân thân không gắn với tài sản trong luật về quyền tác giả chỉ có ở các nước theo hệ thống luật lục địa, chứ không có ở các nước theo hệ thống luật chung, một phần vì họ coi các quyền này là điều hiển nhiên. Đối với quyền nhân thân gắn với tài sản, khái niệm này cũng chỉ tồn tại ở các nước theo hệ thống luật xã hội chủ nghĩa trước đây (Nga, Ba Lan, v.v.) chứ không tồn tại ở các nước theo hệ thống luật lục địa khác như Pháp, Đức. Tại các nước này các quyền cho/không cho người khác sử dụng tác phẩm được coi là một quyền tài sản (quyền định đoạt đối với tác phẩm của mình).

2. Quyền tài sản

Theo luật Việt Nam, quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng và quyền được hưởng thù lao giải thưởng. Thông thường chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng quyền sử dụng, còn tác giả được hưởng thù lao, giải thưởng.

Quyền sử dụng bao gồm quyền công bố, phổ biến, trình diễn, sao chép, cải biên, chuyển thể, ghi âm, ghi hình, phát thanh truyền hình, cho thuê tác phẩm. Quyền sử dụng này gắn liền với quyền nhân thân gắn với tài sản (cho/không cho sử dụng tác phẩm). Vì thế, mọi hành vi sử dụng tác phẩm (sao chép, dịch, chuyển thể, v.v.) mà không xin phép chủ sở hữu quyền tác giả là xâm phạm quyền tác giả, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác.

Các hành vi sử dụng tác phẩm quan trọng nhất bao gồm:

– Sao chép và phân phối, bán tác phẩm: hành vi sao chép có thể bao gồm sao chép toàn bộ tác phẩm hay một phần quan trọng của tác phẩm. Sao chép khác với trích dẫn. Trích dẫn là việc sử dụng một phần tác phẩm (không đáng kể) của người khác để nêu bật ý tác giả. Việc trích dẫn phải không đơn thuần vì mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng bình thường tác phẩm và phải nêu nguồn gốc tác phẩm.

Các hành vi sử dụng không phải là trích dẫn đều có thể bị coi là sao chép và phải được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Sao chép có thể tiến hành dưới dạng trực tiếp (thí dụ thu băng đĩa, photocopy, sao phần mềm trên ổ cứng máy vi tính) hay dưới dạng gián tiếp (thí dụ dùng máy ghi âm, máy quay phim để ghi âm, ghi hình buổi hoà nhạc hay một bộ phim chiếu ở rạp).

– Công bố, phổ biến, phát thanh, truyền hình: quyền này còn được gọi là quyền “truyền thông đến công chúng” (communication to the public) bao gồm các hành vi trình diễn, phân phối tác phẩm đến một số lượng đáng kể người sử dụng. Thí dụ bao gồm trình diễn một vở kịch hay một buổi hoà nhạc, phát hành một đĩa nhạc. Việc đưa một tác phẩm lên mạng ngày nay cũng được coi là truyền thông đến công chúng.

– Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, tuyển tập, chú giải (còn gọi là làm tác phẩm phái sinh). Khi một người muốn dịch, cải biên, chuyển thể một tác phẩm, họ phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả gốc, bởi vì những hành vi kể trên là những hành vi sử dụng tác phẩm, mà chủ sở hữu quyền tác giả có quyền cho hay không cho (Điều 757 BLDS).

Ngoài ra, khi một nhà xuất bản muốn phát hành một tác phẩm viết, cũng phải xin chấp thuận của chủ sở hữu quyền tác giả. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không được sự đồng ý từ trước của chủ sở hữu quyền tác giả đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả (trừ các trường hợp sử dụng hạn chế do pháp luật quy định). Tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể được coi là những tác phẩm riêng, khác với tác phẩm gốc.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *