Câu hỏi tự luận chương 1: Những vấn đề chung về quan hệ kinh tế quốc tế
1. Hãy nêu khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế .
*Quan hệ kinh tế quốc tế là gì ?
Tại Việt Nam, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương lớn được Đảng ta đề cập xuyên suốt trong các kì Đại hội từ Đại hội VI đến Đại hội XII nhằm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam từng bước, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đen nay, sau hơn 30 năm thực hiện chỉnh sách đổi mới và mở cửa, đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam, giúp Việt Nam hợp tác sâu, rộng với các quốc gia trong khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Theo đó, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hầu hết các quốc gia trên thế giới, kí kết được hàng trăm hiệp định thương mại và đầu tư song phương; Tham gia vào các tố chức kinh tế khu vực như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), Hiệp định Đổi tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thải Bình Dương (TPTPP); Cùng các nước trong khu vực tham gia vào Cộng đồng Kinh tế Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), (AEC); Tham gia đàm phán và ký kết hàng chục hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới. Bên cạnh đỏ, Việt Nam cũng tham gia vào các định chế kinh tế quốc tế lớn với phạm vi hoạt động toàn cầu như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
* Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế
Để phản ánh sự phụ thuộc giữa các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới với nhau trong quá trình tồn tại và phát triển, thuật ngữ quan hệ kinh tế quốc tế đã được sử dụng.
Quan hệ kinh tế quốc tế là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ về kinh tế giữa từ hai quốc gia trên thế giới với nhau. Không một quốc gia nào trên thế giới tồn tại, phát triển có hiệu quả mà không có mối quan hệ nào với các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.
Quan hệ kinh tế quốc tế là yếu tố cơ bản giúp hình thành và phát triển nền kinh tế thế giới. Quan hệ kinh tế quốc tế phản ánh yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thế giới. Quan hệ kinh tế quốc tế là những mối quan hệ tất yếu phát sinh trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế.
Dấu hiệu để nhận biết và phân biệt quan hệ kinh tế quốc tế với nhiều loại quan hệ khác giữa các quốc gia: Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ chứa đựng đồng thời cả quan hệ kinh tế và quan hệ quốc tế. Theo đó:
– Quan hệ kinh tế được hiểu là quan hệ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, tổ chức – quản lý sản xuất kinh doanh, sử dụng lao động, phân phối sản phẩm, dịch vụ trong xã hội và các quan hệ khác phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các quan hệ kinh tế chịu sự chi phối và tác động của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lợi ích cận biên giảm dần, quy luật lưu thông tiền tệ…
Mỗi quốc gia trên thế giới, để tồn tại và phát triển đều cần có các mối quan hệ với các quốc gia khác, như quan hệ liên quan đến an ninh quốc gia, biên giới lãnh thổ, văn hóa – xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, môi trường… Trong khuôn khổ môn học này, chúng ta không nghiên cứu các mối quan hệ giữa các quốc gia, mà chỉ tập trung nghiên cứu về quan hệ kinh tế giữa các quốc gia.
– Quan hệ quốc tế được hiểu là quan hệ có yếu tố nước ngoài, hoặc chúng có phạm vi vượt quá biên giới một quốc gia.
Trong thực tiễn hoạt động kinh tế có các quan hệ kinh tế chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc gia, tuy nhiên cũng có rất nhiều hoạt động kinh tế diễn ra trên phạm vi vượt quá biên giới một quốc gia hoặc có liên quan đến yếu tố nước ngoài. Trong khuôn khổ môn học này, chúng ta chỉ xem xét các hoạt động kinh tế có phạm vi vượt quá biên giới một quốc gia hoặc có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
Các ví dụ điển hình thể hiện mối quan hệ về kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới có thể kể tới: quan hệ xuất, nhập khẩu hàng hóa, đầu tư nước ngoài, chuyển giao khoa học – công nghệ, xuất, nhập khẩu sức lao động, thanh toán quốc tế…
về nguồn luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế quốc tế: với sự đan xen và thể hiện rất phong phú của các quan hệ kinh tế quốc tế, trên thực tế, quan hệ kinh tế quốc tế là đối tượng điều chỉnh của cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
2. Khái niệm nền kinh tế thế giới
Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới, có mối quan hệ phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế. Nhờ có các quan hệ kinh tế quốc tế mà nền kinh tế các quốc gia có thể liên kết với nhau, hình thành một chỉnh thể có tính thống nhất.
Quan hệ kinh tế quốc tế và nền kinh tế thế giới là hai khái niệm có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nền kinh tế thế giới hình thành và phát triển do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
– Nền kinh tế thế giới chỉ xuất hiện khi sự phân công lao động xã hội vượt khỏi biên giới quốc gia, tức mang tính quốc tế.
– Các nước công nghiệp phát triển, việc tổ chức sản xuất các sản phẩm thường có quy mô rất lớn, vượt xa khả năng tiêu dùng trong nội bộ một quốc gia. Do đó có nhu cầu đầu tư vốn, khoa học – công nghệ sang các nước đang và kém phát triển với mong muốn thu được lợi nhuận cao hơn và giảm chi phí sản xuất (khi tận dụng được nguồn nhân công, tài nguyên rẻ tại các nước này).
– Các nước đang và kém phát triển ngày càng có nhu cầu mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế để tiếp nhận kĩ thuật, công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý từ các nước công nghiệp phát triển trên thế giới nhằm bù đắp vào những thiếu hụt tại quốc gia mình.
– Các điều kiện về giao thông, liên lạc, tài chính…, đặc biệt là giao dịch trực tuyến thông qua internet ngày càng phát triển.
– Pháp luật và thông lệ quốc tế frong hoạt động kinh tế ngày càng được các quốc gia trên thế giới chấp nhận và sử dụng rộng rãi.
3. Các hình thức thể hiện của quan hệ kinh tế quốc tế
Các hình thức thể hiện cụ thể của quan hệ kinh tế quốc tế có thể kể tới:
– Quan hệ thương mại quốc tế (bao gồm thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ quốc tế);
– Quan hệ đầu tư quốc tế;
– Quan hệ quốc tế về dịch chuyển sức lao động;
– Quan hệ quốc tế về trao đổi khoa học – công nghệ (hay còn gọi là quan hệ quốc tế về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại);
– Quan hệ tài chính – tiền tệ quốc tế;
– Các quan hệ quốc tế khác phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Như vậy, nội dung thể hiện các quan hệ kinh tế quốc tế rất phong phú và đa dạng. Các nội dung này có thể thay đổi, phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Cần lưu ý : Phạm vi của các quan hệ kinh tế quốc tế rất rộng, chúng ta cần phân biệt nó với một số thuật ngữ khác:
4. Phân biệt “quan hệ kinh tế quốc tế” với “quan hệ kinh tế đối ngoại”:
– “Quan hệ kinh tế đối ngoại”: là những mối quan hệ về kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ của của một quốc gia với phần còn lại của thế giới
– “Quan hệ kinh tế quốc tế”: là tổng thể các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của các nền kinh tế xét trên phạm vi toàn thế giới.
Quan hệ kinh tế đối ngoại nhìn nhận từ góc độ một nền kinh tế, một quốc gia còn quan hệ kinh tế quốc tế nhìn nhận trên phạm vi toàn thế giới. Nói cách khác, quan hệ kinh tế đối ngoại là một bộ phận của quan hệ kinh tế quốc tế.
5. Phân biệt “quan hệ kinh tế quốc tế” với “quan hệ thương mại quốc tế”:
Theo nghĩa rộng, có thể hiểu thương mại quốc tế là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế. Theo ủy ban của Liên họp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), thương mại quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm các hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tể, theo đó bao gồm các hoạt động thương mại và đàu tư quốc tế, từ mua bán hàng hóa hữu hình đến các dịch vụ như bảo hiểm, tài chính, tín dụng, chuyển giao công nghệ, thông tin, vận tải, du lịch…
Theo nghĩa hẹp, thương mại quốc tế được hiểu là hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa hữu hình giữa các nước nhằm mục đích mang lại lợi ích mà hoạt động buôn bán, trao đổi trong nước không có hoặc không bằng.
Hoạt động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất trong Các quan hệ kinh tế quốc tế và nó được ví là “cây cầu” lớn nhất nối liền nền kinh tế của các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, việc mở rộng phạm vi “quan hệ thương mại quốc tế” và “quan hệ kinh tế quốc tế” đến đâu còn phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới, chúng không phải là những khái niệm bất biến.
6. Phân tích vai trò của các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế.
a) Nhóm các quốc gia, vùng, lãnh thổ, các nền kinh tế (ở đây vừa có quốc gia vừa có các nền kinh tế là do khái niệm quốc gia và nền kinh tế rất khác nhau: trong đa số các trường hợp thì một quốc gia là một nền kinh tế, nhưng một nền kinh tế chưa chắc đã là một quốc gia, ví dụ như khi nói Nền kinh tế EU nhất là trong điều kiện liên kết kinh tế quốc tế hiện nay, Nền kinh tế ASEAN v.v… chứ không phải riêng lẻ từng nước. Hoặc với lý do tế nhị trong quan hệ ngoại giao khuôn khổ của APEC thì người ta luôn gọi là các nền kinh tế thành viên chứ không gọi là các quốc gia thành viên như các tổ chức quốc tế khác là do trong APEC có cả Trung Quốc và Đài Loan, nếu như gọi là các quốc gia thành viên thì có nghĩa là APEC thừa nhận Đài Loan là một quốc gia mà như vậy sẽ làm cho Trung Quốc không hài lòng). Do vậy khái niệm các nền kinh tế có thể là rộng hơn hoặc hẹp hơn phạm vi quốc gia tuỳ từng trường hợp và được sử dụng rộng rãi hơn.
c) Nhóm các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB, IFC – International Financial Co-oporation v.v…).
d) Nhóm các tổ chức của Liên Hiệp Quốc (FAO, UNDP, UNCTAD –United Nations Conference Trade and Development: Diễn đàn của Liên Hiệp quốc về thương mại và phát triển: Đặc thù của diễn đàn này là đứng về khía cạnh của các nước đang phát triển v.v…).
e) Nhóm các công ty, tập đoàn, hãng, xí nghiệp v.v… – Một trong những loại hình công ty sẽ được nghiên cứu nhiều trong môn học này là các công ty xuyên quốc gia, vai trò của loại hình công ty này ngày càng đóng vai trò chủ chốt không chỉ trong thương mại mà còn trong lĩnh vực đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ; Hầu như những tập đoàn lớn như IBM, Toyota, Nisan, Misubishi, Intel v.v… đều là những tập đoàn xuyên quốc gia, do vậy chiến lược hoạt động của các công ty này như thế nào về các khía cạnh như đầu tư, lý do để tiến hành sáp nhập theo chiều dọc, ngang … sẽ là những vấn đề được đi sâu sau này.
7. Trình bày về xu hướng toàn cầu hóa kinh tế và khu vực hóa kinh tế, nêu mối quan hệ của hai xu hướng này.
- Toàn cầu hóa là gì?
Toàn cầu hóa nghĩa là kết nối các nền kinh tế trên khắp thế giới về thương mại, đầu tư, lao động, ngân hàng, dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ, và con người. Định nghĩa trên có vẻ khó hiểu, nhưng tóm lại, toàn cầu hóa là việc chính phủ các nước ngày càng cho phép công dân của họ được làm việc xuyên biên giới.
Tuy vậy, đây vẫn còn là một khái niệm khá rộng.
Toàn cầu hóa không phải là một định nghĩa cố định. Toàn cầu hóa có thể diễn ra dưới bất cứ cách thức nào, miễn là thông qua đó, các quốc gia trở nên kết nối hơn. Mặc dù là một hiện tượng mới, nhưng thuật ngữ “toàn cầu hóa” đã được dùng phổ biến kể từ những năm 1990. Sự sụp đổ của Liên Xô đã tạo ra ý tưởng về một thế giới mới kết nối với nhau, nơi con người không còn bị chia cách bởi Chiến tranh lạnh, cho phép toàn cầu hóa ăn sâu vào ý thức con người.
Toàn cầu hóa trong thương mại và việc làm
Hình thức phổ biến nhất của toàn cầu hóa là ngoại thương.
Toàn cầu hóa trong thương mại nghĩa là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài. Cụ thể, các công ty giao thương với nước ngoài là để tiếp cận các sản phẩm mà họ không thể tìm thấy trong nước, đồng thời tìm cơ hội tiếp cận thị trường mới để xuất khẩu hàng hóa, hoặc tìm kiếm những môi trường kinh doanh chi phí thấp thông qua lợi thế tương đối.
- Xu hướng khu vực hóa kinh tế
Khái niệm: Là sự liên kết hợp tác kinh tế của các quốc gia trong các khu vực trên thế giới trên cơ sở tương đồng về địa lí, văn hóa, xã hội, hoặc có chung mục tiêu, lợi ích phát triển.
Các tổ chức liên kết kinh tế khu vực
– Nguyên nhân: do phát triển không đều và sức ép cạnh tranh trên thế giới, những quốc gia tương đồng về văn hóa, xã hội, địa lí hoặc có chung mục tiêu, lợi ích.
– Các tổ chức liên kết khu vực: NAFTA, EU, ASEAN, APEC…
Hệ quả của khu vực hóa kinh tế
– Thời cơ: vừa hợp tác vừa cạnh tranh tạo nên sự tăng trưởng kinh tế, tăng tự do thương mại, đầu tư, bảo vệ lợi ích kinh tế các nước thành viên; tạo những thị trường rộng lớn, tăng cường toàn cầu hóa kinh tế.
– Thách thức: quan tâm giải quyết vấn đề như chủ quyền kinh tế, quyền lực quốc gia.
=>> Mối quan hệ: khu vực hóa kinh tế là cơ hội lớn và là bước đệm để các quốc gia trên trên giới tiến tới toàn cầu hóa kinh tế. Trong khi áp lực của toàn cầu hóa quá lớn đặt ra thách thức đối với các quốc gia trong việc mở cửa nền kinh tế thì lựa chọn liên kết khu vực sẽ giúp các nước tích lũy dần về kinh nghiệm cũng nhưu tăng trưởng tạo nên một liên minh chặt chẽ cùng nahu phát triển so với phần còn lại của TG từ đó giúp giảm áp lực cạnh tranh toàn cầu đã đặt ra trước đó.
8. Tác động tích cực của toàn cầu hoá, khu vực hoá đối với các nước đang phát triển
a. Phát huy được lợi thế so sánh để phát triển
Lợi thế so sánh luôn biến đổi phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước. Nước nào có nền kinh tế càng kém phát triển thì lợi thế so sánh càng suy giảm. Đa số các nước ĐPT chỉ có lợi thế so sánh bậc thấp như lao động rẻ, tài nguyên, thị trường…. Đó là một thách thức lớn đối với các nước ĐPT. Nhưng TCH, KVH cũng mang lại cho các nước ĐPT những cơ hội lớn mới, nếu biết vận dụng sáng tạo để thực hiện được mô hình phát triển rút ngắn. Chẳng hạn, bằng lợi thế vốn có về tài nguyên, lao động, thị trường, các ngành công nghiệp nhẹ, du lịch, dịch vụ…. các nước ĐPT có thể tham gia vào tầng thấp và trung bình của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu với cơ cấu kinh tế có các ngành sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên liệu, cần ít vốn đầu tư, công nghệ trung bình tiên tiến tạo ra những hàng hoá – dịch vụ không thể thiếu trong cơ cấu hàng hoá – dịch vụ trên thị trường thế giới. Để làm được việc đó các nước ĐPT có cơ hội tiếp nhận được các dòng vốn quốc tế, các dòng kỹ thuật – công nghệ mới và kỹ năng quản lý hiện đại. Nhưng cơ hội đặt ra như nhau đối với các nước ĐPT, song nước nào biết tận dụng nắm bắt được chúng thì phát triển. Điều đó phụ thuộc vào nhân tố chủ quan, vào nội lực của mỗi nước.
Việc phát huy tối đa lợi thế so sánh trong quá trình TCH, KVH của các nước ĐPT là nhằm tận dụng tự do hoá thương mại, thu hút đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Tỷ trọng mậu dịch thế giới trong tổng kim ngạch mậu dịch thế giới của các nước ĐPT ngày một tăng (1985: 23%, 1997: 30%). Các nước ĐPT cũng ngày càng đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế, tỷ trọng hàng công nghiệp trong cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng tăng (1985: 47%, 1998: 70%) và các nước ĐPT đang nắm giữ khoảng 25% lượng hàng công nghiệp xuất khẩu trên toàn thế giới.
b. Tăng nguồn vốn đầu tư
Kinh tế TCH, KVH biểu hiện nổi bật ở dòng luân chuyển vốn toàn cầu. Điều đó tạo cơ hội cho các nước ĐPT có thể thu hút được nguồn vốn bên ngoài cho phát triển trong nước, nếu nước đó có cơ chế thu hút thích hợp. Thiết lập một cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư nội địa hợp lý là cơ sở để định hướng thu hút đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm các ưu đãi từ những điều kiện và môi trường đầu tư bên trong để thúc đẩy chương trình đầu tư của họ. Các nước đang phát triển đã thu hút và sử dụng một lượng khá lớn vốn nước ngoài cùng với nguồn vốn đó, vốn trong nước cũng được huy động. Theo Báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, năm 1996 các nước ĐPT tiếp nhận 129 tỷ USD FDI, đến năm 1999 FDI vào các nước ĐPT tăng lên 198 tỷ USD, trong đó 97 tỷ USD vào Mỹ Latinh (Braxin chiếm 31 tỷ), 91 tỷ USD vào Châu Á (riêng Trung Quốc chiếm 40 tỷ).
TCH, KVH đã tạo ra sự biến đổi và gia tăng cả về lượng và chất dòng luân chuyển vốn vào các nước đang phát triển, nhất là trong khi các nước ĐPT đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn đầu tư cho phát triển. Chẳng hạn, lượng vốn đầu tư vào các nước ĐPT tăng khá nhanh: 1980: 30 tỷ USD; 1990: 60 tỷ USD; 1996: gần 200 tỷ USD; năm 1997 các nước ĐPT thu hút tới 37% lượng vốn FDI toàn thế giới. Trong dòng vốn đầu tư vào các nước ĐPT thì dòng vốn tư nhân ngày càng lớn.
c. Nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ
Trước xu thế TCH, KVH, các nước ĐPT tuỳ theo vị thế, điều kiện lịch sử cụ thể và trình độ phát triển của mình đều có cách thức riêng phát triển theo con đường rút ngắn. Hai trong số nhiều con đường phát triển là: Thứ nhất, du nhập kỹ thuật – công nghệ trung gian từ các nước phát triển để xây dựng những ngành công nghiệp của mình như là một bộ phận hợp thành trong tầng công nghiệp hiện đại. Tuỳ thuộc vào khả năng vốn, trí tuệ… mà các nước ĐPT lựa chọn một hoặc cùng lúc cả hai con đường phát triển nói trên. TCH, KVH cho phép các nước ĐPT có điều kiện tiếp nhận các dòng kỹ thuật – công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước phát triển để nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ của mình. Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào khả năng của từng nước biết tìm ra chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn thích hợp.
Trong quá trình TCH, KVH các nước ĐPT có điều kiện tiếp cận và thu hút những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, qua đó mà nâng dần trình độ công nghệ sản xuất của các nước ĐPT. Do vậy, mà ngày càng nâng cao được trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế các nước ĐPT. TCH, KVH được đánh giá như một công cụ đặc hiệu để nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ ở các nước ĐPT. Bởi lẽ, trong quá trình tham gia vào liên doanh, liên kết sản xuất quốc tế, hợp đồng hợp tác kinh doanh, các dự án FDI… các nước ĐPT có điều kiện tiếp cận những công nghệ, kiến thức và kỹ năng hết sức phong phú, đa dang của các nước đang phát triển.
d. Thay đổi được cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
TCH, KVH đòi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các nước ĐPT phải tổ chức lại với cơ cấu hợp lý. Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Nhưng ở các nước phát triển những ngành có hàm lượng chất xám, hàm lượng công nghệ cao, hàm lượng vốn lớn… đang chiếm ưu thế, còn ở những nước ĐPT chỉ có thể đảm nhận những ngành có hàm lượng cao về lao động, nguyên liệu và hàm lượng thấp về công nghệ, vốn. Tuy nhiên, nếu nước ĐPT nào chủ động, biết tranh thủ cơ hội, tìm ra được con đường phát triển rút ngắn thích hợp, thì có thể vẫn sớm có được nền kinh tế tri thức. Điều đó đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn. Quá trình TCH, KVH sẽ dẫn đến tốc độ biến đổi cao và nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu, điều đó buộc nền kinh tế mỗi nước, muốn phát triển, không còn con đường nào khác là phải hoà nhập vào quỹ đạo vận động chung của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế nào bắt kịp dòng vận động chung thì phát triển, không thì dễ bị tổn thương và bất định. Mỗi nước ĐPT cần phải tìm cho mình một phương thức để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thích hợp để có thể phát triển rút ngắn. Hầu hết các nền kinh tế của các nước ĐPT đều tiến tới mô hình kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế dựa vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến. Đây là một mô hình kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhưng nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế đòi hỏi chính phủ các nước phải có quan niệm đúng và xử lý khéo quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ ở mức cần thiết; đồng thời phải nắm bắt được các thông lệ và thể chế kinh tế bên trong, giải quyết đúng đắn việc kết hợp các nguồn lực bên ngoài thành nội lực bên trong để phát triển. Nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế muốn phát triển ổn định, đòi hỏi cơ cấu kinh tế bên trong phải đủ mạnh, cơ cấu xuất khẩu đa dạng, thể chế kinh tế linh hoạt và có năng lực thích ứng để đương đầu với những thay đổi của các điều kiện phát triển toàn cầu. Điều đó buộc các nước ĐPT phải tìm ra con đường công nghiệp hoá rút ngắn thích hợp. Nhiều nước chọn mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, dựa vào tăng trưởng các sản phẩm công nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế tạo sẽ giúp nền kinh tế các nước ĐPT nhanh chóng chuyển được nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước chuyển tới nền kinh tế tri thức. Sự dịch chuyển này đến đâu phụ thuộc vào trình độ thích ứng về tiếp nhận công nghệ, khả năng về vốn, khai thác thị trường. Dù bước chuyển dịch ở trình độ nào, nền kinh tế ở các nước ĐPT đều chú trọng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ; đồng thời tập trung nỗ lực phát triển các ngành có khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy, cơ cấu kinh tế của nhiều nước ĐPT đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng thay đổi, chất lượng hàng hoá xuất khẩu được nâng lên theo hướng đạt các tiêu chuẩn quốc tế, tỷ trọng sản phẩm qua chế biến đã tăng từ 5,65% (năm 1980) lên 77,7% (năm 1994).
TCH, KVH đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia cơ cấu lại nền kinh tế của mình. Nền kinh tế toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng, thì nền kinh tế của các nước ĐPT, nếu muốn phát triển, không còn con đường nào khác là phải nhanh chóng hoà nhập vào quỹ đạo vận động chung của nền kinh tế thế giới. Các nước phải bắt kịp các động thái của dòng vận động tiền vốn, kỹ thuật – công nghệ, hàng hoá – dịch vụ khổng lồ của thế giới. Tính bất định và mức độ dễ bị tổn thương với tính cách là hệ quả của những động thái này đang ngày càng gia tăng, nhất là đối với nền kinh tế các nước ĐPT.
e. Mở rộng kinh tế đối ngoại
TCH, KVH làm cho quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu hướng tất yếu và diễn ra hết sức mạnh mẽ do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ. TCH, KVH đang diễn ra với tốc độ cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nước ĐPT. Và chỉ bằng cách đó mới có thể khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế. Đồng thời, TCH, KVH, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế càng đẩy mạnh thì càng tạo ra những cơ hội và thách thức mới mà chỉ có sự phối hợp quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại thì mới có thể tranh thủ được những cơ hội, vượt qua được những thách thức. Thực tế lịch sử cũng đã khẳng định rằng: ngày nay không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không thiết lập quan hệ kinh tế với các nước khác, và do vậy không một quốc gia nào, kể cả các nước ĐPT, lại không thực hiện việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong hoàn cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, quá trình TCH, KVH được thúc đẩy mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành một nhân tố không thể thiếu để thực hiện tái sản xuất mở rộng ở mỗi nước, nhất là những nước ĐPT.
f. Cơ sở hạ tầng được tăng cường
Quá trình TCH, KVH đã tạo ra cơ hội để nhiều nước ĐPT phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, về bưu chính viễn thông, về điện, nước… ở các nước ĐPT, mức thu nhập tính theo đầu người rất thấp, do đó tích luỹ cũng vô cùng thấp vì phần lớn thu nhập dùng vào sinh hoạt. Trong khi đó các nước ĐPT lại rất cần những lượng vốn lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng những công trình thiết yếu nhằm phát triển kinh tế. Bởi vậy, xuất hiện khoảng cách lớn giữa nhu cầu đầu tư và tích luỹ vốn. Cho nên các nước ĐPT muốn tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng thì phải biết tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ có thông qua các quan hệ kinh tế đối ngoại mới có thể cải tạo, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của các cơ sở sản xuất hiện có; cải tiến, hiện đại hoá công nghệ truyền thống; xây dựng những hướng công nghệ hiện đại… Nhờ đó mà xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế.
g. Học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
Các nước có nền kinh tế phát triển thường có phương thức, cách thức quản lý nền kinh tế tiên tiến với những công cụ quản lý hiện đại. Thông qua các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế các nước ĐPT học tập những kinh nghiệm quản lý tiên tiến hiện đại của các nước phát triển. Học tập trực tiếp qua các dự án đầu tư, qua các Xí nghiệp, Công ty liên doanh…., qua việc đàm phán ký kết các hợp đồng kinh tế…
9. Bình luận về sự trỗi dậy của xu hướng bảo hộ mậu dịch tại nhiều nước trên thế giới sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008.
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Bạc/Vàng/Kim Cương để xem chi tiết...
10. Xu hướng bảo hộ thương mại thời gian gần đây
Trong nhiều thập kỷ qua, thương mại toàn cầu dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh, cho thấy, các quốc gia thường chỉ làm ra những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh cao nhất nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Lợi thế so sánh của mỗi nền kinh tế dựa vào các yếu tố như khoa học và công nghệ, khả năng sáng tạo, nhân công rẻ, nguyên liệu dồi dào, thậm chí cả các yếu tố mang tính can thiệp của chính quyền như chính sách bảo hộ, hàng rào thuế quan… Về bản chất, đó là sự phân công lao động trong dây chuyền sản xuất toàn cầu.
Có thể thấy rằng, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại tuy là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới nhưng do sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa các quốc gia; giữa các khu vực, tầng lớp, thành phần xã hội trong mỗi quốc gia đã dẫn đến xu hướng chống toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, thương mại thế giới đã xuất hiện thêm các hình thức thương mại hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới, “xóa nhòa biên giới quốc gia”, làm giảm vai trò của các lợi thế so sánh trước đây. Vì vậy, một số quốc gia thúc đẩy các doanh nghiệp dịch chuyển trở về nước mình nhằm gia tăng lợi ích của quốc gia mình. Nhiều chính phủ tuyên bố ủng hộ tự do hóa thương mại, tôn trọng các nguyên tắc thị trường, phê phán chủ nghĩa bảo hộ nhưng trên thực tế lại hành động ngược lại, kể cả áp dụng biện pháp can thiệp hành chính.
Bảo hộ thương mại là thuật ngữ kinh tế học, theo đó quốc gia áp đặt thuế nhập khẩu cao hoặc áp dụng các hàng rào kỹ thuật (yêu cầu cao về chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ…) đối với một hoặc một số mặt hàng (hay dịch vụ) mà mình có lợi thế để hạn chế nhập khẩu, bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa (hay dịch vụ) của mình.
Theo Global Trade Alert (GTA), kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008 đã có thêm 4.000 biện pháp bảo hộ thương mại mới được áp dụng gồm: biện pháp phòng vệ thương mại, tăng thuế, rào cản địa phương, trợ cấp phí xuất khẩu, và các phân biệt đối xử. Xu hướng bảo hộ trở nên rõ ràng hơn so với những năm trước đó. Chỉ riêng trong 10 tháng đầu năm 2015, GTA đã ghi nhận 539 biện pháp bảo hộ, nhiều hơn so với 407 biện pháp bảo hộ trong cùng kỳ năm 2014 và 183 biện pháp được triển khai trong 10 tháng đầu năm 2012.
Tại châu Âu, xu hướng bảo hộ thương mại thể hiện rõ nét nhất khi nước Anh tổ chức trưng cầu dân ý (Brexit) vào năm 2016, và hiện đang đàm phán các thủ tục để rời EU, tạo ra các điều kiện, cơ hội để nước Anh đàm phán thương mại song phương với các đối tác mới trên phạm vi toàn thế giới.
Tại Mỹ, ngay từ khi tranh cử Tổng thống năm 2016, Ông Donald Trump luôn nêu ra khẩu hiệu “Nước Mỹ trước hết”. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Donald Trump thực hiện chủ trương, bất chấp những phản đối từ ngay trong nội bộ chính giới nước Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Ngày 23/1/2017, Tổng thống Donald Trump đã ký sắc lệnh rút Mỹ khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Mỹ và 11 nước trong khu vực đã ký. Tiếp đó, ngày 17/5/2017, Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đã chính thức gửi thông báo tới Quốc hội nước này về kế hoạch đàm phán lại Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) ký kết với Canada và Mexico. Đồng thời, Tổng thống Mỹ Donald Trump chủ trương đàm phán và thúc đẩy các hiệp định thương mại song phương thay vì đa phương nhằm phát huy lợi thế của Mỹ và gia tăng lợi ích của Mỹ trong thương mại quốc tế; thúc đẩy xu hướng gia tăng bảo hộ và sẵn sàng tăng thuế nhập khẩu đối với mặt hàng mà Mỹ có lợi thế để bảo vệ sản xuất trong nước.
Chỉ trong năm 2017, Mỹ đã khởi xướng 02 vụ việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ (với pin năng lượng mặt trời và máy giặt). Ngày 8/3/2017 (ngày 9/3 theo giờ Việt Nam), Tổng thống Mỹ đã ban hành quyết định áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thép và nhôm theo Mục 232 Đạo luật Thương mại mở rộng năm 1962 (Trade Expansion Act) dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu. Cụ thể, một số sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu vào Mỹ sẽ phải chịu mức thuế 25% với thép và 10% với nhôm. Quyết định này của Mỹ sẽ có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký ban hành. Lý do áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thép và nhôm bằng chính sách tăng thuế nhập khẩu được chính quyền Tổng thống Trump đưa ra là vì “an ninh quốc gia”.
Bảo hộ thương mại đã lên đến đỉnh điểm tính đến thời điểm hiện nay là xung đột thương mại Mỹ – Trung Quốc chính thức nổ ra khi Quyết định của Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump áp thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu trị giá 34 tỷ USD từ Trung Quốc, chủ yếu là máy móc, thiết bị điện tử và công nghệ cao đã chính thức có hiệu lực từ ngày 6/7/2018 và Trung Quốc áp dụng các biện pháp đáp trả. Hiện không ai có thể đoán chắc cuộc xung đột thương mại này sẽ kéo dài bao lâu, cũng như mức độ tác động của nó.
Trung Quốc vốn được đánh giá là hưởng lợi từ thương mại tự do, cũng đang theo đuổi chính sách giảm nhập khẩu từ các nước bằng các biện pháp bảo hộ những mặt hàng, sản phẩm sản xuất ở trong nước. Đồng thời, Trung Quốc cũng rất chú trọng đến việc nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, đảm bảo tính cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu nước này ra thị trường thế giới.
Báo cáo về biện pháp thương mại của G20 cho thấy, từ trung tuần tháng 10/2015 đến trung tuần tháng 5/2016, các nền kinh tế G20 đã áp dụng 145 biện pháp mới về hạn chế thương mại, trung bình mỗi tháng áp dụng 21 biện pháp, nhiều hơn so với mức trung bình 17 biện pháp/tháng trong giai đoạn 7 tháng trước đó, trong đó chủ yếu là các biện pháp chống bán phá giá. Đây cũng là mức trung bình tháng cao nhất kể từ năm 2011, thời điểm ghi nhận những biện pháp hạn chế thương mại đạt kỷ lục.
Hội nghị thượng đỉnh G7 và G7 mở rộng từ ngày 08-09/6/2018, tại Canada đã ra tuyên bố chung khẳng định vai trò cốt yếu của hệ thống thương mại quốc tế dựa trên các quy định, nêu rõ sự cần thiết của thương mại toàn cầu “tự do, công bằng và cùng có lợi”, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa bảo hộ. Các nhà lãnh đạo G7 cam kết hiện đại hóa Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sớm nhất có thể và “nỗ lực giảm các hàng rào thuế quan, các hàng rào phi thuế quan và các khoản trợ cấp của chính phủ”. Tuy nhiên, Mỹ đã rút khỏi Tuyên bố chung.
11. Phân tích tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ bốn tới sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Một là, tương quan giữa các cường quốc chính. Mỹ cùng với một số nền công nghiệp tiên tiến và có tiềm lực kinh tế mạnh như Trung Quốc, Đức, Anh và Nhật Bản sẽ tiếp tục chiếm ưu thế. Trong sản xuất công nghiệp, Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu trong việc triển khai các robot công nghiệp, tiếp sau đó là Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc và Đức. Năm 2018, số lượng robot công nghiệp được lắp đặt tại Trung Quốc vào khoảng 154.000, gấp gần ba lần so với Nhật Bản – quốc gia xếp thứ hai với gần 55.000 robot. Trung Quốc đang đầu tư mạnh vào khoa học – công nghệ và đạt được những thành tựu đáng kể về công nghệ không gian, đường sắt tốc độ cao, năng lượng mới, siêu máy tính… Các tập đoàn, doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực sản xuất thông minh như: Bosch, Haier, Johnson & Johnson, Procter & Gamble, Schneider Electric, Siemens… đều có trụ sở ở Đức và Mỹ. Tại Mỹ, lĩnh vực tự động hóa đã trở thành một nội dung chính thức trong chiến lược an ninh quốc gia của Bộ Quốc phòng Mỹ kể từ năm 2012. Đối với nước Nga, để đón đầu Cách mạng công nghiệp 4.0, Nga đã ban hành Sáng kiến Công nghệ quốc gia (năm 2014) nhằm hướng tới mục tiêu đưa Nga trở thành quốc gia dẫn đầu về công nghệ trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực quân sự
Hai là, tương quan giữa các cường quốc và các quốc gia tầm trung. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã mở ra cơ hội nâng cao vị thế của một số quốc gia tầm trung, những nền công nghệ mới nổi như Hàn Quốc, Singapore,… trong cán cân quyền lực thế giới. Điều này đã làm khoảng cách giữa các cường quốc và các quốc gia tầm trung có xu hướng dần thu hẹp. Hàn Quốc, Đức và Singapore là ba quốc gia dẫn đầu thế giới về tự động hóa công nghiệp nhờ cách tiếp cận của các quốc gia này đối với trí tuệ nhân tạo và robot. Nhật Bản và Canada cũng nằm trong nhóm 5 quốc gia dẫn đầu, Anh xếp thứ 8, Mỹ xếp thứ 9 và Trung Quốc xếp thứ 12.
Ba là, tương quan giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển. Với trình độ phát triển cùng nền tảng khoa học – công nghệ, các quốc gia đang phát triển sẽ càng phụ thuộc hơn vào các nước phát triển khi Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Ngoài ra, với đặc thù là tính tự động cao, Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra thách thức lớn đối với lực lượng lao động, theo đó, các quốc gia phát triển với nguồn lao động hạn chế có thể tận dụng cuộc cách mạng này để khắc phục những khó khăn do thiếu hụt nhân công, trong khi các quốc gia đang phát triển lại không thể tận dụng những lợi thế từ nguồn lao động dồi dào như trước. Như vậy, sự phân tầng về trình độ phát triển công nghệ giữa các quốc gia là tương đối rõ.
Quan hệ quốc tế trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các chủ thể phi quốc gia. Thực tế cho thấy, các chủ thể phi quốc gia có quyền lực ngày càng lớn mạnh cả về kinh tế lẫn công nghệ. Điều này khác với những thời kỳ trước. Địa – chính trị trong thế kỷ XX và giai đoạn trước đó gần như gắn liền với nhà nước. Có thể kể đến như hệ thống định vị toàn cầu (GPS), vốn được coi là một biểu tượng thành công cho quyền lực Mỹ nhờ khả năng giám sát và tập hợp thông tin. Công nghệ kỹ thuật số ngày nay đã làm suy giảm khả năng độc quyền của nhà nước đối với những vấn đề liên quan đến công dân và xã hội. Địa – chính trị trong thời kỳ kỹ thuật số sẽ còn tiếp tục được định hình bởi nhiều dạng thức chủ thể, từ nền tảng công nghệ, các chủ thể phi quốc gia đến các cộng đồng kỹ thuật số và các cá nhân.
Đặc biệt, những “gã khổng lồ công nghệ” sẽ có sức mạnh quản trị, ở một mức độ nào đó, giống các chủ thể quốc gia. Nếu giám đốc điều hành công nghệ muốn có sự thay đổi, họ không cần phải chờ đợi sự cho phép của chính phủ. Là nhà quản lý các lĩnh vực và không gian dịch vụ, họ có thể chủ động sắp xếp các điều khoản sử dụng với quyền con người, các nguyên tắc dân chủ và pháp quyền. Việc triển khai các mô hình quản trị sẽ đưa ra các điều khoản sử dụng mà người dùng buộc phải chấp nhận, tuân thủ. Trong nhiều năm qua, các công ty công nghệ lớn đã sử dụng công nghệ để tác động đến các cuộc bầu cử.
Thực tế cho thấy, các công ty truyền thông xã hội và công nghệ đã trở thành những chủ thể toàn cầu có quyền lực mạnh mẽ. Các quyết định của họ ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi và sự tự do của hàng tỷ người đã và đang sử dụng công nghệ. Các công ty công nghệ hiện nay đang dần tiến bước xa hơn bằng cách định vị mình như một quyền lực thống trị. Microsoft tuyên bố sẽ mở một văn phòng đại diện tại Liên hợp quốc, đồng thời chỉ định người đứng đầu bộ phận các vấn đề của châu Âu. Trong khi đó, Facebook đã cho ra mắt một “tòa án tối cao” để xem xét các quyết định kiểm duyệt nội dung gây tranh cãi khi bị chỉ trích.
Các chuyên gia phân tích cho rằng, chính các công ty công nghệ, các mạng xã hội mới là chủ thể có quyền quyết định luật chơi trong thế giới ảo. Người dùng muốn tham gia mạng xã hội phải đăng ký thông tin, phải chấp nhận những quy định mà các nhà cung cấp đưa ra, không phân biệt trình độ, tuổi tác, giới tính, dân tộc. Những quy định đó mang tính phổ quát toàn cầu, không có ngoại lệ. Những gã khổng lồ công nghệ như Facebook, Twitter và Youtube đang phát triển các nghiên cứu, phương pháp cải tiến để quản lý hàng triệu nội dung được đăng trên nền tảng của họ hằng ngày.
Các phân tích cho thấy, lợi nhuận của các công ty công nghệ lớn hơn nhiều ngân sách của một số quốc gia. Tập đoàn Apple với khoảng 240 tỷ USD dự trữ, về lý thuyết có thể khởi động một chương trình đầu tư lớn gấp đôi Kế hoạch Marshall (tính theo USD). Nếu nguồn thu của tập đoàn này so với ngân sách quốc gia của một nước, thì sẽ đứng thứ 23 trong danh sách những chủ thể có nguồn thu lớn nhất toàn cầu, trên cả Bỉ, Nga, Ấn Độ và Mexico. Theo Ngân hàng thế giới (WB), nếu lập danh sách 100 nền kinh tế lớn nhất thế giới thì sẽ gồm có 69 tập đoàn và 31 quốc gia. Có thể thấy rằng, hơn một phần ba thương mại toàn cầu đơn thuần là sự trao đổi giữa các đơn vị khác nhau trong cùng một tập đoàn chứ không phải giữa các quốc gia.
Những ứng dụng công nghệ trong Cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi cán cân quân sự giữa các quốc gia và các chủ thể phi quốc gia theo hướng nghiêng về các chủ thể phi quốc gia. Công nghệ – kỹ thuật mới đã và đang mang lại nhiều sự lựa chọn vũ khí tấn công cho các lực lượng vũ trang phi chính thức. Sự xuất hiện của máy bay không người lái thương mại đồng nghĩa với việc quân nổi dậy có thể tiến hành các cuộc tấn công từ bên ngoài phạm vi giám sát của chính phủ. Bên cạnh đó, khi công nghệ in 3D đối với máy bay không người lái trở nên phổ biến hơn, số lượng máy bay không người lái được sử dụng sẽ gia tăng đáng kể. Các loại máy bay không người lái tầm xa, như Flexrotor, Volans-I và DX-3 sẽ ngày càng được phổ biến rộng rãi trên thế giới.
12. Phân tích về chiến lược kinh tế đối thoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chiến lược kinh tế đối thoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Ngoại giao chính trị sáng tạo, hiệu quả
Năm 2020, mặc dù tình hình chính trị – an ninh, kinh tế – xã hội thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường; các nước lớn gia tăng cạnh tranh chiến lược, căng thẳng, xung đột leo thang tại nhiều khu vực; thách thức an ninh phi truyền thống, như dịch bệnh COVID-19, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, khủng bố, tội phạm có tổ chức… tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát hơn trong một “thế giới phẳng”, song hoạt động ngoại giao song phương của Việt Nam với các nước, nhất là đối với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống, các đối tác chủ chốt, vẫn được triển khai mạnh mẽ bằng nhiều hình thức linh hoạt, sử dụng hiệu quả kênh trao đổi trực tuyến ở các cấp. Trong đó, lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã tiến hành 34 cuộc điện đàm, trao đổi trực tuyến song phương với lãnh đạo các nước. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng triển khai an toàn một số hoạt động trao đổi đoàn quan trọng. Lãnh đạo và các quan chức cấp cao nhiều nước đã lựa chọn Việt Nam là điểm đến thăm và thúc đẩy quan hệ. Nhiều hoạt động kỷ niệm năm tròn, năm lẻ, năm thiết lập quan hệ ngoại giao, duy trì các cuộc họp ủy ban liên chính phủ, ký kết thỏa thuận quốc tế với nhiều đối tác quan trọng… vẫn được tiến hành linh hoạt, sáng tạo, kể cả thông qua hình thức trực tuyến.
Cùng với hợp tác song phương, ngoại giao đa phương được triển khai tích cực, có bước chuyển về chất với bước tiến từ việc gia nhập đến tham gia ngày càng chủ động, tích cực, đóng góp thực chất và đưa ra nhiều sáng kiến được cộng đồng quốc tế chia sẻ, ủng hộ rộng rãi tại các diễn đàn đa phương và quốc tế, để lại dấu ấn đặc biệt quan trọng trong đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương Việt Nam, chủ động, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương. Với những dấu ấn đảm nhiệm thành công cùng lúc nhiều trọng trách quốc tế: Chủ tịch ASEAN 2020 và Chủ tịch Hội đồng Liên Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á (AIPA) lần thứ 41, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021…, ngoại giao đa phương Việt Nam tiếp tục là trọng tâm quan trọng của ngoại giao hiện đại.
Hoạt động đối ngoại chủ động, linh hoạt
Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 khiến thương mại thế giới sụt giảm 65%, xu hướng bảo hộ thương mại đang gia tăng ở một số nơi trên thế giới, ngoại giao kinh tế trong năm 2020 vẫn thể hiện tính chủ động, sáng tạo, phát huy vai trò thông tin, dự báo, tham mưu tư vấn cho Chính phủ về tình hình kinh tế thế giới, kinh nghiệm phát triển của các nước góp phần vào việc hoạch định chính sách, điều hành và ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh hơn nữa hội nhập kinh tế quốc tế, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Cùng với nỗ lực tìm kiếm các nguồn lực cho phát triển đất nước, ngoại giao kinh tế đã tích cực vận động, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các đối tác hàng đầu trên thế giới; chủ động, đi đầu trong tham mưu, đề xuất về sự tham gia và đóng góp sáng kiến của Việt Nam tại các tổ chức, cơ chế hợp tác kinh tế đa phương như ASEAN, APEC, ASEM, WTO, WEF, G-20…, giúp tiếp cận những nguồn lực phát triển và bảo vệ các lợi ích thiết thực của đất nước; đồng thời, chủ động lồng ghép nội dung hợp tác kinh tế vào các cuộc tiếp xúc cấp cao; tích cực hỗ trợ, đôn đốc, thúc đẩy nhằm cụ thể hóa các thỏa thuận, cam kết cấp cao. Bên cạnh thực hiện hiệu quả Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP, có hiệu lực kể từ ngày 14-1-2019), Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do (EVFTA, có hiệu lực từ tháng 8-2020) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA) với Liên minh châu Âu (EU), thúc đẩy ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) trong Năm Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam.
Tiếp tục định vị Việt Nam trong “bàn cờ” chính trị khu vực và thế giới
Theo giới phân tích, cục diện khu vực, thế giới trong năm 2021 tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn; luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn; kinh tế thế giới lâm vào thoái trào và có thể còn kéo dài do tác động của dịch bệnh COVID-19…, tác động đa chiều tới tình hình trong nước cũng như việc triển khai công tác đối ngoại của Việt Nam. Năm 2021 cũng là năm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đời sống chính trị – xã hội của đất nước khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026; đồng thời, là năm đầu tiên triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với nhiều điểm mới về định hướng phát triển kinh tế – xã hội và chính sách đối ngoại. Với tinh thần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, công tác đối ngoại Việt Nam xác định:
Một là, triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại mà Đại hội XIII của Đảng đề ra; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế”, nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước, cũng như Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”…
Hai là, tích cực tuyên truyền các sự kiện trọng đại của đất nước như Đại hội XIII của Đảng và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026; làm rõ những nội dung mới về đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, cũng như các nước bạn bè truyền thống, góp phần tích cực vào sự nghiệp gìn giữ hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; tích cực đóng góp và phát huy vai trò tại các diễn đàn đa phương, như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, WTO… trên cơ sở triển khai hiệu quả Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”.
Bốn là, tiếp tục triển khai hiệu quả Chỉ thị số 41-CT/TW, ngày 15-4-2010, của Ban Bí thư, “Về tăng cường công tác ngoại giao kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; đẩy mạnh tham gia các liên kết kinh tế quốc tế, đặc biệt là các FTA; thực hiện đầy đủ các cam kết trong Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, các Mục tiêu Bogor 2020; tham gia xây dựng, định hình các liên kết khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thực thi và tăng cường liên kết trong CPTPP, hướng tới hình thành khu vực mậu dịch tự do châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP); tranh thủ tối đa cơ hội mà EVFTA và EVIPA mang lại để đa dạng hóa đối tác, mở rộng không gian chiến lược, hướng tới các tiêu chuẩn cao, góp phần đưa Việt Nam lên nấc thang mới trong chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu.
Năm là, có cách tiếp cận mới trong triển khai, tận dụng các cam kết hội nhập, gắn với công nghệ số; mở rộng thị trường và không gian phát triển đi đôi với nâng cao năng lực thực thi, thu hút các nguồn đầu tư, tài chính chất lượng, công nghệ cao…
13. Hãy chỉ ra các lợi thế phát triển quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam và những giải pháp khai thác.
Về triển vọng hậu Covid-19, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô và đang trong xu hướng phục hồi theo hình chữ V, với tốc độ GDP năm 2021 sẽ tăng từ hơn 6,0% đến hơn 11,2%…; đặc biệt, Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá có triển vọng là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Nếu duy trì được đà tăng trưởng như 3 thập niên qua thì đến năm 2045 – kỷ niệm mốc lịch sử 100 năm Việt Nam độc lập (1945 – 2045), quy mô GDP của Việt Nam ước sẽ đạt khoảng 2.500 tỷ USD, còn thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 18.000 USD.
Về tổng thể, thế và lực của nước ta mặc dù đã mạnh hơn trước, nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhiều nút thắt vẫn chưa được khơi thông; nguy cơ tụt hậu, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn rất lớn, nhất là một số nhóm yếu tố, nhóm dễ bị tổn thương trước các biến động kinh tế. Vấn đề nhân khẩu học, già hóa dân số với tốc độ nhanh chóng tạo áp lực lớn lên hệ thống an sinh xã hội của nước ta…
Đặc biệt, Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh dịch Covid-19 đang diễn biến bất thường, kinh tế nước ta có độ mở lớn và chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường; những căng thẳng địa chính trị, sự gia tăng bảo hộ thương mại và các rủi ro tài chính…Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển có thể đuổi kịp nước giàu nhưng cũng đi kèm theo nhiều thách thức bị bỏ lại hoặc lệ thuộc lớn hơn vào nước giàu.
Theo Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021: Việt Nam phấn đấu GDP tăng khoảng 6%. GDP bình quân đầu người khoảng 3.700 USD. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%. Tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 45-47%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội khoảng 4,8%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 66%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ khoảng 25,5%. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế khoảng 91%. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm 1-1,5 điểm phần trăm. Có trên 90% dân cư khu vực thành thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung. Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị trên 87%. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường khoảng 91%. Tỷ lệ che phủ rừng khoảng 42%.
Giai đoạn 2021-2025, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều sâu, hoàn thiện mô hình tăng trưởng đồng bộ trên cả phương diện kinh tế – kỹ thuật, kinh tế – xã hội và kinh tế – sinh thái, thúc đẩy phát triển trên nền tảng đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế.
Định hướng tầm nhìn và khát vọng phát triển cho cho Việt Nam dựa trên nguyên tắc lấy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, phản ánh quy luật phát triển ở Việt Nam và khai thác có hiệu quả những thành tựu phát triển của thế giới, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ của nhân loại về phát triển toàn diện con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, do con người và giải phóng con người,… phù hợp với triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam và với bản chất nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa xã hội.
Theo tinh thần Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11-2020, các cấp, các ngành cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc, quyết liệt “mục tiêu kép”, ưu tiên bảo vệ sức khỏe của người dân; đồng thời, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế – xã hội diễn ra bình thường, không hoang mang nhưng không được chủ quan. Tăng cường công tác quản lý giá cả, bình ổn giá, bảo đảm cung cầu hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu có nhu cầu tiêu dùng cao vào dịp cuối năm; phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; xử lý nghiêm tình trạng gian lận nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, lợi dụng xuất xứ của Việt Nam để xuất khẩu sang nước thứ ba, không để ảnh hưởng đến hoạt động thương mại và uy tín của nước ta; tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng chủ động, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề do dịch Covid-19; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; khai thác tốt các thị trường còn dư địa và các thị trường nước ta đã ký kết các FTA, nhất là CPTPP, EVFTA. Chủ động phổ biến thông tin rộng rãi về Hiệp định RCEP cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực sản xuất xuất khẩu có cơ hội thuận lợi hoặc bị tác động. Chủ động xây dựng kịch bản, giải pháp về chính sách thương mại ứng phó với sự thay đổi chính sách của các đối tác lớn. Tiếp tục đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng nội địa bằng các biện pháp phù hợp. Chủ động có biện pháp phù hợp với các cam kết quốc tế để bảo vệ xuất khẩu các sản phẩm gỗ của Việt Nam. Xây dựng và triển khai kế hoạch trồng 1 tỷ cây xanh trong 5 năm tới; đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng các dự án, hạ tầng giao thông trọng điểm, bảo đảm an toàn cho các phương tiện, tàu thuyền khi có bão lũ. Tiếp tục thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, tranh thủ cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.
Đồng thời, khắc phục sự chồng chéo, giao thoa giữa chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ để hoàn thiện Đề án cơ cấu Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026; phối hợp với các cơ quan, địa phương chuẩn bị cho công tác bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp sắp tới và công tác kiện toàn bộ máy chính quyền tại các địa phương; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhất là các hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chiếm đoạt hàng cứu trợ, tín dụng đen, xuất nhập cảnh trái phép… Tăng cường công tác phòng, chống cháy nổ, bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương tiếp tục giải ngân số vốn còn lại trong phạm vi tổng số vốn năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ giao. Đặc biệt, Chính phủ đồng ý miễn thuế nhập khẩu theo quy định tại Khoản 7, Điều 16 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho hàng hóa nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu mà doanh nghiệp đưa một phần nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để thuê doanh nghiệp khác gia công hoặc thuê doanh nghiệp khác gia công một hoặc một số công đoạn của sản phẩm và đã nhận lại bán thành phẩm để tiếp tục sản xuất xuất khẩu hoặc nhận lại thành phẩm để xuất khẩu toàn bộ ra nước ngoài.
Mức độ thành công trong phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam tỷ lệ thuận với tinh thần cách mạng và quyết tâm chính trị trong triển khai đổi mới có hiệu quả tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng Đảng vững mạnh gắn liền với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vững mạnh của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, theo những chuẩn mực quản trị tốt, phục vụ phát triển và có khả năng xử lý, ứng phó linh hoạt với những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; Đồng thời, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội; đổi mới mạnh lẽ công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, tuyệt đối trung thành với lợi ích quốc gia và lý tưởng của Đảng.
Câu hỏi tự luận chương 2: Các học thuyết và nguyên tắc cơ bản trong quan hệ kinh tế quốc tế
1. Hãy nêu nội dung và đánh giá ưu, nhược điểm của các học thuyết cổ điển về thương mại quốc tế.
a. Quan điểm Chủ nghĩa trọng thương (đầu thế kỷ 15)
Trước thế kỷ 15 không phải các tác nhân kinh tế không vận động theo nguyên tắc Kinh tế mà họ vận động nhưng không phát biểu nó một cách cụ thể. Vì không hiểu tại sao nên họ không biết thế nào là tốt thế nào là không tốt và kết quả là hàng nghìn năm trước đó cuộc sống dân cư phát triển tự phát.
Thế kỷ 15 một số nhà kinh tế học hình thành lên lý thuyết kinh tế được coi là đầu tiên gọi là Chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa trọng thương có quan điểm như sau:
- Mối quan hệ giữa các tác nhân kinh tế là Thắng – Thua : Nếu một người có thêm một cân vàng thì người khác mất đi một cân vàng. Của cải chỉ có thể có được thông qua việc phân chia không công bằng, có nghĩa là bóc lột người khác. Giai cấp thống trị vơ vét, bóc lột từ giai cấp bị trị.
- Mối quan hệ giữa hai nước là bảo hộ mậu dịch: Thông qua việc kích thích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu vàng sẽ được chảy vào nước mình.
- Quan điểm về sự giàu có của một quốc gia: Quốc gia càng có nhiều vàng bạc, đất đai, dân cư thì càng giàu có. Quan điểm này kích thích việc một nước gây chiến với một nước khác để cướp bóc vàng bạc, chiếm giữ đất đai và dân chúng.
Chủ nghĩa trọng thương mang tới một kết cục tất yếu là không kích thích sản xuất mà chỉ kích thích chiếm đoạt. Khi Dân số ngày một tăng trong sản xuất không tăng tương ứng thì đời sống người dân sẽ càng ngày kém đi.
b. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Adam Smith)
Năm 1776 Adam Smith đưa ra tác phẩm “Tài sản quốc gia”, đây là tác phẩm kinh điển đưa ra rất nhiều các lý thuyết kinh tế. Trong cuốn này Adam đưa ra thuyết Lợi thế tuyệt đối.
Adam phản đối quan điểm chủ nghĩa trọng thương mà mong muốn tự do hóa thương mại. Thông qua bàn tay vô hình các nước sẽ sản xuất những mặt hàng có lợi thế lớn nhất đối với họ bằng các nguồn lực hữu hạn. Khi đó các nước sẽ được hưởng lợi nhiều nhất.
Adam cho rằng mỗi một loại hàng hóa đều có khác biệt về chi phí sản xuất. Thời điểm này Adam chỉ coi nhân công là chi phí sx duy nhất trong mô hình của mình.
Giờ công/Sản phẩm | Nhật Bản | Việt Nam |
Thép | 2 | 6 |
Vải | 5 | 3 |
Ví dụ trong bảng trên ta thấy vì chi phí sản xuất thép ở Việt Nam đắt hơn ở Nhật nhưng chi phí sản xuất vải ở VN lại rẻ hơn ở Nhật vì vậy Nhật bản chỉ nên tập trung sx thép còn Việt Nam chỉ tập trung sx vải.
Bằng cuốn sách của mình, Adam Smith bắt đầu thời kỳ của Kinh tế học cổ điển mà được các chính phủ sùng bái mãi tới thời kỳ của Kynes. Quan điểm của Adam Smith là:
- Mối quan hệ trong các tác nhân kinh tế là Thắng Thắng : Bằng cách tối ưu lợi ích cá nhân các tác nhân kinh tế đã làm gia tăng phúc lợi xã hội (mặc dù họ không chủ ý).
- Mối quan hệ giữa hai nước là cùng phát triển: Mỗi nước có lợi thế riêng vì vậy sản xuất ra các hàng hóa với chi phí khác nhau. Bằng cách trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, mỗi nước sẽ thu được lợi lớn nhất với chi phí thấp nhất.
- Quan điểm về sự giàu có của một quốc gia: là việc người dân của anh ăn gì, mặc gì, có hạnh phúc không chứ không phải là vàng bạc trong két.
Adam Smith cổ vũ xóa bỏ mọi rào cản thương mại ( Hạn ngạch, thuế,..). Đây là một bước chuyển rất lớn, từ bảo hộ mậu dịch chuyển sang tự do thương mại.
c. Lý thuyết lợi thế so sánh (David Ricardo 1817)
Mở rộng thêm lý thuyết của Adam Smith, Ricardo cho rằng các quốc gia cần xác định đâu là mặt hàng có lợi thế so sánh để tập trung vào sản xuất
Giờ công/Sản phẩm | Nhật Bản | Việt Nam |
Thép | 2 | 12 |
Vải | 5 | 6 |
Trong trường hợp này mặc dù là sản xuất vải ở Nhật vẫn rẻ hơn ở Việt Nam nhưng vì:
– Ở Nhật Bản, 1 giờ làm được 2 đv thép và 5 đv vải nên 1 đơn vị thép = 2/5 đơn vị vải
– Ở Việt Nam, 1 giờ làm được 12 đv thép và 1 đơn vị vải nên 1 đơn vị thép=2 đv vải
Như vậy 1 đơn vị thép nếu quy ra vải ở Việt Nam sẽ lớn hơn là ở Nhật bản. Nhật bản nên sx thép và mang sang Việt Nam đổi lấy 2 đv vải còn hơn là sx vải. ngược lại Việt Nam nên mang 2 đv vải sang Nhật để đổi lấy 1 đv thép còn hơn là tự sx thép.
Trường hợp thương mại quốc tế chỉ xảy ra khi cả hai nước đều cảm thấy có lợi. Nếu như 1 đv thép bằng hoặc lớn hơn 2 đơn vị vải thì Nhật bản sẽ được lợi nhưng Việt Nam lại không được lợi; còn nếu như 1 đơn vị thép < 2/5 đơn vị vải thì Việt Nam lợi nhưng Nhật bản lại không.
Vì vậy hai nước sẽ có buôn bán chừng nào 2/5 đơn vị vải < 1 đơn vị thép < 2 đơn vị vải.
Mở rộng ra giả sử như có 3 nước tham gia vào quá trình sx thì một nước nên chọn một nước có chi phí sx mặt hàng đó cao nhất để xuất khẩu.
Cả hai học thuyết của Adam Smith và David Ricardo đều cần các giả thuyết ban đầu như :
– Lao động không được dịch chuyển tự do giữa các QG (vì nếu dịch chuyển thì sẽ không còn lợi thế nữa),
– Vận chuyển giữa hai quốc gia là bằng 0,
– Chỉ có hai quốc gia và hai mặt hàng trong mô hình
– Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên các thị trường (có nghĩa là có vô số người bán và vô số người mua)
– Công nghệ sx của hai QG là như nhau và không đổi (vì Adam chỉ coi nhân công là chi phí sx đầu vào duy nhất, bỏ qua các biến khác như công nghệ)
2. Hãy nêu nội dung và đánh giá ưu, nhược điểm của học thuyết tân cổ điển về thương mại quốc tế.
– Bối cảnh ra đời của học thuyết Heckscher – Ohlin (H – O)
Eli Heckscher (vào năm 1919) và Bertil Ohlin (vào năm 1933) đã đưa ra cách giải thích khác về lợi thế so sánh, chứng tỏ lợi thế so sánh xuất phát từ những sự khác biệt trong mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất. Học thuyết của hai ông xây dựng được gọi là học thuyết Heckscher – Ohlin (H – O).
– Quan điểm chỉnh của học thuyết H – O
Bằng cách sử dụng khái niệm mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất, hai tác giả muốn đề cập đến mức độ có sẵn các nguồn lực như đất đai, lao động và vốn của một nước. Sự sẵn có các yếu tố khác nhau đó giải thích sự khác biệt về giá cả các yếu tố; cụ thể, độ dồi dào của yếu tố càng lớn thì giá cả của yếu tố đó càng rẻ.
Học thuyết H – o cho rằng: “Trong một nền kinh tế mở, mỗi nước sẽ có lợi nhất nếu hướng đến việc chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các hàng hóa mà việc sản xuất chúng sử dụng nhiều yếu tố có lợi (sẵn có hon và giá rẻ hon), nhập khẩu những hàng hóa mà việc sản xuất chúng cần nhiều yếu tố có giá đắt hon và tương đối khan hiếm hon”. Như vậy, nước nào có thuận lợi về vốn nên chuyên môn hóa sản xuất những mặt hàng có hàm lượng vốn cao; nước nào có lao động rẻ nên chuyên môn hóa các mặt hàng có hàm lượng lao động cao; nước nào có đất đai, tài nguyên phong phú nên chuyên môn hóa các mặt hàng sử dụng nhiều tài nguyên.
Để đánh giá lợi thế so sánh đối với một sản phẩm, người ta phải dựa vào hai tiêu chí. Thứ nhất, liên quan đến việc đánh giá hàm lượng các yếu tố sản xuất được coi là rẻ ở nước đó. Thứ hai, là hệ số hiển thị lợi thế so sánh (Coefficient of Revealed Comparative Advantage – RCA). Công thức tính RCA đối với sản phẩm A của nước X như sau:
RCA — (Eax/Ex) : (EAW/EW)
– Trong đó:
Eax: kim ngạch xuất khẩu sản phẩm A của nước X
Ex: kim ngạch xuất khẩu của nước X
EAw: kim ngạch xuất khẩu sản phẩm A của thế giới
Ew: tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới
– Neu: RCA <1: Sản phẩm không có lợi thế so sánh
1 < RCA < 2,5: Sản phẩm có lợi thế so sánh
2,5 < RCA < 4,25: Sản phẩm có lợi thế so sánh cao
RCA > 4,25: Sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao
Hệ số RCA chỉ ra khả năng cạnh tranh xuất khẩu của một quốc gia về một sản phẩm xác định trong mối tương quan với mức xuất khẩu của thế giới ở sản phẩm đó.
– Các giả định của học thuyết và minh chứng thực tế
a) Học thuyết H – O được xây dựng dựa trên các giả định:
Thế giới bao gồm hai quốc gia và sản xuất 2 mặt hàng giống nhau;
Mức độ hang bị các yếu tố ở mỗi quốc gia là cố định, mức độ trang bị các yếu tố ở hai quốc gia là khác nhau;
Công nghệ sản xuất là giống nhau giữa hai quốc gia;
Các mặt hàng khác nhau sẽ có hàm lượng các yếu tố sản xuất khác nhau và không có sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất (ví dụ: Vải luôn là mặt hàng có hàm lượng lao động cao, còn thép là mặt hàng có hàm lượng vốn cao);
Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên cả thị trường hàng hóa lẫn thị trường yếu tố sản xuất (mức giá trên thị trường là duy nhất và được xác định bởi quan hệ cung cầu, và trong dài hạn giá cả hàng hóa đúng bằng chi phí sản xuất);
Hai nước có quy mô tương đối giống nhau, không có nước nào được coi là nước nhỏ so với nước kia;
Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia;
Sở thích là giống nhau giữa hai quốc gia (nếu hai nước có cùng mức thu nhập và mức giá cả hàng hóa thì sẽ có xu hướng tiêu dùng lượng hàng hóa như nhau);
Thương mại tự do, chi phí vận chuyển bằng 0.
b) Học thuyết H – o được minh chứng trên thực tế:
Ví dụ, Mỹ trong một thời gian dài là một nước xuất khẩu lớn trên thế giới về hàng nông sản, điều này phản ánh một phần về sự dồi dào của Mỹ về diện tích đất có thể canh tác. Hay, Trung Quốc nổi trội về xuất khẩu những hàng hóa được sản xuất trong những ngành sử dụng nhiều lao động như là dệt may và giày dép. Điều này phản ánh mức độ dồi dào tương đối của Trung Quốc về lao động giá rẻ. Với Mỹ, vốn không có nhiều lao động giá rẻ, từ lâu đã là nước nhập khẩu chủ yếu những mặt hàng này.
– Đánh giá học thuyết
* Ưu điểm thuyết H – O
Thuyết H – O đã góp phần lý giải thêm nhiều hiện tượng của quan hệ thương mại quốc tế và được đánh giá là một trong các học thuyết có mức độ ảnh hưởng lớn trong kinh tế học quốc tế, góp phần quan trọng trong việc giải thích cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường.
So với thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, thuyết H – o đã chứng tỏ rằng lợi thế so sánh của một quốc gia không chỉ dựa trên sự khác biệt về năng suất lao động, mà rộng hơn, nó dựa trên sự khác biệt trong mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất (lưu ý rằng, mức độ sẵn có ở đây là tương đối, một nước không thể dồi dào ở tất cả các yếu tố sản xuất, mà có thể chỉ là một, hai yếu tố, còn lại lại thuộc về nước khác).
Chỉ với những giả thiết đơn giản và dựa trên khái niệm về mức độ dồi dào của các yếu tố sản xuất, thuyết này không chỉ cho phép đưa ra dự đoán về cơ cấu sản xuất và thương mại của các quốc gia, mà còn giúp cho việc nghiên cứu một loạt các vấn đề liên quan đến giá cả các yếu tố sản xuất, tác động của sự tăng trưởng các yếu tố sản xuất đến quy mô sản xuất và thương mại.
Học thuyết tạo tiền đề cho các học thuyết mới sau này ra đời tiếp tục giải thích về một nền thương mại quốc tế hiện đại.
* Nhược điểm thuyết H – O
– Cho đến những năm 50 của thế kỉ XX, địa vị của thuyết H – o đã gặp phải những thách thức nghiêm trọng, khi kết quả của các công trình kiểm chứng thực tế của thuyết này thường bị bóp méo bởi các yếu tố không hoàn hảo trên thị trường, mà điển hình là công trình của nhà kinh tế Mỹ Wassily Leontief (người đạt giải Nobel kinh tế năm 1973) – thường được biết đến với tên gọi ngịch lý Leontief.
Nội dung chính của nghịch ỈỈLeontief:ỵ
Trong những năm 50 của thế kỉ XX, Mỹ là nước giàu và dồi dào về vốn nhất thế giới. Nhưng nghiên cứu của Leontief đã chỉ ra rằng, các mặt hàng xuất khẩu của Mỹ ít sử dụng về vốn horn là các mặt hàng nhập khẩu. Điều này trái ngược với dự báo của thuyết H – o. Kết quả nghiên cứu trên được gọi là nghịch lý Leontief.
Đã có nhiều nỗ lực để giải thích nghịch lý Leontief, nhưng cho đến nay chưa có cách giải thích hoàn toàn nào được chấp nhận, do đó nghịch lý Leontief vẫn tiếp tục tồn tại và thách đố các nhà kinh tế. Một số cách lý giải cho nghịch lý Leontief:
+ Sai lầm đo lường. Leontief chỉ xem xét đến vốn vật chất, nhưng có thể Mỹ dồi dào nhất về vốn con người.
+ Chính sách bảo hộ thương mại. Có thể Mỹ đã áp đặt rào cản thương mại lên các mặt hàng nhập khẩu sử dụng nhiều lao động, còn các mặt hàng sử dụng nhiều vốn thì không, nên các mặt hàng thâm dụng vốn này được nhập khẩu dễ dàng hơn.
+ Năng suất lao động của công nhân Mỹ. Có thể công nhân Mỹ có năng suất lao động cao hơn nhiều so với công nhân các nước khác, nên về thực chất Mỹ là nước dồi dào về lao động, không phải dồi dào về vốn.
Nghịch lý có thể xảy ra nếu có sự đảo ngược mức độ sử dụng các yếu tố giữa các nước, ví dụ như sản xuất gạo ở Mỹ sử dụng nhiều về vốn, trong khi đó lại sử dụng nhiều lao động tại Việt Nam.
+ Thương mại giữa các nước công nghiệp phát triển. Ngày nay, già nửa thương mại quốc tế diễn ra giữa các quốc gia công nghiệp phát triển – những nước được coi là có mức độ trang bị các yếu tố sản xuất tương đối giống nhau. Do đó, mâu thuẫn với giả định của lý thuyết H – o, theo đó mức độ trang bị các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia là khác nhau.
– Ngoài ra, một giả định quan trọng của thuyết H – o là công nghệ sản xuất tại các quốc gia là giống nhau. Điều này không sát với thực tế hiện nay. Bởi các nước công nghiệp phát triển thường có công nghệ phát triển hơn các nước đang và kém phát triển. Những khác biệt về công nghệ có thể dẫn tới sự khác biệt về năng suất lao động – yếu tố quan trọng trong trao đổi thương mại quốc tế.
3. Hãy nêu nội dung và đánh giá ưu, nhược điểm của các học thuyết mới về thương mại quốc tế.
Khoảng từ giữa thế kỉ XX trở đi, sự ra đời của một loạt các học thuyết mới về thương mại quốc tế, cùng các học thuyết truyền thống đã giúp cho việc giải thích nguyên nhân, cơ cấu, lợi ích của thương mại quốc tế trở nên đầy đủ và sát thực tế hơn. Khác với học thuyết tân cổ điển (thuyết H – O), theo đó sự khác biệt tương đối về các nguồn lực ở các nước là nguyên nhân cơ bản dẫn đến thương mại quốc tế, các học thuyết mới lại nhấn mạnh kinh tế quy mô, nhu cầu của thị trường, quá trình biển đổi liên tục của công nghệ, hay chi phí vận chuyển… như là những yếu tố quan trọng giải thích thực tiễn thương mại quốc tế hiện đại.
Các học thuyết mới đặc biệt giải thích được quan hệ thương mại giữa các nước công nghiệp phát triển – những nước được coi là tương đối giống nhau về tổ hợp các nguồn lực và bộ phận chủ yếu trong thương mại quốc tế là thương mại nội bộ ngành. Sự ra đời của các học thuyết mới còn dẫn đến cách nhìn nhận mới về lợi thế so sánh. Cụ thể, thuyết chu kì sống của sản phẩm cho thấy lợi thế so sánh không chỉ mang tính chất tĩnh, cố định, bất biến như trong các học thuyết truyền thống, mà nó có thể thường xuyên thay đổi. Thực tiễn phát triển kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã minh chứng cho tầm quan trọng của việc tạo lập và khai thác lợi thế so sánh động, gắn kết kinh tế quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế.
Một đóng góp quan trọng nữa của các học thuyết mới về thương mại quốc tế, đó là các học thuyết này đề cập, giải thích nguồn gốc dẫn đến thương mại quốc tế từ góc độ vi mô (các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp) hơn là từ sự khác biệt giữa các quốc gia. Đây là cách tiếp cận thực tế, vì suy cho cùng, không phải là quốc gia, mà là các doanh nghiệp mới là những chủ thể trực tiếp tiến hành các giao dịch xuất nhập khẩu.
Trong số các học thuyết mới về thương mại quốc tế, thuyết lợi thế cạnh tranh của M. Porter dành được sự chú ý đặc biệt. Có thể nói đây là thuyết đầu tiên cố gắng kết nối nhiều yếu tố, nhiều cấp độ trong việc giải thích sự hình thành lợi thế cạnh tranh quốc gia, từ đó góp phần làm rõ nguồn gốc, cơ cấu của thương mại quốc tế. Tuy nhiên, thuyết cần có thời gian để kiểm chứng giá trị thực tế. Và với những hạn chế còn tồn tại, đòi hỏi cần có các học thuyết tiếp theo ra đời để giải thích đầy đủ hơn nữa các yếu tố của thương mại quốc tế hiện đại.
4. Hãy nêu khái niệm và phân tích vai trò của thương mại quốc tế.
*Vai trò thương mại quốc tế đối với doanh nghiệp
Nhờ tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, các doanh nghiệp có thể tăng hiệu quả sản xuất – kinh doanh, mở rộng quy mô và đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh nhằm tạo lợi nhuận tốt hơn cho doanh nghiệp.
Thương mại quốc tế có thể giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế, tạo thế và lực cho doanh nghiệp không chỉ ở thị trường trong nước mà còn tại thị trường quốc tế; giúp doanh nghiệp phát triển và mở rộng quan hệ bạn hàng, đối tác; học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ hiện đại; giúp doanh nghiệp mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất và nhập khẩu hàng hóa, hạn chế rủi ro khi kinh doanh trên một thị trường duy nhất.
*Vai trò thương mại quốc tế đối với các quốc gia
Thương mại quốc tế giúp cho các nguồn lực quốc gia được sử dụng có hiệu quả hơn nhờ tham gia vào quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế.
Thương mại quốc tế làm tăng năng lực sản xuất, tăng mức sống của các quốc gia nói riêng cũng như của toàn thế giới nói chung.
Thương mại quốc tế kích thích tiêu dùng, mở rộng sản xuất, chuyển giao công nghệ và đầu tư giữa các quốc gia, nhờ đó tạo tiền đề cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi thương mại quốc tế là yếu tố quan trọng bậc nhất trong chính sách và chiến lược phát triển kinh tế của mình. Tuy nhiên, thương mại quốc tế không phải lúc nào cũng là giải pháp màu nhiệm mang lại sự thịnh vượng cho một quốc gia. Thương mại quốc tế càng phát triển, đồng nghĩa với quá trình tự do hóa thương mại phát triển theo (lúc này rào cản thuế quan và rào cản phi thuế trong thương mại giữa các nước giảm). Do vậy, trong điều kiện còn có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế và năng suất lao động, thương mại quốc tế có xu hướng khiến cho nhập khẩu của các nước đang và kém phát triển tăng lên, nhiều hàng hóa nước ngoài trở nên cạnh tranh với hàng hóa nội địa, làm giảm quy mô sản xuất nội địa, kéo theo đó là hiện hượng thất nghiệp của các nước có thể gia tăng.
Nhìn chung, có thể thấy rằng thương mại quốc tế mang lại lợi ích rõ rệt cho các nước phát triển có trình độ công nghệ và tổ chức sản xuất cao, có khả năng cạnh tranh cao ở cả bốn bình diện: doanh nghiệp, sản phẩm, ngành và quốc gia. Đoi với các nước đang và kém phát triển, thương mại quốc tế chỉ mang lại lợi ích thực sự khi các nước đó có chiến lược hội nhập kinh tế đúng đắn, phù hợp; biết chủ động và tận dụng lợi ích, biết hạn chế tác động bất lợi từ thương mại quốc tế đưa lại.
5. Đánh giá hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam thời gian vừa qua. Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra thị trường thế giới.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 ước tính đạt 381,9 nghìn tỷ đồng, giảm 2% so với tháng trước và giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý II/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 1.177,6 nghìn tỷ đồng, giảm 8,4% so với quý trước và tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 956,8 nghìn tỷ đồng, giảm 7% và tăng 6%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 101,1 nghìn tỷ đồng, giảm 17,8% và giảm 1,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1,4 nghìn tỷ đồng, giảm 55,4% và giảm 5,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 118,3 nghìn tỷ đồng, giảm 10,1% và tăng 4,2%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.463,8 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 3,55%.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đạt 1.985,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 80,6% tổng mức và tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 224 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,1% tổng mức và giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 20,3%). Doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng ước tính đạt 4,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,2% tổng mức và giảm 51,8% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam chưa mở cửa du lịch quốc tế để khống chế dịch Covid-19, đồng thời một số địa phương thực hiện giãn cách xã hội nên du lịch nội địa kém sôi động. Doanh thu dịch vụ khác 6 tháng ước tính đạt 249,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Mặc dù dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, nhưng tâm lý người dân trong mua sắm hàng hóa tương đối bình tĩnh, không có hiện tượng người dân đổ xô đi mua hàng hóa tích trữ. Bộ Công Thương đã thường xuyên liên hệ với các địa phương để tổng hợp và cập nhật tình hình bảo đảm nguồn cung hàng hóa thiết yếu. Tại các địa phương có dịch bệnh, hoạt động thương mại vẫn diễn ra bình thường; tình hình hàng hóa trên thị trường cơ bản ổn định; nguồn cung hàng hóa vẫn đáp ứng tốt nhu cầu của người dân, giá cả ổn định, không xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá.
Trước khó khăn trong tiêu thụ nông sản trong vùng dịch, Bộ Công Thương đã kết nối các doanh nghiệp phân phối lớn phối hợp với các địa phương (thông qua Sở Công Thương) để thúc đẩy tiêu thụ nông sản có sản lượng lớn, đã thu hoạch nhưng gặp khó khăn về thị trường. Đồng thời tiếp tục bám sát, hướng dẫn địa phương để có phương án hỗ trợ kịp thời, hạn chế tồn ứ nông sản, đảm bảo lưu thông thông suốt, nông sản không bị ách tắc do khâu lưu thông.
- Giải pháp trong thời gian tới
Kinh tế thế giới được dự báo sẽ tiếp tục khởi sắc. Tuy nhiên rủi ro, thách thức vẫn còn đến từ: (i) các biến chủng mới của dịch Covid-19; (ii) lạm phát, giá cả có khả năng tăng cao đến hết năm 2022; (iii) chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, căng thẳng chính trị, thương mại giữa các quốc gia lớn.
Trong nước, khó khăn, thách thức, rủi ro còn nhiều, nhất là khi tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, đe dọa trực tiếp tới sản xuất công nghiệp ở các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng. Mùa du lịch đã qua tháng 6 trong khi mùa mưa bão đã đến, ảnh hưởng tới kích cầu tiêu dùng. Nhiệm vụ đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm 2022 rất thách thức, đòi hỏi vừa kiểm soát tốt dịch Covid-19 vừa bảo đảm sản xuất, kinh doanh, có giải pháp hỗ trợ phát triển công nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu.
Các doanh nghiệp, các Sở Công Thương và các đơn vị trực thuộc tập trung triển khai nghiêm túc Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021; Chương trình hành động của ngành Công Thương thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP được ban hành tại Quyết định số 163/QĐ-BCT; Quyết định số 164/QĐ-BCT ngày 19 tháng 01 năm 2021.
Theo đó, cần tập trung thực hiện các nội dung trong thời gian tới, bao gồm: Chủ động xây dựng các phương án chống dịch bệnh, sẵn sàng đáp ứng với mọi tình huống dịch bệnh có thể xảy ra; Tập trung triển khai thực hiện Quyết định số 1612/QĐ-BCT ngày 23 tháng 6 năm 2021 về Chương trình hành động của ngành Công Thương thực hiện Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20 tháng 5 năm 2021 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
Theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu để có biện pháp điều tiết kịp thời, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, ổn định cung cầu – giá cả và lưu thông hàng hóa trên địa bàn cả nước. Đẩy mạnh công tác phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng góp phần bảo vệ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước. Tăng cường các hoạt động xúc tiến, kết nối giữa nhà sản xuất, cung ứng với các nhà phân phối, các tổ chức xúc tiến thương mại trong nước ở các địa phương (thông qua Sở Công Thương);
Đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông sản trên các kênh thương mại điện tử, hỗ trợ các địa phương thúc đẩy tiêu thụ lượng nông sản lớn (đã, đang và sẽ vào vụ thu hoạch) ở các địa phương trên các sàn giao dịch thương mại điện tử uy tín;
Chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường tại các địa phương tập trung triển khai các kế hoạch kiểm tra, giám sát thị trường, kế hoạch cao điểm; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá, các hành vi đầu cơ, găm hàng và lợi dụng dịch bệnh để thu lợi bất chính; kinh doanh hàng nông sản nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, không bảo đảm an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh và các hành vi gian lận thương mại khác;
Thúc đẩy xuất khẩu; tổ chức khai thác, tận dụng cơ hội từ các FTA để tìm giải pháp phát triển thị trường và tháo gỡ rào cản để thâm nhập các thị trường mới. Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu; Đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu, phát triển thương hiệu.
6. So sánh công cụ thuế quan nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu trong chính sách thương mại quốc tế.
Sự khác biệt chính giữa thuế quan và hạn ngạch được giải thích trong các điểm dưới đây:
Thuế quan là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu. Hạn ngạch là một giới hạn được xác định bởi chính phủ về số lượng hàng hóa được sản xuất ở nước ngoài và được bán trong nước.
Thuế quan dẫn đến việc tạo ra doanh thu cho đất nước và do đó, tăng GDP. Trái ngược với hạn ngạch, được áp dụng cho giá trị bằng số của hàng hóa, không phải số lượng và do đó nó không có hiệu lực.
Với hiệu lực của thuế quan, thặng dư tiêu dùng giảm trong khi thặng dư của nhà sản xuất tăng lên. Mặt khác, hạn ngạch dẫn đến sự sụt giảm của thặng dư tiêu dùng.
Thu nhập được tạo ra từ việc thu thuế quan là doanh thu của chính phủ. Ngược lại, trong trường hợp hạn ngạch, thương nhân sẽ có thêm thu nhập từ bộ sưu tập.
7. Giải pháp tăng cường hiệu lực thực hiện Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Bạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Bạc/Vàng/Kim Cương để xem chi tiết...ĐÁP ÁN
8. Phân biệt được các công cụ khuyến khích xuất khẩu và các công cụ hạn chế xuất khẩu trong chính sách thương mại quốc tế.
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Bạc/Vàng/Kim Cương để xem chi tiết...Câu hỏi tự luận chương 3: Quan hệ thương mại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ
1. Thế nào là đầu tư quốc tế, hãy cho biết các hình thức đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế là quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc để đạt được mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định. Bản chất của đầu tư nước ngoài là xuất khẩu tư bản, hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu tư bản là quá trình thực hiện giá trị thặng dư ở nước ngoài, còn xuất khẩu hàng hoá là quá trình thực hiện giá trị thặng dư ở trong nước.
Xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu tư bản luôn luôn bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Các nhà tư bản thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá để thâm nhập tìm hiểu thị trường, luật lệ, quyết định đầu tư tư bản (xuất khẩu tư bản). Đồng thời với xuất khẩu tư bản là việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư, liên doanh để nhằm xuất khẩu máy móc thiết bị, vật tư sang nước tiếp nhận đầu tư và khai thác nhân lực, lao động ở nước chủ nhà. Cùng với thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế là dòng chính trong trào lưu có tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu. Phân loại đầu tư quốc tế (theo hình thức đầu tư) gồm có:
Đầu tư trực tiếp (FDI)
Trong hình thức đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần vốn đầu tư đủ lớn của dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ thương mại.
Do đầu tư bằng vốn sở hữu của tư nhân nên họ tự quyết định sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có ràng buộc về mặt chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. Chủ đầu tư tham gia điều hành nếu góp nhỏ hơn 100% vốn và trực tiếp tham gia điều hành mọi hoạt động nếu góp 100% vốn (công ty 100 % vốn đầu tư nước ngoài). Thông qua FDI, nước chủ nhà tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Về nguồn vốn: ngoài vốn pháp định, còn bao gồm cả vốn vay trong quá trình triển khai hoạt động, hoặc tái đầu tư từ lợi nhuận thu được.
Đầu tư gián tiếp
Là hình thức đầu tư vốn quốc tế quan trọng, trong đó chủ đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức mua cổ phần của các công ty nước sở tại (ở mức khống chế nhất định) để thu lợi nhuận mà không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Đặc điểm của loại đầu tư này là phạm vi đầu tư có giới hạn (Chủ đầu tư chỉ quyết định mua cổ phần của các doanh nghiệp có lãi và có triển vọng trong tương lai. Số lượng cổ phần bị khống chế ở mức độ nhất định để không có cổ phần nào chi phối doanh nghiệp (từ 10 – 25% vốn pháp định.) Đồng thời, chủ đầu tư không tham gia điều hành, nước nhận đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong sản xuất và kinh doanh. Chủ đầu tư thu lợi nhuận qua lãi suất cổ phiếu không cố định phụ thuộc kết quả kinh doanh. Mặc dù đầu tư gián tiếp không có cơ hội như FDI nhưng có cơ hội phân tích rủi ro kinh doanh trong những người mua cổ phiếu.
Tín dụng thương mại
Là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay. Hình thức này có đặc điểm là ngân hàng cung cấp vốn tuy không tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp nhưng trước khi cho vay phải nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh hoặc thế chấp các khoản vay để giảm rủi ro. Chủ đầu tư thu lợi nhuận cố định (lãi suất tiền vay) theo khế ước độc lập với kết quả kinh doanh của nước nhận đầu tư. Ngân hàng có quyền sử dụng tài sản thế chấp và yêu cầu cơ quan bảo lãnh thanh toán, khi bên vay không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, hình thức này có độ rủi ro lớn và đối tượng vay vốn chủ yếu là các doanh nghiệp.
2. Các nguyên nhân và các nhân tố thúc đẩy đầu tư quốc tế.
a. Trình độ phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất và phân bố không đều giữa các yếu tố sản xuất.
Các yếu tố cơ bản của sản xuất như vốn, công nghệ, lao động và đất đai không được phân bố đều giữa các quốc gia, các nước phát triển có thế mạnh về vốn, công nghệ còn các nước đang phát triển thì có lợi thế về lao động, tài nguyên thiên nhiên được khai thác không hiệu quả chính vì vậy đầu tư quốc tế chính là đường hướng hữu hiệu để kết hợp tối ưu giữa các nguồn lực của các quốc gia và có thể giảm thiểu được chi phí sản xuất. Các quốc gia mạnh như Mỹ, Nga cũng không thể tự coi là họ có đầy đủ các yếu tố sản xuất phục vụ cho nhu cầu sản xuất của họ nên họ cũng phải trao đổi với các quốc gia khác. Đầu tư quốc tế có thể làm giảm chi phí sản xuất và tăng hiệu quả sử dụng vốn – chi phí trung bình ở các nước đang phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển; theo nghiên cứu của một nhà kinh tế Trung Quốc thì chi phí lao động trực tiếp theo giờ ở TQ thì chỉ khoảng bằng 5% so với chi phí lao động ở các nước công nghiệp ở cùng trong ngành đó (năm 2001, trong ngành điện tử chi phí lao động trực tiếp theo giờ Đức: 1,8 $/h; Mỹ: 9,6 $/h; Trung Quốc: 0,85 $/h thấp hơn cả Indonexia, Thái Lan, Ấn Độ đây cũng là một trong những nguyên nhân lý giải tại sao đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc lại lớn đến như vậy, Trung Quốc thường xuyên là nước đứng thứ nhì có năm đứng thứ nhất thế giới).
Quá trình toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động đầu tư quốc tế như trên phương diện kỹ thuật mạng lưới viễn thông, thông tin liên lạc rất phát triển làm cho thế giới thu nhỏ lại, các nhà đầu tư tiếp cận tới những thông tin về vốn được nhiều hơn, nhanh hơn trước do vậy họ có thể đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả hơn (vd: việc thay đổi lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ thì có thể tác động tới thị trường chứng khoán ở Nhật, Châu Âu và tác động lan tỏa ra xung quanh. Trên phương diện kinh tế xu hướng tự do hóa đầu tư, quá trình toàn cầu hóa trong lĩnh vực đầu tư thể hiện rất rõ, trước kia các nhà đầu tư quốc tế khi đầu tư ra nước ngoài lo ngại nhất là chính sách quốc hữu hóa, tịch thu tài sản nhưng giờ đây các quốc gia đều cam kết không quốc hữu hóa, không trưng thu tài sản và đưa ra những ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư (giảm thuế, ký kết các hiệp định để phát triển hoạt động đầu tư). Trên bình diện khu vực có những hiệp định đầu tư ở các khu vực như ở khu vực các nước Đông Nam á thì có khu vực đầu tư ASEAN – AIA (ASEAN Investment Area); Trên cấp độ toàn cầu quá trình đầu tư ngày càng thuận lợi bởi những quy định quốc tế như Hiệp định đầu tư liên quan đến thương mại – TRIMs (Trade Related Invesment Measures) của WTO.
c. Do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật. Tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật được thể hiện trên hai phương diện:
(i) Yêu cầu đầu tư cho Khoa học kỹ thuật ngày càng lớn. Như trong lĩnh vực viễn thông, hàng không luôn có sự hợp tác quốc tế.
(ii) Vòng đời công nghệ ngày càng ngắn. Ở các nước phát triển có những công nghệ cũ vẫn sử dụng được nhưng họ vẫn liên tục phát minh ra các công nghệ mới do vậy họ mang những công nghệ cũ ra các nước đang phát triển tiến hành đầu tư, góp vốn bằng những công nghệ đó, cả hai bên cùng có lợi – kéo dài tuổi thọ của công nghệ cũ, có điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế của mình, các nước đang phát triển khắc phục được khó khăn về việc thiếu công nghệ trước mắt – Mô hình phát triển Đàn sếu bay ở các nước Châu Á cũng thể hiện cơ cấu đó.
d. Đầu tư quốc tế để tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, bành trướng sức mạnh của các công ty xuyên quốc gia (TNCs).
Để xuất khẩu được hàng hóa ra thị trường nước ngoài là một vấn đề khó khăn, các DN phải đối mặt với một loạt các hàng rào, rào cản bảo hộ (rào cản thuế quan, phi thuế quan) vậy để tránh các khó khăn đó các DN có thể xây dựng các trung tâm, căn cứ, cơ sở kinh doanh ngay trong lòng thị trường nội địa.
e. Đầu tư quốc tế là một hình thức quan trọng nhằm nâng cao uy tín quốc tế và thực hiện các mục đích chính trị xã hội.
Mỗi nước tùy theo ưu tiên của mình họ có thể có những chiến lược để đầu tư vào các địa bàn, quốc gia khác nhau, như trong khu vực Châu Á có Nhật Bản là nước đầu tư lớn trực tiếp ra các nước trong khu vực và đây cũng là nhà cung cấp viện trợODS cho các nước trong khu vực Châu Á lớn nhất – Nhật Bản muốn tận dụng các nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định ở khu vực, muốn mở rộng ảnh hưởng chính trị của Nhật (nhằm khắc phục hình ảnh xấu sau chiến tranh thế giới thứ II), muốn tăng cường tiếng nói của mình trên chính trường quốc tế. Ở khu vực Châu Mỹ La Tinh thì Mỹ là nước có ảnh hưởng lớn, ở khu vực Châu Phi thì có Pháp (bởi trước kia Pháp có nhiều nước thuộc địa ở châu lục này).
f. Đầu tư ra nước ngoài nhằm hạn chế rủi ro. Tuân theo nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh là “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ” – đa dạng hóa các địa bàn đầu tư thì rủi ro sẽ giảm đi, khi có biến động xảy ra ở một khu vực thì chỉ những chi nhánh ở khu vực đó bị ảnh hưởng mà thôi, còn ở các khu vực khác thì không bị ảnh hưởng. Ví dụ: khi giá dầu mỏ tăng thì sẽ gây thiệt hại cho các nước công nghiệp vì đây là các nước sử dụng nhiều dầu, nhiên liệu – nhưng lại có lợi cho các nước xuất khẩu dầu mỏ.
g. Tận dụng chính sách thuế.
Nhà đầu tư sẽ chọn địa bàn mà có mức thuế ưu đãi với họ, đồng thời họ sẽ tiến hành tối thiểu hóa toàn bộ số thuế trên toàn bộ tập đoàn – VD: một công ty xuyên quốc gia có rất nhiều công ty con để giảm tối thiểu mức thuế của toàn bộ những công ty con này trên thế giới thì họ thực hiện phương thức “chuyển giá” giữa những công ty con trong công ty xuyên quốc gia – Một công ty ở một nước có thuế thu nhập doanh nghiệp là rất cao, công ty đó nhập hàng từ một công ty cũng trong cùng tập đoàn mà mức thuế thu nhập doanh nghiệp rất thấp; vậy khi nhập lô hàng đó họ sẽ có xu hướng tăng giá hàng nhập thì lợi nhuận của công ty, ở nước có thuế thu nhập cao, sẽ bị giảm còn công ty xuất khẩu hàng, ở nước có thuế thu nhập thấp, khi thổi phồng giá bán của lô hàng thì lợi nhuận của công ty sẽ tăng lên – Phần lợi nhuận tăng lên của phía công ty xuất hàng so với phần lợi nhuận giảm đi ở phía công ty nhập hàng sẽ vẫn còn lãi – cộng lại mức thuế phải đóng của toàn bộ tập đoàn đó trên phạm vi thế giới sẽ được lợi nếu họ cố tình thổi phồng giá hàng nhập lên.
3. So sánh đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Hình thức | Đầu tư trực tiếp nước ngoài | Đầu tư gián tiếp nước ngoài |
Quyền kiểm soát | Nắm quyền quản lý, kiểm soát trực tiếp. Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. | Mua chứng khoán và không nắm quyền kiểm soát trực tiếp.
Bên tiếp nhận đầu tư (vốn) có toàn quyền chủ động trong kinh doanh |
Phương tiện đầu tư | Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của pháp luật từng nước | Số lượng chứng khoán mà các công ty nước ngoài được mua có thể bị khống chế ở mức độ nhất định tùy theo từng nước; thường là < 10% |
Mức rủi ro | Rủi ro theo tỉ lệ vốn đầu tư | Rủi ro ít |
Lợi nhuận | Thu được theo lợi nhuận của công ty và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn. | Thu được chia theo cổ tức hoặc việc bán Chứng khoán thu chênh lệch. |
Mục đích | Lợi nhuận và quyền quản lý hoặc kiểm soát | Lợi nhuận, chỉ kỳ vọng về một khoảng lợi nhuận tương lai dưới dạng cổ tức, trái tức hoặc phần chênh lệch giá. |
Hình thức biều hiện | Vốn đi kèm với hoạt động thương mại, chuyển giao công nghệ và di chuyển sức lao động quốc tế. | Chỉ đơn thuần là luân chuyển vốn từ trực tiếp sang nước tiếp nhận đầu tư. |
Xu hướng luân chuyển | Từ nước phát triển sang nước đang phát triển. | Từ các nước phát triển với nhau hoặc đang phát triển hơn là luân chuyển các nước kém phát triển. |
4. Đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của FDI đối với nền kinh tế
Những mặt tích cực
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm:
FDI không để lại gánh nặng nợ cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như ODA hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài…
Các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận FDI ít phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn như của ODA.
Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính, trong tình huống xấu nhất khi gặp rủi ro thì các đối tác nước ngoài sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với các công ty của nước sở tại.
Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư
FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới… cho nước tiếp nhận đầu tư .
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật mới xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển, do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển, các nước này rất cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao trình độ công nghệ, nhưng thông qua FDI là cách tiếp cận nhanh, trực tiếp và thuận lợi. Thực tế đã cho thâý FDI là 1 kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động….
Thông qua tiếp nhận FDI, nước tiễp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để gắn kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước này.
Thông qua tiếp nhận đầu tư , các nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thích nghi nhanh hơn với các thay đổi trên thị trường thế giới… FDI có vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
FDI có lợi thế là có thể được duy trì sử dụng lâu dài, từ khi một nền kinh tế còn ở mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển rất cao. Vốn ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển, sẽ giảm đi và chấm dứt khi nước đó trở thành nước công nghiệp, tức là bị giới hạn trong một thời kỳ nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này, nó có thể được sử dụng rất lâu dài trong suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế.
Với những ưu thế quan trọng như trên ngày càng có nhiều nước coi trọng FDI hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận FDI hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác.
Một số hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước tiếp nhận:
Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư FDI có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động tối đa vốn trong nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư , có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn đầu tư nước ngoài .Do đó, nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc.
Đôi khi công ty 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, loại trừ đối thủ cạnh tranh khác, độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn áp các doanh nghiệp trong nước.
Thực tế đã cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài đã tranh thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua sử dụng, hoặc nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý, gây ra thiệt hại to lớn cho nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về kinh tế- xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển giữa các vùng.
Với những mặt bất lợi của FDI, nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế, giảm thiểu những tác động tiêu cực này và sử lý hài hòa mối quan hệ của nhà đầu tư nước ngoài với lợi ích quốc gia để tạo nên lợi ích tổng thể tích cực.
5. Đánh giá những tác động của FDI đến phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua. Đề xuất giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam.
Thứ nhất, có những chủ trương, định hướng mới trong thu hút vốn FDI để tăng tốc nền kinh tế.
Gia tăng thu hút các dự án FDI có quy mô vốn lớn, nắm giữ công nghệ cao đến từ các nước phát triển hàng đầu trên thế giới là chủ trương xuyên suốt được đặt ra. Theo đó, để thực hiện tốt điều này, Việt Nam cần có chính sách đảm bảo thu hút vốn FDI chiếm khoảng 25-27% vốn đầu tư xã hội để nền kinh tế bứt tốc. Mỗi năm phấn đấu thu hút khoảng 20 tỷ USD và tỷ lệ vốn thực hiện khoảng 70-75% số vốn đăng ký. Cùng với đó, nâng tỷ lệ vốn FDI đến từ các nước phát triển hàng đầu thế giới để phát triển mạnh hơn nữa công nghiệp điện tử, chế tạo máy móc thiết bị với công nghệ cao, có nhiều giá trị gia tăng và có khả năng xuất khẩu lớn. Đồng thời, làm cơ sở thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp trong nước, góp phần tạo nên các chuỗi giá trị trong nước.
Dự báo đến năm 2030, Việt Nam có khoảng 120 triệu dân, tiếp tục ổn định về chính trị, kinh tế; Việt Nam cần phát triển mạnh các lĩnh vực tự động hóa, cơ điện tử, máy móc phục vụ sản xuất hàng hóa–điện– vận tải, viễn thông, thuốc chữa bệnh, vận tải biển, logistics, chữa bệnh, du lịch.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách thu hút vốn FDI, đảm bảo đồng bộ, nhất quán.
lâu dài và ổn định. Theo lý thuyết, lợi nhuận là đòi hỏi hàng đầu đối với các nhà đầu tư nói chung. Tuy nhiên, cần có các chính sách hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng chuyển giá và khai báo “lỗ giả lãi thật” gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh đó, ban hành các chính sách hấp dẫn nhằm thu hút các nhà đầu tư, tạo ra lợi thế cạnh tranh trong môi trường đầu tư của Việt Nam như: hỗ trợ nhân lực chất lượng cao, giảm hoặc miễn tiền thuê đất, giảm thuế nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu và các nhà đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ khi vào Việt Nam làm ăn. Mặt khác, hạn chế những dự án chỉ có công nghệ trung bình, sử dụng nhiều đất và tiêu tốn nhiều điện lại có nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, đào tạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển.
Việt Nam cần tập trung đào tạo nhân lực quản lý bậc trung và nhân lực làm việc trong lĩnh vực chuyển đổi số. Chính phủ ưu tiên hỗ trợ kinh phí đào tạo nhân lực cho những dự án sử dụng công nghệ cao, quy mô lớn phù hợp với hình thành các lĩnh vực mũi nhọn và các sản phẩm chủ lực của Việt Nam.
Thứ tư, phát triển đội ngũ doanh nghiệp trong nước nhằm hình thành chuỗi giá trị.
Phát triển đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng, quy mô và chất lượng có năng lực kết nối với doanh nghiệp FDI là yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập, thu hút FDI.
Theo đó, thời gian đầu nên phát triển mạnh hình thức liên kết giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước để hình thành đội ngũ đủ năng lực chế tạo thiết bị, linh kiện phục vụ lắp ráp cho các doanh nghiệp FDI lớn. Sau đó thực hiện từng bước mua lại doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của người nước ngoài.
Việt Nam là quốc gia vừa thiếu công nghệ nguồn, công nghệ hiện đại, vừa thiếu nguyên liệu theo yêu cầu của các nhà lắp ráp lớn đã đầu tư vào Việt Nam nên Nhà nước cần có kế hoạch khả thi, thực tế để phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước lớn mạnh.
Thứ năm, đánh giá hiệu quả kinh tế FDI trên phạm vi cả nước
Hàng năm tổ chức triển khai đánh giá hiệu quả kinh tế của FDI trên phạm vi cả nước. Để thực hiện nội dung này, Nhà nước nên có hướng dẫn đánh giá hiệu quả FDI thống nhất cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong đó, cần xây dựng các chỉ tiêu định lượng và cách đánh giá thiệt hại do chuyển giá của doanh nghiệp FDI; Nên hình thành cổng thông tin điện tử về FDI và công khai kết quả đánh giá hiệu quả cho doanh nghiệp, người dân được biết một cách công khai, minh bạch.
6. Xu hướng mới trong FDI trên thế giới
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Không chỉ kịp thời bổ sung cho nguồn vốn trong nước, FDI còn là kênh trao đổi, chuyển giao công nghệ và kỹ năng tổ chức, quản lý tiên tiến; đồng thời còn mở ra những cơ hội tiếp cận với các thị trường quốc tế. Với nhiều quốc gia đang phát triển, FDI đã vượt qua vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA để chiếm tỷ trọng đóng góp lớn nhất trong vốn đầu tư nước ngoài. Xu hướng vận động chung của dòng vốn FDI toàn cầu thời gian qua đã cho thấy nhiều biến đổi phức tạp. Nghiên cứu của UNCTAD (2019) về tình hình FDI thế giới giai đoạn từ năm 2007 đến 2018 (inward FDI) đã khái quát một số điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, sau ba lần sụt giảm liên tiếp vào các năm 2017, 2018 và 2019, dòng vốn FDI toàn cầu đã chạm mức thấp nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, ước tính chỉ đạt 1,2 nghìn tỷ USD năm 2018, giảm 19% so với 1,47 nghìn tỷ USD năm 2017.
Biểu đồ 1 cho thấy, xét về con số tuyệt đối, dòng vốn FDI đi vào nhóm nước phát triển chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hầu hết các năm. Điều này được lý giải bởi, hoạt động đầu tư nước ngoài ở các nước này chủ yếu tập trung vào các ngành có quy mô và yêu cầu về vốn lớn như: sản xuất thiết bị công nghệ thông tin và truyền thông, sản phẩm xăng dầu, sản xuất ô tô và dịch vụ tài chính. Tuy nhiên kể từ năm 2015, lượng vốn FDI đổ vào các quốc gia này có xu hướng giảm liên tục, từ gần 1,2 nghìn tỷ USD xuống còn 451 tỷ USD vào năm 2018 – đây là nhân tố chính khiến dòng vốn FDI sụt giảm trên quy mô toàn cầu. Nguyên nhân chính của xu hướng này bắt nguồn từ việc một số lượng lớn các công ty xuyên quốc gia của Mỹ đã quyết định hồi hương sau khi dự luật cải cách thuế thu nhập doanh nghiệp được Thượng viện và Hạ viện Mỹ thông qua vào năm 2017. Điều này đã gây ra một sự sụt giảm vốn FDI lên đến 73% ở châu Âu, điều chưa từng xảy ra từ những năm 1990.
Trong khi đó, FDI đổ vào các nước đang phát triển lại có xu hướng tăng nhẹ, ngoại trừ các năm từ 2008 đến 2010 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm 2018, các quốc gia đang phát triển chiếm tới 58% lượng vốn đầu tư FDI trên thế giới và một nửa trong số các quốc gia nhận đầu tư nhiều nhất năm 2017 và 2018 cũng thuộc về khối nước đang phát triển, cụ thể là: Ấn Độ, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, và Brazil (Xem biểu đồ 2).
Thứ hai, giá trị các thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A) biến động liên tục từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Năm 2018, giá trị M&A tăng 19% so với 2017, đạt mức cao thứ ba kể từ năm 2007, bởi các các công ty đa quốc gia tiếp tục tận dụng lợi thế của mình về chi phí tín dụng thấp cũng như vị thế thanh khoản cao. Báo cáo của UNCTAD cũng ghi nhận, một phần ba số thương vụ M&A được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia của Mỹ. Doanh số M&A ròng tăng lên 822 tỷ USD vào năm 2018, chủ yếu do hoạt động mua bán trong lĩnh vực dịch vụ (tăng 35% so với 2017, lên đến 462 tỷ USD) và khu vực thứ nhất của nền kinh tế (tăng 65% so với 2017, ước tính 40 tỷ USD). Đặc biệt, mua bán tài sản liên quan đến hoạt động tài chính và bảo hiểm, dầu thô và khí gas tự nhiên tăng mạnh. Ngược lại, M&A trong lĩnh vực sản xuất có xu hướng giảm nhẹ (giảm 2%, 320 tỷ USD). Cùng với sự gia tăng về tổng giá trị M&A, quy mô mỗi thương vụ M&A cũng tăng lên. Cụ thể, báo cáo này chỉ ra, quy mô trung bình năm 2018 là 128 triệu USD, tăng khoảng 30% so với 2017. Số thương vụ M&A lớn hơn 3 tỷ USD tăng từ 63 thương vụ năm 2017 lên đến 80 thương vụ năm 2018, tập trung vào một số ngành công nghiệp như phương tiện truyền thông, thuốc và viễn thông.
Thứ ba, giá trị tổng số dự án đầu tư FDI mới đã phục hồi như dự kiến sau khủng hoảng nhưng cơ bản vẫn còn khá yếu.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm cho giá trị dự án đầu tư mới giảm mạnh từ 1.298 tỷ USD năm 2008 xuống còn 955 tỷ USD năm 2009, sau đó tiếp tục dao động cho đến nay. Tuy nhiên, có thể thấy, sau năm 2012, xu hướng chính là tăng nhẹ, ngoại trừ sự sụt giảm tương đối mạnh vào năm 2017 – ước tính đạt 701 tỷ USD, là mức thấp nhất kể từ năm 2013 đến nay.
Thứ tư, lợi nhuận thu được từ vốn FDI giảm trên tất cả các khu vực.
Năm 2017, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn FDI chạm mức thấp nhất trong giai đoạn 2012-2017 ở tất cả các khu vực trên thế giới. Nhóm các quốc gia đang phát triển, Đông Á và Đông Nam Á đứng đầu về tỷ lệ lợi nhuận trên vốn FDI, đạt mức khoảng 11% giai đoạn từ 2012-2015. Năm 2016 và 2017, tỷ lệ này giảm nhẹ cùng với xu hướng chung của toàn cầu, lần lượt là 10,3% và 10,1%. Do vậy, dự đoán trong thời gian tới, vốn FDI tuy có thể giảm nhẹ nhưng khu vực Đông Á và Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) vẫn sẽ là một điểm hấp dẫn đầu tư FDI với lợi thế về tỷ lệ lợi nhuận trên vốn FDI so với các khu vực còn lại trên thế giới.
Thứ năm, về lĩnh vực đầu tư, hoạt động FDI toàn cầu trong thời gian vừa qua chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp dựa trên dịch vụ như: công nghệ và dịch vụ công nghệ thông tin (chiếm 12,8% tổng số dự án FDI trên toàn thế giới); dịch vụ doanh nghiệp (10,5%); công nghiệp dệt (8,6%); dịch vụ tài chính (7,7%); thiết bị, dụng cụ, máy móc công nghiệp (5,9%); truyền thông (5,3%). Riêng khu vực ASEAN, các lĩnh vực thu hút FDI trong thời gian qua có sự thay đổi nhất định.
Hoạt động FDI ở các nước ASEAN cho thấy xu hướng chuyển dần từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực dịch vụ. Năm 2017 đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu đầu tư, theo đó thương mại bán buôn và bán lẻ đã vượt qua tài chính và sản xuất – vốn là hai ngành có truyền thống thu hút FDI nhiều nhất, để trở thành ngành nghề đứng đầu trong việc hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, một số hoạt động đầu tư nổi bật khác trong thời gian từ năm 2017 trở lại đây là: chăm sóc sức khỏe, R&D, giáo dục, thương mại điện tử, và đặc biệt là công nghệ tài chính. Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đây được xem là một xu hướng đầu tư phù hợp, nhằm hướng tới khai thác những thành tựu của khoa học, công nghệ cũng như phát triển, đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển bền vững.
Trong thời gian tới, một số nhân tố rủi ro đối với hoạt động FDI như: sự xấu đi của bối cảnh kinh tế vĩ mô; điều kiện tài chính toàn cầu bị thắt chặt; căng thẳng thương mại tăng cường; một số nền kinh tế mới nổi dễ bị tổn thương trước các cú sốc của thị trường tài chính; xu hướng bảo hộ thương mại; tác động của nền kinh tế số; sự sụt giảm mạnh mẽ chỉ số hoàn vốn FDI trong suốt 5 năm qua, UNCTAD dự đoán trong trung hạn, dòng vốn FDI nhiều khả năng sẽ không thể phục hồi như mong muốn. Tuy nhiên, một số điểm sáng về các tiêu chí liên quan đến FDI đối với khu vực Đông Nam Á như: giá trị thương vụ mua bán và sáp nhập, giá trị các dự án đầu tư mới hằng năm, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư FDI, hoàn toàn có thể cho phép chúng ta hy vọng về một thời kỳ tăng trưởng trong thu hút FDI tại khu vực này, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, xu hướng đầu tư vào các ngành nghề và lĩnh vực cũng có nhiều sự thay đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là điểm cần lưu ý khi triển khai những kế hoạch, chiến lược thu hút FDI trong bối cảnh mới đối với các quốc gia trong khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng.
7. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua tạo tiền đề quan trọng cho việc mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần tích cực để Việt Nam bắt đầu xây dựng và hoàn thiện nền tảng thể chế ban đầu về đầu tư kinh doanh và kinh tế thị trường. Trong giai đoạn này, đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nói riêng là nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, thúc đẩy Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, từ đó đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn, khủng hoảng.
Năm 1990, lượng FDI đổ vào Việt Nam chỉ đạt 180 triệu USD, thì đến năm 1997, nhờ vào sự năng động chung của khu vực và công cuộc cải cách nhanh chóng của Việt Nam, vốn FDI đã tăng lên 2,6 tỷ USD. Sau khi sụt giảm sâu do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, dòng vốn FDI đã bắt đầu tăng mạnh trở lại từ năm 2003, và đạt mức 2,3 tỷ đô la vào năm 2006. Tuy nhiên về cơ bản, FDI của Việt Nam trong giai đoạn 1986-2006 vẫn thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực như Thái Lan và Malaysia.
Năm 2007, sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã tạo ra làn sóng FDI thứ hai đổ về trong nước, đặc biệt là từ các nhà đầu tư Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Cụ thể là, năm 2008, Việt Nam thu hút được 1.171 dự án với tổng vốn đăng ký lên đến 71,7 tỷ USD, gần bằng số vốn FDI lũy kế của giai đoạn 1988-2007 là 77,8 tỷ USD. Tuy nhiên, bước sang năm 2009 và 2010, dưới ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dòng vốn FDI vào Việt Nam bị sụt giảm đáng kể.
Giai đoạn từ 2011 đến nay, FDI ở Việt Nam đã cho thấy có xu hướng phục hồi và cải thiện sau khủng hoảng. Đây là kết quả đạt được nhờ tiến trình tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện và đẩy mạnh tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) của Việt Nam. Theo báo cáo của UNCTAD về đầu tư khu vực châu Á, Việt Nam là quốc gia duy nhất có dòng FDI đổ về trong nước liên tục tăng qua các năm, trong đó Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN là ba nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, chiếm 67% tổng lượng FDI, tập trung chủ yếu vào công nghiệp chế biến, chế tạo. Thành phố Hồ Chí Minh, với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, là cửa ngõ giao thương quốc tế, có hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển, có nguồn nhân lực chất lượng cao và đồng thời là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 963 dự án và tổng vốn đăng ký là 6.745,4 triệu USD, chiếm 17,5% tổng vốn đầu tư. Bình Dương xếp thứ hai với 554 dự án FDI, tuy nhiên với tổng vốn đầu tư là 2.835,3 tỷ USD (chiếm 7,6% tổng vốn đầu tư) lại xếp thứ ba sau Bắc Ninh với 3.623,7 tỷ USD (chiếm 9,8% tổng vốn đầu tư).
Với việc ký kết và thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, Việt Nam sẽ ngày càng thu hút được nhiều vốn FDI hơn nữa. Bởi lẽ, các mạng lưới hiệp định thương mại này không chỉ là cơ hội để chúng ta tiếp cận thuận lợi hơn với những thị trường quan trọng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ…, mà còn giúp chúng ta thu hút các nhà đầu tư thuộc nhóm tìm kiếm hiệu quả (Efficiency-seeking) bởi các nhà đầu tư này thường hướng việc sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ ở Việt Nam, từ đó xuất khẩu sang thị trường thứ ba và được hưởng các ưu đãi về thuế quan. Tuy nhiên, xu hướng này cũng mang lại những thách thức cho hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam khi chúng ta phải đối mặt với sự cạnh tranh tương đối gay gắt đến từ các nước đối tác trong khu vực mậu dịch tự do FTA về địa bàn sản xuất và dịch vụ xuất khẩu. Hơn thế nữa, môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn tồn tại nhiều rào cản với các nhà đầu tư nước ngoài như vấn đề về khung pháp lý và các điều kiện kinh doanh còn chưa nhất quán, thiếu tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, chi phí hoạt động kinh doanh cao và nhất là khâu thực thi kém hiệu quả. Do đó, đòi hỏi Chính phủ trong thời gian tới phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh thu hút dòng vốn FDI cho Việt Nam
8. Xu hướng mới của ODA hiện nay.
Thứ nhất:Ngày càng có thêm nhiều cam kết quan trọng trong qua hệ hỗ trợ phát triển chính thức
Thứ hai:Bảo vệ môi trường sinh thái đang là trọng tâm ưu tiên của các nhà tài trợ.
Thứ tư: Mục tiêu và yêu cầu của các nhà tài trợ ngày càng cụ thể. Tuy nhiên ngày càng có sự nhất trí cao giữa nước tài trợ và nước nhận viện trợ về một số mục tiêu như: Tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế ; Xoá đói giảm nghèo; Bảo vệ môi trường…
Thứ năm: nguồn vốn ODA tăng chậm và cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong việc thu hút vốn ODA đang tăng lên
Câu hỏi tự luận chương 4: Quan hệ đầu tư quốc tế
1. Các lý thuyết chính về di cư lao động quốc tế?
Lý thuyết về các cơ hội can thiệp (Intervening Opportunities) của Stouffer (1940), nhấn mạnh rằng, di cư tỷ lệ thuận với các cơ hội, ví dụ về thu nhập, việc làm ở nơi đến và tỷ lệ nghịch với các trở ngại có thể xảy ra trong quá trình di cư ở nơi đi và nơi đến. Có thể thấy, lý thuyết này ngầm coi di cư là hành vi lựa chọn duy lý của cá nhân nhằm tối đa hóa các cơ hội, các lợi ích có thể có và tránh, giảm thiểu các khó khăn, trở ngại có thể có của di cư. Theo lý thuyết này, chính sách di cư nói chung và nhất là chính sách di cư, tái định cư đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng cần đặc biệt chú ý đến việc hỗ trợ giảm bớt các yếu tố can thiệp gây khó khăn và tạo ra các điều kiện, cơ hội thuận lợi cho người di cư để đảm bảo cuộc sống của họ ở nơi đến phải tốt hơn hoặc ít nhất là ngang bằng với cuộc sống của họ ở nơi đi. Nói cách khác, chính sách là một loại yếu tố can thiệp thì chính sách cần can thiệp sao cho có lợi đối với người di cư bởi di cư luôn là một quá trình nhiều khó khăn, trở ngại.
Lý thuyết về các nhân tố hút – đẩy (Push – Pull Factors) của Lee (1966), nhấn mạnh rằng di cư là kết quả của sự tương tác của các nhân tố hút và đẩy (các yếu tố can thiệp và các yếu tố cá nhân(2)) có mặt ở cả nơi đến, nơi xuất phát chứ không chỉ đơn thuần là kết quả của các lực đẩy từ nơi xuất phát và các lực hút từ nơi đến đối với người di cư. Lý thuyết này là sự tiếp nối các nỗ lực của E.G Ravenstein trong việc tìm kiếm các quy luật kinh tế giải thích các luồng di cư từ nơi đông dân sang nơi thưa dân, từ nông thôn ra thành thị, từ nơi nghèo đến nơi giàu. Lý thuyết này cho thấy, không chỉ người di cư mà cả người làm chính sách cũng cần có thông tin về các nhân tố hút, nhân tố đẩy ở cả nơi đến, nơi đi và các môi trường của quá trình di cư. Các nhân tố này không chỉ bó hẹp trong phạm vi các nhân tố kinh tế mà rất có thể là các điều kiện phi kinh tế như các điều kiện y tế, giáo dục, trật tự, an toàn xã hội.
Cuộc điều tra di cư nội địa quốc gia ở Việt Nam năm 2015 cho biết: trong các nguyên nhân di cư(3), nguyên nhân kinh tế tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập chiếm tỷ lệ cao nhất (34,7%), tiếp đến là nguyên nhân quan hệ xã hội (kết hôn, gần người thân – 25,5%, nguyên nhân liên quan tới giáo dục, đào tạo (23,4%) và cuối cùng là các nguyên nhân khác (16,4%).
Lý thuyết về quá độ cơ động (mobility transition) của Zelinsky (1971) có tên gốc là “giả thuyết về sự quá độ cơ động” coi di cư là sự quá độ cơ động từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của dân số trong không gian – thời gian xác định. Zelinsky đưa ra giả thuyết về 5 giai đoạn quá độ cơ động lần lượt là: Giai đoạn 1 tương ứng với xã hội tiền truyền thống khi đó chưa xuất hiện thành thị và hầu như không có di cư mặc dù mức độ cơ động, di động là rất lớn. Giai đoạn 2 tương ứng với xã hội truyền thống sớm đặc trưng bởi các cuộc di chuyển, di cư lớn từ nông thôn vào thành thị. Giai đoạn 3 tương ứng với xã hội quá độ muộn đặc trưng bởi di cư thành thị – thành thị đã vượt trội so với di cư nông thôn – thành thị. Giai đoạn 4 tương ứng với xã hội tiên tiến đặc trưng bởi di cư nông thôn – thành thị giảm và di cư thành thị – thành thị vẫn diễn ra mạnh mẽ đồng thời gia tăng di cư thành thị – ngoại ô. Giai đoạn 5 tương ứng với xã hội tiên tiến trong tương lai với việc di cư trở nên phổ biến giữa các thành phố. Mỗi một giai đoạn quá độ cơ động này đều tương ứng với một xã hội nhất định với quy mô, mức sinh, mức tăng trưởng dân số khác nhau. Lý thuyết quá độ cơ động chủ yếu là giả thuyết về di cư trong lịch sử xã hội loài người, do vậy khó có thể kiểm chứng trong một xã hội cụ thể. Tuy nhiên, lý thuyết này nhấn mạnh hai điều quan trọng đối với chính sách phát triển, đó là thứ nhất cần phải coi cơ động xã hội nói chung và di cư nói riêng là một động lực, một cơ chế, một quá trình của hiện đại hóa và tiến bộ xã hội; thứ hai, do vậy, cần tính đến các đặc điểm dân số học của xã hội để có thể đề ra được những chính sách phù hợp với di cư trong từng giai đoạn lịch sử xã hội cụ thể. Ở Việt Nam, di cư chủ yếu là di cư nông thôn – thành thị, đặc trưng cho xã hội đang CNH, HĐH. Cuộc điều tra di cư nội địa năm 2015 cho biết, số lượng người di cư nông thôn – thành thị chiếm tới gần 50%, di cư nông thôn – nông thôn chiếm trên 29%, di cư thành thị – thành thị chiếm 18% còn lại gần 3% là di cư thành thị – nông thôn.
Lý thuyết về các mạng lưới di cư (Migrant Networks) của Taylor (1986). Lý thuyết này chú trọng các nhân tố hút ở các mạng lưới cá nhân của người di cư gồm những người có quan hệ dòng họ, bạn bè và cùng chung nguồn gốc ở nơi đến. Các mạng lưới di cư này thu hút những người di cư bằng nhiều cách khác nhau như: giảm chi phí, giảm rủi ro và tạo các điều kiện, cơ hội cần thiết trong cuộc sống. Điều tra di cư nội địa của Việt Nam (2015) cho biết: đa số (64%) người di cư có họ hàng, người thân, bạn bè và đồng hương đang sống tại nơi đến. Như vậy lý thuyết và kết quả điều tra cho thấy rõ vai trò đặc biệt quan trọng của các mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân, gia đình, nhóm trong việc cung cấp thông tin và hỗ trợ đối với người di cư. Do vậy, chính sách di cư nói chung và chính sách về di cư đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng cần chú trọng thiết lập các mạng lưới di cư chính thức và không chính thức của người di cư ở cả nơi đến và nơi đi. Trên thực tế, các thông tin và các nguồn lực vật chất, tinh thần được lan tỏa, cộng hưởng nhanh chóng và hiệu quả trong mạng lưới di cư phi chính thức so với mạng lưới chính thức kiểu quản lý hành chính nhà nước.
Lý thuyết về các không gian xã hội xuyên quốc gia (Transnational Social Spaces) của Pries (1999) và Faist (2000) cho rằng, tập hợp các vị trí và các mối quan hệ, các tương tác trong các tổ chức, mạng lưới giữa các cá nhân và nhóm xuyên biên giới tạo nên “các không gian xã hội xuyên quốc gia” có thể đóng vai trò thúc đẩy di cư quốc tế(4). Cơ chế thúc đẩy ở đây là các vốn xã hội (social capital) trong các không gian xã hội xuyên quốc gia luôn có chức năng cầu nối; và các nguồn lực có thể giúp người di cư vừa thực hiện được mục đích, vừa tăng cường vị trí, vai trò và các mối quan hệ của họ. Có thể vận dụng lý thuyết chuyên về di cư quốc tế này vào nghiên cứu di cư nội địa trong một nền kinh tế chậm phát triển như Việt Nam. Theo lý thuyết này, người di cư gồm cả đồng bào dân tộc thiểu số luôn có xu hướng bị hút vào những không gian xã hội xuyên vùng miền, nơi có thể giúp họ giao lưu, học hỏi nhưng vẫn duy trì, phát huy bản sắc văn hóa của họ. Câu hỏi tại sao di cư được trả lời từ lý thuyết này là di cư để tìm đến với những không gian xã hội phù hợp hơn. Như vậy, di cư không đơn giản là sự di chuyển trong không gian địa lý hoặc giữa các không gian địa – chính trị, địa – kinh tế mà còn bao hàm cả sự di chuyển giữa các không gian xã hội gồm cả không gian vật chất và không gian tinh thần, văn hóa, xã hội. Điều đặc biệt là người di cư không chỉ di chuyển vị trí của họ trong các không gian xã hội mà còn có thể góp phần biến đổi, mở rộng và phát triển các không gian xã hội đó.
2. Những đặc điểm chủ yếu của di cư lao động quốc tế hiện nay?
Thứ nhất, đa số lao động di chuyển từ các nước đang phát triển không có nghề nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp
Lao động di chuyển từ các nước đang phát triển chủ yếu là lao động phổ thông. Do không có chuyên môn nghề nghiệp nên lao động thường tập trung vào những lĩnh vực như xây dựng, khai mỏ, nông nghiệp và giúp vịêc gia đình…
Lao động Trung Quốc di cư sang châu Phi trong thập kỷ đầu thể kỷ XXI tăng rất nhanh, chủ yếu là nông dân, công nhân xây dựng, công nhân hầm mỏ, lao động tiểu thương…
Tuy nhiên, những nước tiếp nhận nguồn lao động này từ các nước đang phát triển có thời hạn không dài (tạm thời ký trong khoảng thời gian từ 3-5 năm) nhằm mục đích tránh những hậu quả xã hội của nhóm lao động di cư không nghề hoặc bán chuyên nghiệp để lại.
Thứ hai, lao động di chuyển tăng nhanh thể hiện ở mức tăng liên kết thị trường lao động
Singapore phát triển kinh tế dựa vào chiến lược sử dụng lao động di cư thông qua cơ chế quota và thu thuế. Từ những năm 1980s sự bùng nổ kinh tế của Malaysia và Thái Lan dẫn tới việc thiếu hụt lao động ở các nước này. Do đó, Malaysia và Thái Lan đã thực hiện chiến lược mở cửa đối với lao động di cư từ các nước khác trong khu vực. ASEAN đang tập trung phát triển một thị trường chung đối với việc di chuyển tự do người lao động và xóa bỏ yêu cầu visa từ lao động trong khu vực. Philippin là nước có số lao động di cư ra nước ngoài nhiều nhất – đó là những chuyên gia và lao động có kỹ năng, chuyên môn – di cư tới các nước khác nhau trên toàn thế giới.
Một số nhóm có chuyên môn, kỹ năng nhất định thì chỉ di cư tới một số nước. Ví dụ, lao động giúp việc gia đình chủ yếu tập trung ở Hồng Công và Saudi Arabia; lao động trong lĩnh vực nghệ thuật di cư tới Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á khác. Các chuyên gia công nghệ thông tin và y tá di cư tới Mỹ và Anh. Rõ ràng, sự chuyên môn hóa thị trường lao động làm tăng mối liên kết thị trường giữa các quốc gia trong khu vực.
Thứ ba, di cư lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ diễn ra mạnh ở những nước có tốc độ tăng trưởng nhanh
Làn sóng di cư lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ diễn ra mạnh nhất ở Trung Quốc, Campuchia và Việt Nam – những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh kể từ năm 1995. Khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách và mở cửa kinh tế (1978), đã có khoảng 130 triệu người Trung Quốc di chuyển từ nông thôn lên thành phố để tìm kiếm việc làm (chưa tính đến số di chuyển ra nước ngoài làm việc). Dòng di cư này, theo Liên hợp quốc, là lớn nhất trên thế giới, đã tiếp sức cho mức độ tăng trưởng thần kỳ của Trung Quốc, cải thiện điều kiện sống cho những người lao động nghèo đói.
Năm 1978, Trung Quốc có 283 triệu lực lượng lao động nông nghiệp, chiếm 93% tổng lực lượng lao động xã hội. Cùng với sự phát triển và cải cách kinh tế, qui mô di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố ngày càng tăng. Khác với các nước đang phát triển khác, di chuyển lao độngTrung Quốc đặc trưng bởi những xu hướng lan truyển nhanh do sự phân chia lịch sử tồn tại giữa nông thôn và thành thị của hệ thống hukou (hukou system). Thời kỳ đầu cải cách chỉ có một số lượng nhỏ lao động di cư, chủ yếu tập trung ở những lao động thủ công. Cùng với mức tăng của năng suất lao động nông nghiệp, lực lượng lao động nông nghiệp bắt đầu chuyển ra ngoài khu vực với qui mô ngày càng lớn. Đặc biệt sự bùng nổ kinh tế sau năm 1992 dẫn tới qui mô di chuyển lao động tăng rất nhanh. Tăng trưởng kinh tế ở các khu vực ven biển – nơi chủ yếu tập trung lao động công nghiệp và lao động có xu hướng xuất khẩu – thu hút ngày càng nhiều lao động nông thôn của Trung Quốc đến tìm kiếm việc làm ngoài nông nghiệp. Số lượng lao động di chuyển tăng lên từ 2 triệu lao động (1983) lên 30 triệu lao động (1990) tới 63 triệu người (1993) và 75,5 triệu người (2000). Năm 2007, lao động di chuyển lên thành phố đã chiếm tới 136 triệu người (khoảng 46,5% tổng số việc làm ở thành phố.
Thứ tư, đa số lực lượng lao động di cư là nữ
Hai thập kỷ gần đây di cư lao động nữ chiếm tỉ lệ ngày càng tăng. Theo báo cáo của Action Aid, lực lượng di cư đang có xu hướng nữ hoá, 81% lao động di cư từ Indonesia (năm 2004), 72% lao động di cư từ Philippines (năm 2006) và 60% lao động di cư từ Việt Nam (năm 2008) là lao động nữ. Do sự phát triển của ngành chế tạo và dịch vụ cũng như nhu cầu giúp việc gia đình tăng đã dẫn tới nữ hóa dòng lao động di cư của các nước đang phát triển. Di cư lao động nữ thường tập trung nhiều ở Philippin và Inđônêsia.
Từ năm 1992 đến nay, di cư lao động nữ ở Philippin chiếm tới 60-80% tổng số lao động di cư ra nước ngoài tìm việc làm. Phần lớn trong số họ làm các công việc như dịch vụ chăm sóc sức khỏe và quét dọn trong gia đình với mức lương thấp. Trong khi phụ nữ Philippin có xu hướng di cư tới khắp các nước trên thế giới, thì phụ nữ Inđônêsia chủ yếu tới các nước vùng Vịnh và Trung Đông để tìm việc làm. Đặc biệt di cư tởi Tây Á chiếm hơn 93% lao động di cư nữ của Inđônêsia. Sở dĩ nữ chiếm phần lớn trong dòng di cư lao động là do thị trường nhập khẩu ngày càng được mở rộng cho lao động nữ. Thị trường tiếp nhận lao động nữ nhiều nhất là Trung Đông, đặc biệt là Ả rập Saudi và Kwait.
Thứ năm, di cư lao động bất hợp pháp gia tăng
Mạng lưới di cư bất hợp pháp ngày càng được lựa chọn do những kênh nhập cư hợp pháp đang ngày càng bị thu hẹp. Các nước đang phát triển châu Á đều có số lượng lao động di cư bất hợp pháp cao hơn người lao động di cư hợp pháp.
Sở dĩ di cư bất hợp pháp tăng là do chính sách quản lý di cư thiếu chặt chẽ và mong muốn của các chủ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm và bóc lột lao động dễ dàng. Di cư bất hợp pháp có thể thỏa mãn nhu cầu sử dụng lao động hiệu quả, song không đảm bảo quyền lợi và điều kiện an toàn cho người lao động. Di cư bất hợp pháp từ các nước đang phát triển thường tập trung tới các quốc gia có mức thu nhập cao hơn, môi trường sống ưa thích hơn như Bắc Mỹ, Tây Âu, Pháp, Italia…
Lao động bất hợp pháp tới Thái Lan chủ yếu đến từ Myanmar làm việc trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và trong ngành chế xuất. Lao động bất hợp pháp tới Malaysia đến từ Indonesia, Philippin, Trung Quốc và Ấn Độ. Malaysia được xem là quốc gia có số lượng lao động bất hợp pháp cao (lên tới 30%) so với các nước phát triển OECD (5,0% – 20,0%). Để hạn chế số lượng lao động bất hợp pháp, chính phủ Thái Lan cho phép lao động bất hợp pháp (đến từ Campuchia, Lào và Myanmar) được đăng ký cấp phép. Hơn 700 nghìn lao động bất hợp pháp đã được cấp phép mới. Lao động bất hợp pháp của Việt Nam tới Campuchia thường kiếm được nguồn thu nhập cao hơn người bản xứ do họ làm các công việc có kỹ năng chuyên môn cao.
3. Thực trạng của di cư lao động quốc tế?
Di chuyển lao động có chuyên môn cao quốc tế tăng rất nhanh từ những năm 1970. Các nước châu Phi, Caribbean và Trung Mỹ có tỉ lệ di chuyển lao động chuyên môn cao nhiều nhất. Trong những năm 2000, hơn một nửa dân số có trình độ đại học ở Trung Mỹ và quốc đảo Caribbean đã di chuyển và sinh sống ở nước ngoài. Gần 20% lao động có chuyên môn cao đã rời khỏi vùng châu Phi cận Saharan. Điều đó chứng tỏ rằng nguồn nhân lực chuyên môn cao đang ngày càng được quốc tế hóa di chuyển và chính sách di cư của các nước giàu có xu hướng lôi cuốn lao động chuyên môn cao.
Đặc biệt, di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế từ châu Á đến Mỹ, Canada , Úc và Anh tăng nhanh trong những năm 1990s. Nhu cầu công nghệ thông tin và lao động có chuyên môn cao ngày càng tăng ở các nước OECD chính là nguyên nhân của các cuộc cải cách chính sách và điều lệ di cư, tạo thuận lợi cho sự di chuyển lao động chuyên môn cao. Di chuyển lao động chuyên môn cao ngày càng tăng ở các nước OECD nhưng chủ yếu tập trung vào các chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin IT, các nhà nghiên cứu và quản lý giỏi. Trong khi di chuyển lao động chuyên môn cao ở nội bộ các nước EU còn hạn chế thì di chuyển lao động chuyên môn cao giữa EU với các nước khác ngoài EU đang ngày càng tăng. Ví dụ, lao động có chuyên môn cao tại Pháp, Anh và Đức là những nguồn lực chính di chuyển tới Mỹ với chương trình visa tạm thời H1B (dành cho lao động có trình độ cao, có thể làm việc tối đa ở Mỹ 6 năm). Mỹ cũng có nhiều chính sách khuyến khích người nước ngoài làm việc tạm thời tại các nước OECD. Hai đặc điểm nổi bật của di chuyển lao động chuyên môn cao tới Mỹ, đó là:
Thứ nhất, di chuyển lao động chuyên môn cao tạm thời (temporary) tăng nhanh trong nửa sau thập kỷ 1990s, trong khi di chuyển lao động chuyên môn cao có tính dài hạn (permanent) như các kỹ sư, các chuyên viên máy tính lại giảm rất mạnh từ năm 1992;
Thứ hai, làn sóng di chuyển lao động chuyên môn cao trong các ngành như bác sĩ, các chuyên gia y tế cao cấp … đang tăng rất mạnh trong những năm 2000s.
Theo Tổ chức những người di cư quốc tế (OIM), con số những người có bằng cấp ở châu Phi ra đi những năm đầu 1980 là 40.000 người, thì năm 1987 đã là 80.000 người – tăng gấp đôi. Riêng Zimbabue, là nước bị ảnh hưởng nặng nhất với hơn 50% nhân viên y tế tay nghề cao đã chọn “nhiệm sở “ ở nước ngoài. Sự ra đi này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của lục địa vốn đã nghèo đói này. Theo WHO châu Phi đang thiếu tới 1 triệu nhân viên y tế, trong khi đó xu hướng ra đi của lực lượng này đang có xu hướng gia tăng trước nhu cầu ở các nước phát triển. Riêng Mỹ tính đến năm 2020 cần tới 800.000 hộ lí và 200.000 bác sĩ từ nước ngoài. Mỗi nhân viên y tế ra đi châu Phi mất 500.000 USD với một bác sĩ và 200.000 USD với một y tá cho chi phí huấn luyện, đào tạo.
Mêhicô cũng là quốc gia chịu ảnh hưởng của tình trạng di chuyển lao động chuyên môn cao. Theo công bố của Hội đồng KH và CN quốc gia Mêhicô (CONACYT) từ 1971 đến 2005 đã có 2100 người có trình độ chuyên môn cao ra nước ngoài không trở về, khiến Mehicô thiệt hại hơn 106,5 triệu USD. Đáng chú ý trong 4 năm đầu của nhiệm kỳ Tổng thống Vicente Fox đã có tới 670 sinh viên tốt nghiệp mà không trở về tổ quốc.
4. Nguyên nhân chủ yếu của di cư lao động quốc tế?
Di chuyển “lao động chuyên môn cao” là một hiện tượng bình thường, và ngày càng xảy ra thường xuyên hơn của thị trường lao động. Nền kinh tế càng phát triển, hiện tượng này càng phổ biến, và là điều kiện không thể thiếu của sự phát triển lành mạnh. Những người lao động tri thức là những người có tính di động rất cao. Muốn đẩy nhanh sự phát triển kinh tế-xã hội và xây dựng nền kinh tế tri thức, thì các quốc gia phải khôn ngoan đối mặt với hiện tượng di chuyển của những người lao động nói chung và người lao động tri thức nói riêng, có chính sách “trọng dụng” họ, tạo mọi điều kiện (về vật chất và tinh thần) để họ làm việc có hiệu quả. Theo các chuyên gia kinh tế, có 4 nhóm nguyên nhân cơ bản sau dẫn đến sự di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế:
1) Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế là do kết quả của quá trình toàn cầu hóa. Quá trình toàn cầu hoá làm tăng chênh lệch thu nhập giữa các quốc gia. Mức chênh lệch ngày càng tăng về trình độ phát triển giữa các quốc gia, dẫn tới sự phát triển không đồng đều về kinh tế xã hội. Quá trình toàn cầu hóa và những chính sách di cư chọn lựa ngày càng tạo điều kiện thuận lọi cho việc di chuyển lao động có chuyên môn cao quốc tế. Trong mỗi quốc gia, tri thức giáo dục vẫn được coi là yếu tố quyết định đến việc di chuyển lao động. Lao động càng có trình độ chuyên môn cao càng có xu hướng di cư nhiều. Và trình độ giáo dục chính là nhân tố thúc đẩy tốc độ di chuyển lao động. Giáo dục cũng làm tăng khả năng di chuyển lao động ra nước ngoài. Toàn cầu hóa được thể hiện mạnh trong những năm 1990s đó là cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự liên kết kinh tế của thị trường sản phẩm (toàn cầu hóa các công ty ngày càng tăng).
2) Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế là hậu quả của sự khan hiếm lao động chuyên môn cao của nước nhận lao động. Sự khan hiếm lao động chuyên môn cao được phản ánh thông qua việc trả lương cho lao động có chuyên môn cao hơn mức thu nhập của lao động trong nước. Lao động có chuyên môn cao thường tham gia vào các ngành công nghiệp có kỹ năng cao (high – tech), vào việc quản lý các doanh nghiệp đa quốc gia (MNEs) và tham gia vào các ngành khoa học công nghệ, các ngành công nghiệp tri thức toàn cầu.
Di chuyển lao động chuyên môn cao được đặc trưng bởi “cầu kéo” (demand – pull) từ phía các nước nhận lao động. Các chính sách di chuyển lao động của nước nhận lao động phản ánh sự thiếu hụt của thị trường lao động trong nước. Kết hợp cùng với những tác động của sự chọn lựa từ phía cung (nước gửi lao động), điều này sẽ dẫn đến tỉ lệ di chuyển vốn nhân lực có chuyên môn cao từ các nước đang phát triển tới các nước phát triển.
3) Do chính sách “thu hút nguồn nhân lực chuyên môn cao” của các nước phát triển. Sự “di chuyển” ngày càng tăng của “nguồn nhân lực chất lượng cao” là do nước nhận lao động đã dành cho họ những điều kiện làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn, môi trường phát huy trí tuệ tốt hơn,… Trong số 150 triệu người tham gia các hoạt động khoa học và công nghệ trên thế giới, thì 90% số họ sinh sống và làm việc ở 7 nước công nghiệp phát triển nhất; riêng Mỹ và Canada chiếm khoảng 25%. Do các nước đang phát triển không có đủ phương tiện và điều kiện để đối phó với sự mất mát nguồn nhân lực khoa học, không phát huy và khai thác hết được tiềm năng của đội ngũ các nhà khoa học. Trong khi đó, điều kiện làm việc của các nhà khoa học ở các nước phát triển thuận lợi hơn nhiều. Sự chênh lệch về mức thu nhập trong cùng một chức danh khoa học giữa hai nhóm nước lên đến 12 lần. Ở các nước đang phát triển, các ngành công nghiệp, công nghệ và các trường đại học không có khả năng kết hợp với nhau để làm việc, từ đó gây ra cảm giác thất vọng thúc đẩy “lao động có chuyên môn” di chuyển.
4) Do thiếu dịch vụ bảo hiểm và cơ chế quản lý rủi ro. Ở các nước phát triển rủi ro trong thu nhập được tối thiểu hóa thông qua thị trường bảo hiểm của tư nhân và chính phủ. Song ở các nước đang phát triển do cơ chế quản lý rủi ro không hoàn hảo, người lao động khó có khả năng tiếp cận được thị trường bảo hiểm. Do vậy, người lao động có xu hướng di chuyển về thị trường lao động có bảo hiểm để tối đa hóa nguồn thu nhập và tối thiểu hóa những mất mát, rủi ro. Những lao động tri thức, có chuyên môn cao hơn ai hết lại là những người nhận thức rõ điều này. Và do những hạn chế, yếu kém trong cơ chế, chính sách ở các nước đang phát triển đã tạo ra dòng di chuyển lao động quốc tế mạnh.
5. Tác động của di cư lao động quốc tế tới nước gửi lao động?
* Tác động tích cực tới quốc gia xuất xứ của lao động di cư
Sự di chuyển của người lao động sang quốc gia khác mang lại một số tác động tích cực đối với quốc gia gửi lao động, điều này thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, di chuyến quốc tế về lao động góp phần giảm gánh nặng dân số và tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động tại các quốc gia dư thừa lao động.
Trên thế giới, nhiều quốc gia có tốc độ gia tăng dân số cao, trong khi nền kinh tế phát triển với tốc độ không đù nhanh để tạo ra những việc làm mới, khiến tỉ lệ thất nghiệp tại các quốc gia này có xu hướng tăng dần. Nhiều người lao động mong muốn được ra nước ngoài làm việc, và khi tham gia lực lượng lao động xuất khẩu, họ có thể nhận được việc làm với mức thu nhập cao hon so với khi không đi sang quốc gia khác để tìm việc, và như vậy cũng tạo thêm cơ hội cho những lao động khác đang bị thất nghiệp tại địa phương của quốc gia gửi lao động tìm được công việc phù hợp, làm giảm lượng cung lao động tại chỗ ở nước gửi lao động và khiến tiền công cho phần lực lượng lao động ở lại tăng lên. Điều này sẽ góp phần mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Vì di chuyển lao động quốc tế là hoạt động lựa chọn, nên nó có thể gây áp lực về tiền lương đối với người lao động ở một số lĩnh vực. Ví dụ, tại Pakistan, người nhập cư từ các nước Vùng Vịnh làm gia tăng mức lương trả cho những lao động ngành xây dựng có kĩ năng, và cả những lao động ít kĩ năng trong ngành xây dựng và nông nghiệp. Tương tự, mức lương thực tế tại Philippines đã tăng cùng chiều với số người di cư, đặc biệt là những lao động trong ngành chế tạo. Tại Ấn Độ, có những chỉ báo cho thấy một lượng lớn người di cư từ bang Kerala tới khu vực Vùng Vịnh góp phần làm tăng lương ở bang này. Một số quốc gia có tỉ lệ di cư ròng cao cũng gặp phải những vấn đề liên quan đến thất nghiệp. Tại những quốc gia nhỏ có lượng người nước ngoài cao, tỉ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm giảm xuống do di dân có thể ở mức đáng kể.
Tuy nhiên, có nghiên cứu cho rằng, tại những quốc gia gửi lao động có số lượng dân cư đông, mức người di cư cao có thể có tác động không nhiều tới thất nghiệp và mức lương.
Thứ hai, di chuyến quốc tế về lao động giúp tăng thêm nguồn thu ngoại tệ, tăng vốn đầu tư tư nhăn, cùng với những kiến thức và công nghệ tiên tiến.
Những người di cư đang ở nước ngoài vẫn có thể có tác động tích cực đối với nước xuất xứ, theo đó, họ đóng góp thông qua số tiền kiều hối chuyển về nước, qua hoạt động chuyển giao kiến thức, công nghệ và vốn đầu tư về nước nhằm giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động tại quê hương. Khi những người nhập cư này hồi hương cùng với những kĩ năng hoặc khoản tiền có được, họ có thể có đóng góp tích cực vào sự phát triển của nước xuất xứ.
Các khoản kiều hối do người lao động di cư gửi về là nguồn thu nhập đáng tin cậy và ổn định, có xu hướng dao động ít do tác động của chu kì kinh tế hơn và do đó ít biến động hơn so với các dòng vốn khác. Nguồn vốn này chảy thẳng vào khu vực dân cư, do đó có tính thúc đẩy đầu tư tư nhân cao, giải quyết việc làm, nâng cao mức thu nhập cho các chủ thể nhận kiều hối và các chủ thể được hưởng lợi từ nguồn đầu tư kiều hối. Trong khi nguồn vốn FDI có thể để lại nhiều tác động tiêu cực như gây ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội gia tăng và nếu các doanh nghiệp FDI không xuất khẩu thì sẽ làm tăng mức độ cạnh tranh với hàng hóa cùng loại sản xuất trong nước. Còn đối với nguồn vốn ODA cũng là nguồn vốn quan trọng, nhưng phần lớn là vốn vay, nếu sử dụng không tốt sẽ tạo ra gánh nặng nợ nần cho các thế hệ sau. Trong khi đó, nguồn vốn kiều hối vừa không phải lo trả nợ vừa không phải đối mặt với một số tác động tiêu cực trên…
Tuy nhiên, kiều hối có thể khiến xuất khẩu trở nên kém cạnh tranh hơn và đầu tư vào những ngành thay thế nhập khẩu trở nên kém hấp dẫn hơn, vì chúng có xu hướng đẩy giá trị của nội tệ hoặc tỉ giá hối đoái lên. Nhưng phần lớn các nhà hoạch định chính sách tại các nước xuất xứ dường như cho rằng tác động này về tổng thể là tích cực, đặc biệt là do nhu cầu trao đổi ngoại hối để bù đắp khoản thâm hụt thương mại và các khoản nợ nước ngoài.
Thứ ba, người lao động sang quốc gia khác làm việc góp phần thiết lập những mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa quốc gia xuất xứ và tiếp nhận, qua đó tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi thương mại, tăng cường hợp tác về chính trị, văn hóa, khoa học – kĩ thuật… giữa haỉ quốc gia.
Ví dụ điển hình nhất là liên quan đến ngành công nghệ thông tin (CNTT) của Ấn Độ. Ban đầu, Chính phủ Ấn Độ không dành nhiều nỗ lực để phát triển ngành CNTT, lo ngại rằng nó sẽ làm mất đi nhiều việc làm. Nhung các doanh nghiệp đa quốc gia tại Ấn Độ nhận thấy có nhiều tài năng CNTT ở nước này và gửi các công dân Ấn Độ ra nước ngoài làm việc. Trong khi đó, các doanh nghiệp Ấn Độ cũng đưa các chuyên gia CNTT ra nước ngoài và nhanh chóng nhận ra lợi ích của việc đưa một vài người trong số họ trở lại làm việc ở trong nước. Chính phủ Ấn Độ sau đó thúc đẩy ngành CNTT bằng cách giảm các hàng rào đối với máy tính nhập khẩu và giúp bảo đảm những hạ tầng cần thiết. Cho đến năm 2005-2006, Ấn Độ đã đạt mức doanh thu 23,4 tỉ USD hàng năm từ việc xuất khẩu các sản phẩm phần mềm và dịch vụ CNTT.
Thứ tư, xuất khẩu lao động góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại nước gửi lao động.
Khi các lao động di chuyển ra nước ngoài làm việc, họ được tiếp cận những công nghệ tiên tiến và những kiến thức hiện đại, ý thức kỉ luật và lối sống văn minh, trình độ ngoại ngữ và tay nghề, kĩ năng nghề nghiệp của người lao động cũng dần được nâng cao. Do vậy, nước có lao động di cư đã tiết kiệm được chi phí đào tạo họ. Mặt khác, khi những lao động này quay trở về nước, họ sẽ mang theo những kiến thức và kĩ năng đã tích lũy và rèn luyện được để áp dụng vào quy trình sản xuất, kinh doanh mà họ tham gia. Điều này góp phần thúc đẩy năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và đóng góp tích cực giúp nền kinh tế quê hương tăng trưởng.
Cơ hội đi làm việc tại nước ngoài sẽ tăng thêm động lực đầu tư vào giáo dục của cả nhà nước và của mỗi gia đình, mỗi cá nhân. Nhờ đó, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và các điều kiện khác để tổ chức đào tạo và đào tạo lại lao động được cải thiện, mỗi cá nhân cũng sẽ có thêm động lực để học tập, trau dồi trình độ, tay nghề và điều này mang lại nhiều lợi ích cho xã hội nói chung. Ngoài ra, các thể chế và chính sách trong quốc gia gửi lao động cũng có thể chịu ảnh hưởng từ sự kiện số người lao động ra nước ngoài làm việc, điển hình như nhà nước cải thiện các chính sách giữ lại lao động có kĩ năng, các doanh nghiệp tăng cường các chính sách thu hút người lao động có trình độ vào làm việc lâu dài…
*Tác động tiêu cực tới quốc gia xuất xứ của lao động di cư
Thứ nhất, sự di chuyển của lao động trình độ cao sang nước khác làm giảm nguồn cung cấp nhân lực, là một trong những nguồn lực có ỷ nghĩa quan trọng đóng góp vào tăng trưởng và phát triến của mỗi quốc gia.
Những lao động di chuyển sang quốc gia khác vì nhiều lý do, bao gồm mức lương cao hơn, cơ hội tốt hơn và khả năng thăng tiến tốt hơn. Tuy nhiên, không phải tất cả người lao động đều có cơ hội như nhau để di chuyển sang quốc gia khác làm việc. Những nước tiếp nhận có thể tuyển chọn phàn lớn là những người giỏi, có trình độ và tay nghề, lấy đi những người mà các quốc gia nghèo đã đầu tư nhiều cho giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, thường là bằng ngân sách công.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, 77 quốc gia trải qua tình trạng bị giảm 10% trở lên những công dân trình độ đại học vào năm 2000, trong khi 28 quốc gia bị giảm 30% trở lên. Ngoài ra, theo WB, các nước Caribbean đã bị thu hút hơn 60% những công dân có kĩ năng di cư ra nước ngoài. Ước tính 56% những người nhập cư có học vấn cao tại các nước OECD là đến từ các nước đang phát triển.
Chảy máu chất xám là mối lo ngại thực sự, đặc biệt là với các nước đang phát triển và chậm phát triển, vì nó có thể có tác động rất lớn đối với sự phát triển bền vững, làm giảm khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn của quốc gia đó. Các nước có nhiều lao động có kĩ năng rời đi có thể phải chịu ảnh hưởng của việc sụt giảm nguồn lực. Còn các doanh nghiệp địa phương đầu tư vào quá trình đào tạo cũng sẽ gặp khó khăn để thu hồi khoản đầu tư của mình nếu các lao động được đào tạo của họ thường xuyên rời sang nước ngoài làm việc. Trong nhiều trường hợp, tình trạng chảy máu chất xám còn dẫn đến sự lãng phí về công sức, chi phí đào tạo nếu những lao động này không làm việc đúng trình độ và chuyên môn của họ.
Thứ hai, việc di chuyến của người lao động có kĩ năng có thể cũng tác động tới dòng chuyển của vốn.
Các quốc gia không có đủ lao động có kĩ năng tại địa phương có thể không thành công trong việc thu hút FDI từ các doanh nghiệp nước ngoài, do lo ngại không tuyển dụng đủ lao động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc phải chi nhiều tiền hơn cho hoạt động đào tạo khi tuyển dụng nhân sự mới.
Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2017 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố đã chỉ ra, 69% doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cho biết đang gặp phải khó khăn trong việc tuyển dụng các cán bộ kĩ thuật có tay nghề để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Theo đó, doanh nghiệp FDI đánh giá chất lượng đào tạo và hiệu quả của lao động Việt Nam năm 2017 đạt 3,8 điểm. Điều này dẫn tới doanh nghiệp phải chi nhiều tiền hơn cho hoạt động đào tạo khi tuyển dụng nhân sự mới. Báo cáo ghi nhận chi phí trung bình cho hoạt động này chỉ chiếm 3,6% chi phí kinh doanh vào năm 2013, nhưng sau đó đã tăng vọt lên 5,9% trong năm 2014 và ở mức 5,7% vào năm 2017.
Hơn nữa, người lao động có thể không chỉ rời sang quốc gia khác làm việc, mà còn mang theo nguồn vốn đáng kể, điều này thể hiện rõ nhất thông qua hoạt động của các nhà đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, đa số các quốc gia đang phát triển đều rất cần vốn để phát triển kinh tế, đồng thời còn giúp tạo việc làm và thu nhập cho lao động trong nước.
Ngoài ra, nếu xem xét tác động của xuất khẩu lao động theo từng nhóm đối tượng, chúng ta có thể thấy một số tác động không như mong muốn như sau:
Một là, xuất khẩu lao động có thể gây ra những tác động tiêu cực về mặt xã hội như mất cân bằng giới tính, khi một số vùng địa lý, tỉ lệ nam giới hoặc nữ giới tham gia xuất khẩu lao động cao hom nhiều so với giới tính còn lại. Điều này khiến người ở lại đảm nhận thay cả vai trò của người đi xuất khẩu lao động trong gia đình nhưng vẫn không thể thay thế được hoàn toàn, khiến thiếu tình cảm gia đình, dễ dẫn tới mâu thuẫn trong gia đình và cộng đồng.
Hai là, người lao động đi làm việc ở nước ngoài dễ bị tổn thương về tinh thần hơn. Các quốc gia trên thế giới đều có hệ thống luật nhập cư, luật cư trú, luật lao động theo hướng bảo hộ quyền lợi của công dân nước mình. So với người lao động bản xứ, người lao động nước ngoài thường không được hưởng các quyền lợi ngang bằng, nên tình trạng này có thể khiến họ cảm thấy bị phân biệt đối xử, cảm thấy tự ti. Bên cạnh đó, bản thân nhiều người lao động chưa nắm rõ chính sách về lưomg, bảo hiểm, nhà ở của nước mà họ đến làm việc, và do trình độ ngoại ngữ hạn chế nên hiểu biết và chấp hành pháp luật nước sở tại gặp nhiều khó khăn. Họ chưa hiểu rõ về các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, dễ vi phạm pháp luật nước sở tại và cũng không biết vận dụng luật pháp nước sở tại để tự bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của mình. Chính những điều này dẫn tới nhiều người lao động nhập cư có khuynh hướng sống khép kín hơn, cùng với việc phải sống xa gia đình trong môi trường hoàn toàn mới khiến họ dễ gặp các vấn đề về tâm lý hơn.
6. Tác động của di cư lao động quốc tế tới nước tiếp cận lao động?
* Tác động tích cực tói nước tiếp nhận lao động di cư
Thứ nhất, người lao động di cư có đóng góp tích cực đối với tảng trưởng và chuyển đổi cơ cấu lãnh tế của quổc gia tiếp nhận.
Điều này đã được chứng minh rõ nét từ thực tế trong lịch sử của các quốc gia đã trải qua tình trạng nhập cư. Tại châu Âu, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những lao động nhập cư đã được ghi nhận đóng góp tích cực vào quá trình hơn 30 năm tăng trưởng của khu vực. Phân tích thống kê đối với 15 nước châu Âu giai đoạn 1991 – 1995 cho thấy, với mỗi 1% tăng lên của dân số quốc gia do gia tăng người nhập cư, GDP của nước tiếp nhận cũng tăng lên 1,25 – 1,5%? Còn tại Bắc Mỹ, nhiều thế hệ người di cư tới Canada và Hoa Kỳ đã góp phần trẻ hóa dân số và tiếp thêm năng lượng cho nền kinh te, hoặc nếu tác động của di cư đối với thị trường lao động là không lớn, nó cũng giúp khuyến khích sự tích tụ vốn của các quốc gia này.
Thứ hai, người lao động di cư góp phần tích cực làm tăng thu nhập của người dân.
WB cho rằng, giả sử di cư từ các nước đang phát triển tới các quốc gia thu nhập cao tăng ở mức vừa phải (14,2 triệu lao động, bao gồm 4,5 triệu lao động có kĩ năng và một số lượng tương ứng người lao động kĩ năng thấp), như vậy khiến tỉ lệ người di cư trong tổng số người lao động tại các quốc gia thu nhập cao sẽ tăng lên thêm 3%/năm cho đến năm 2025. Điều này được dự đoán sẽ làm tăng thu nhập thực tế toàn cầu 0,6%, tương đương 356 tỉ USD và được minh họa trong bảng sau:
Những lao động di cư mới được dự đoán sẽ nhận được nhiều nhất về thu nhập thực tế, trong khi những lao động bản xứ tại cả quốc gia thu nhập cao và các nước đang phát triển cũng được dự đoán thu nhập thực tế tăng lên. Người lao động bản xứ tại các nước đang phát triển cũng có thu nhập được cải thiện nhờ kiều hối và mức lương tăng lên, nguyên nhân là do thị trường lao động được giảm sức ép. Chỉ có những người di cư trước đó ở những quốc gia thu nhập cao là được dự đoán sẽ bị thiệt do phải cạnh tranh với những người di cư mới.
Thứ ba, lao động nhập cư góp phần nâng cao hiệu quả của thị trường lao động tại nước tiếp nhận.
Nghiên cứu một số trường hợp tại các nước châu Âu cho thấy, trong phần lớn các trường hợp, nhập cư bổ sung lao động cho quốc gia tiếp nhận và không mang lại những tác động tiêu cực đối với triển vọng công việc cũng như mức lương của người lao động bản xứ.
Những lao động nhập cư đóng góp vào việc tạo việc làm thông qua nhiều cách thức, từ việc kinh doanh cho đến làm tăng nhu cầu nội địa đối với hàng hóa, dịch vụ và cải thiện hiệu quả của thị trường lao động. Sự gia tăng tiêu dùng do tăng số người nhập cư cũng làm tăng nhu cầu tổng thể và tăng trưởng kinh tế, cải thiện kết quả kinh tế đối với người bản xứ.
Đồng thời, nhập cư đóng vai trò quan trọng trong cải thiện hiệu quả thị trường lao động. Tất cả các lĩnh vực mà người lao động bản xứ không muốn làm, ví dụ như những công việc thiếu vệ sinh, nguy hiểm và khó khăn, những dịch vụ gia đình có thu nhập thấp, những công việc đòi hỏi ít kĩ năng trong nền kinh tế phi chính thức, những công việc trong những ngành có biến động theo mùa mạnh mẽ (như trồng trọt, xây dựng và làm các công trình giao thông, các dịch vụ khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ liên quan đến du lịch khác), phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung lao động nhập cư. Trong trường hợp không có người lao động di cư, những ngành này có thể phải đối mặt với sự thiếu hụt nghiêm trọng về lao động hoặc khiến chi phí thuê lao động tăng cao.
Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu cho thấy lao động di cư có mang lại những tác động tiêu cực về việc làm đối với lao động bản xứ, nhưng ở mức thấp.
* Tác động liêu cực tới nước tiếp nhận lao động di cư
Thứ nhất, lao động nhập cư được cho là cỏ tảc động tiêu cực nhưng ở mức độ thấp đổi với mức lương và thu nhập của người lao động bản xứ.
Những nghiên cứu tại một số nước châu Ầu đưa ra nhiều kết luận khác nhau. Nghiên cứu tại Đức năm 1995 dựa trên các dữ liệu của bảng điều tra hộ gia đình cho thấy, mỗi 1 % tăng lên của tỉ lệ công dân người nước ngoài trong tổng dân số trên thực tế có tác động tích cực rất nhỏ, làm tăng khoảng 0,6% đối với mức lương tổng thể của lao động trong nước, trong khi mức lương của người bản xứ có kĩ năng cao tăng cao hơn, lên đến 1,3%. Đa số các nghiên cứu thực nghiệm tại Anh cũng nhất trí rằng không có tác động có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ người nhập cư và kết quả của thị trường lao động. Những nghiên cứu khác phát hiện ra tác động tiêu cực đến mức lương của người bản xứ, nhưng rất nhỏ, từ -0,3% cho đến -0,8%.
Còn tại Hoa Kỳ, một số nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng nhập cư có rất ít tác động đến lương của người lao động bản xứ, điển hình là kết luận cho rằng khi tỉ lệ người nhập cư trong một vùng tăng lên 10% sẽ làm giảm lương của người bản xứ tại vùng đó một tỉ lệ ít hơn 1% và thường là chỉ xấp xỉ mức 0%?
Tại hầu hết các nước EU, người nhập cư, và đặc biệt là người nhập cư từ các nước ngoài EU, nhiều khả năng bị thất nghiệp hoặc thiếu việc làm hơn so với người bản xứ. Mặc dù tình trạng rất khác nhau giữa các quốc gia, nhưng bức tranh chung cho thấy điều này là kết quả của việc người nhập cư có học vấn và kĩ năng thấp hơn so với mức trung bình của người lao động bản xứ. Đây cũng là trường hợp tại Hoa Kỳ, mức lương theo giờ của lao động nam giới nhập cư thấp hơn 23% so với của lao động nam giới bản xứ, chủ yếu do tỉ lệ người nhập cư có trình độ học vấn thấp gia tăng nhanh.
Thứ hai, người nhập cư có thể trở thành gánh nặng về tài chỉnh đối với quốc gia tiếp nhận.
Một số nghiên cứu cho rằng quốc gia tiếp nhận phải dành nhiều chi tiêu hơn cho các dịch vụ công và các khoản thanh toán phúc lợi mà người lao động nhập cư được hưởng hơn là khoản đóng góp của họ thông qua thuế và an sinh xã hội.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng người nhập cư tại Hoa Kỳ thu nhập thấp ít khả năng nhận trợ cấp hơn so với người bản xứ cùng hoàn cảnh. Xem xét dài hạn cho thấy, mặc dù người nhập cư tại Hoa Kỳ trong những năm đầu làm gia tăng chi phí, đặc biệt là chi dành cho giáo dục, nhưng cuối cùng mỗi người nhập cư, thông qua việc trả các khoản thuế của họ, sẽ có những đóng góp tích cực vào ngân sách quốc gia khoảng 80.000 USD?
Tác động tài chính của người nhập cư có phần phụ thuộc vào độ tuổi mà người nhập cư đến quốc gia tiếp nhận. Những người nhập cư đến trong độ tuổi lao động nhiều khả năng có đóng góp lớn hơn vào nguồn tài chính công và an sinh xã hội so với những người đến khi còn trong độ tuổi chưa thành niên. Một nghiên cứu tại Đức cho thấy, một cá nhân nhập cư lúc 30 tuổi sẽ đóng góp 110.000 Euro trong suốt quãng đời của người đó, trong khi nếu người nhập cư đến khi chưa tròn 1 tuổi sẽ tạo ra khoản thâm hụt tài chính công ở mức 60.000 Euro. Với 78% người nhập cư tại Đức là trong độ tuổi lao động, trung bình người nhập cư đã đóng góp khoảng 50.000 Euro trong suốt quãng đời của họ. Vì vậy, người nhập cư giúp Chính phủ Đức thu hẹp khoảng cách giữa mức thuế thu được và chi tiêu và các khoản nợ của chính phủ.
The British Home Office thực hiện nghiên cứu chi tiết hon về tác động về tài chính của dân số nhập cư đến Anh và ước tính rằng người nhập cư giai đoạn 1999 – 2000 đã chi trả 31,2 tỉ Bảng Anh (GBP) nhưng chỉ sử dụng 28,8 tỉ GBP các khoản trợ cấp và các dịch vụ của nhà nước, đóng góp tài chính ròng khoảng 2,5 tỉ GBP.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại đưa ra những kết luận ngược lại, cho rằng người lao động nhập cư không những không làm ảnh hưởng tới các khoản phúc lợi mà người lao động bản xứ được hưởng, mà còn đóng góp tích cực vào nguồn quỹ này.
Một nghiên cứu tại Hoa Kỳ đã kết luận rằng người nhập cư sử dụng nhiều phúc lợi hơn người bản xứ xét về các khoản hỗ trợ và chăm sóc y tế công cộng, chủ yếu là do họ có trình độ học vấn và thu nhập thấp hơn. Nghiên cứu tại Australia năm 2000 cho thấy, người nhập cư, đặc biệt là những người trong nhóm trẻ tuổi, ít khả năng nhận thanh toán phúc lợi hơn so với những người sinh ra tại nước này.
Theo nghiên cứu năm 2014, người nhập cư từ EU có đóng góp tích cực về mặt tài chính đối với Anh, vì họ chi trả thông qua thuế nhiều hơn là họ nhận được từ các khoản thanh toán phúc lợi trong giai đoạn 2001 – 2011, thậm chí cả trong thời kì khi Anh phải đối mặt với thâm hụt tài chính. Trong giai đoạn 2001 – 2011, người nhập cư từ các nước EU-15 đã đóng góp thông qua các khoản thuế nhiều hơn 64% so với những gì họ nhận được. Người nhập cư từ các nước A10 đóng góp nhiều hơn 12% so với những khoản họ nhận được. Còn người nhập cư EEA tới Anh từ năm 2000 đã đóng góp hơn 20 tỉ GBP vào ngân sách tài chính công của Anh giai đoạn 2001 – 2011.
Thứ ba, vấn đề nhập cư có thế tác động đến an ninh quốc gia hay tội phạm.
Vấn đề người lao động nhập cư tăng lên sẽ làm tăng tỉ lệ tội phạm tại quốc gia tiếp nhận là mối lo ngại đối với nhiều người bản xứ. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn chưa có sự thống nhất về mối tương quan giữa hai đối tượng này. Theo dữ liệu của Eurostat, trong giai đoạn 1999 – 2006, tổng số vụ phạm tội của người nhập cư trong khu vực đã tăng lên khoảng 9%. Tuy nhiên theo một số nghiên cứu khác, không thấy tác động của việc gia tăng người nhập cư từ năm 2004 đối với tỉ lệ tội phạm.
7. Tác động của sự di cư lao động đến các nước gửi lao động trong ASEAN?
ĐÁP ÁNBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Bạc/Vàng/Kim Cương để xem chi tiết...8. Tác động của di cư lao động đến các nước tiếp nhận lao động trong ASEAN?
Tiêu đềBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Bạc/Vàng/Kim Cương để xem chi tiết...Câu hỏi tự luận chương 5: Quan hệ tài chính – tiền tệ quốc tế
1. Trình bày khái niệm ngoại hối, chức năng của thị trường ngoại hối
* Khái niệm thị trường ngoại hối
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng của mình, do đó trong một hoạt động mua bán quốc tế, ít nhất phải có một bên tham gia sử dụng ngoại tệ. Neu đồng tiền của các bên tham gia không đổi với nhau được thì họ thỏa thuận sử dụng đến một ngoại tệ chuyển đổi tự do để giao dịch, thường là USD. Ngoài ra, các bên có thể sử dụng các phương tiện thanh toán như giấy tờ có giá hay vàng có tiêu chuẩn quốc tế. Các phương tiện thanh toán quốc tế này được gọi là ngoại hối.
Ngoại hối là thuật ngữ dùng để chỉ ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị như ngoại tệ được dùng để thanh toán giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của luật quản lý ngoại hối của mỗi nước, khái niệm ngoại hối có thể có sự khác nhau.
Để thực hiện các giao dịch thanh toán, các bên phải đổi từ tiền tệ này sang tiền tệ khác. Đe thực hiện việc chuyển đổi đó cần phải có một thị trường đó là thị trường ngoại hối.
Thị trường ngoại hối là thị trường tiền tệ quốc tế diễn ra các hoạt động giao dịch ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị như ngoại tệ. Hay nói cách khác, thị trường ngoại hối là nơi diễn ra hoạt động mua bán, hao đổi ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế có giá trị như ngoại tệ.
– Thị trường ngoại hối là nơi các nhà kinh doanh tiến hành kinh doanh ngoại hối để kiếm lời.
– Là nơi mà ở đó xảy ra việc mua bán, trao đổi ngoại hối, trong đó chủ yếu là trao đổi, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế.
– Là thị trường mua bán, trao đổi ngoại hối. Trong đó 2 đối tượng chủ yếu là ngoại tệ và phương tiện thanh toán quốc tế. Như vậy, bất cứ đâu diễn ra việc mua và bán các đồng tiền khác nhau thì ở đó được gọi là thị trường ngoại hối.
Theo định nghĩa hẹp, thị trường ngoại hối cũng có thể xem là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, do ngân hàng chiếm khoảng 85% tổng số giao dịch ngoại hối.
* Chức năng của thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối thực hiện các chức năng cơ bản sau đây:
– Thị trường ngoại hối tạo ra cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ phục vụ cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục và mang tính toàn cầu nên đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của người mua, người bán.
– Thị trường ngoại hối là công cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu của chính phủ. Chính phủ muốn khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu nhằm giảm thâm hụt cán cân thương mại, chính phủ có thể yêu cầu ngân hàng trung ương can thiệp thông qua thị trường ngoại hối bằng cách mua ngoại tệ vào… Mặt khác, nếu ngoại tệ lên giá quá cao so với nội tệ đến mức có thể tạo áp lực gây ra lạm phát, chính phủ có thể yêu cầu ngân hàng trung ương can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra để nâng giá đồng nội tệ lên.
– Thị trường ngoại hối là công cụ phòng chống rủi ro tỉ giá. Ngày nay, phần lớn các nước trên thế giới áp dụng cơ chế tỉ giá thả nổi nên tỉ giá hối đoái luôn có những diễn biến linh hoạt. Sự biến động của tỉ giá ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể. Các công ti xuất nhập khẩu, công ti đa quốc gia và các cá nhân có nguồn thu, nguồn chi ngoại tệ trong tương lai chịu ảnh hưởng rủi ro rất lớn về sự biến động của tỉ giá hối đoái. Thông qua các nghiệp vụ mua bán kì hạn, quyền chọn… của thị trường ngoại hối sẽ giúp cho các công ti, doanh nghiệp phòng ngừa được rủi ro.
– Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ. Các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là giao dịch cho chính ngân hàng. Các ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá giữa các thị trường để thu lời qua việc mua ở thị trường này giá rẻ hơn và bán lại ở thị trường kia giá cao hơn. Không chỉ có các ngân hàng mà các tổ chức kinh tế và cá nhân cũng có thể thu lời thông qua hoạt động đầu cơ ngoại tệ.
– Thị trường ngoại hối giúp luân chuyển các khoản đầu tư, tín dụng quốc tế. Các nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ phục vụ cho việc đầu tư vào thị trường có mức lãi dự tính cao. Các nhà xuất khẩu cho phép các nhà nhập khẩu khoảng thời gian thanh toán tối đa là 90 ngày và yêu cầu nhà nhập khẩu phải thanh toán tại phòng ngoại hối của ngân hàng thương mại mà nhà xuất khẩu có tài khoản. Kết quả, nhà xuất khẩu nhận được tiền đúng hạn và ngân hàng sẽ thu được khoản thanh toán khi đến hạn từ nhà nhập khẩu.
2. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối
* Các ngân hàng
– Ngân hàng trung ương đóng vai trò là tổ chức kiểm soát, điều hành và ổn định sự hoạt động của thị trường ngoại hối. Ngân hàng này có thể sử dụng nghiệp vụ mua bán ngoại tệ can thiệp vào tỉ giá nhằm thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia, duy trì sự cân bằng của hoạt động xuất nhập khẩu… Sự ảnh hưởng lớn nhất trên thị trường tiền tệ thế giới có các ngân hàng như: Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), ngân hàng trung ương châu Âu (ECB), ngân hàng Anh (Bank of England), ngân hàng Nhật Bản (Bank of Japan).
– Ngân hàng thương mại giữ vai trò trung tâm trên thị trường ngoại hối. Ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường ngoại hối với hai tư cách. Một là thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối cho chính ngân hàng nhằm đảm bảo ổn định số dư ngoại tệ trên tài khoản. Hai là thực hiện các dịch vụ về hối đoái theo sự ủy nhiệm của khách hàng. Mức độ tham gia vào thị trường ngoại hối của các ngân hàng phụ thuộc vào các yếu tố như quy mô, mạng lưới, uy tín…
* Các nhà môi giới
Các nhà môi giới là chủ thể trung gian trong giao dịch hối đoái giữa các ngân hàng, tổ chức, cá nhân với nhau, được pháp luật quy định kinh doanh hợp pháp. Các nhà môi giới cung cấp cho khách hàng cơ hội giao dịch trên thị trường ngoại hối, giúp cho cung và cầu ngoại hối gặp được nhau, đảm bảo việc thực hiện lệnh giao dịch nhanh chóng và chính xác.
*Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp bao gồm các công ti nội địa, các công ti đa quốc gia. Vai trò của các công ti này ngày càng tăng lên mạnh mẽ trên thị trường ngoại hối. Nguyên nhân là do các công ti này thi hành chính sách mở rộng các nguồn dự trữ ngoại tệ, giảm bớt rủi ro do sự mất giá của các đồng tiền. Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là các doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp này vừa là chủ thể cung ứng, vừa là chủ thể mua ngoại tệ và chiếm giữ một khối lượng mua bán, trao đổi ngoại tệ rất lớn trên thị trường ngoại hối.
*Các cá nhân
Đó là các công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối nhằm phục vụ cho mục đích của chính mình khi đầu tư, cho vay, đi du lịch ở nước ngoài…
3. Cấu trúc của thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối được kết cấu bởi 3 bộ phận đó là thị trường liên ngân hàng, sở giao dịch ngoại hối và thị trường giao dịch phi tập trung.
* Thị trường liên ngân hàng (interbank)
Thị trường liên ngân hàng là thị trường trong đó các ngân hàng lớn trên thế giới trao đổi các đồng tiền theo tỉ giá giao ngay và tỉ giá có kì hạn. Thị trường liên ngân hàng là trung tâm của thị trường ngoại hối.
Thị trường liên ngân hàng không có địa điểm cụ thể mà là một mạng lưới thông tin liên lạc ngân hàng nối mạng điện tử với nhau và liên kết ngân hàng với những người môi giới ngoại hoi (foreign exchange broker).
Các công ti được cung cấp dịch vụ ngoại hối từ những ngân hàng có quan hệ kinh doanh với mình. Mỗi ngân hàng đáp ứng yêu cầu từ phía khách hàng của mình thông qua việc mua bán ngoại tệ với các ngân hàng khác tham gia trên thị trường liên ngân hàng. Đối với những đồng tiền được trao đổi phổ biến thì những ngân hàng lớn thường có đủ lượng dự trữ trong tay để thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, đối với đồng tiền ít được trao đổi thì các ngân hàng khác thông qua những người môi giới ngoại hối.
Trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng hoạt động như là đại lý cho khách hàng của mình. Ngoài việc chuyển đổi tiền tệ, các ngân hàng còn thực hiện tư vấn cho khách hàng về chiến lược giao dịch, cung cấp nhiều loại công cụ tiền tệ khác nhau và các dịch vụ quản trị rủi ro khác. Các ngân hàng còn giúp khách hàng kiểm soát rủi ro tỉ giá hối đoái bằng cách cung cấp thông tin về những quy định điều tiết ngoại hối trên khắp thế giới.
* Sở giao dịch ngoại hối
Sở giao dịch ngoại hối là noi chuyên tiến hành các giao dịch ngoại hối giao sau (currency futures) và quyền chọn ngoại hoi (currency option). Việc mua bán tiền tệ trên các sở giao dịch này phải thông qua các nhà môi giới chứng khoán, những người tạo điều kiện cho các giao dịch vận hành tốt hơn bằng cách chuyển và thực hiện các đặt hàng của khách hàng.
Các giao dịch trên sở giao dịch ngoại hối thường có quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và quy mô đó cũng khác nhau tuỳ theo loại tiền tệ.
* Thị trường phi tập trung (OTC)
Thị trường phi tập trung là thị trường nơi các bên tham gia mua bán chứng khoán thẳng với nhau (không niêm yết, không tập trung vào 1 điểm giao dịch) thông qua mạng máy tính toàn cầu.
Tất cả giao dịch ngoại hối đều có thể diễn ra trên thị trường OTC. Những chủ thể chính tham gia vào thị trường này là các tổ chức tài chính lớn và các ngân hàng đầu tư.
Thị trường phi tập trung tăng trưởng nhanh chóng trong những năm gần đây do mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động kinh doanh. Trước hết, nó cho phép các doanh nghiệp có thể tự do tìm kiếm tổ chức nào chào giá tốt nhất (thấp nhất) khi tiến hành giao dịch. Thứ hai, nó tạo cơ hội thực hiện các giao dịch có tính linh hoạt theo yêu cầu của khách hàng.
4. Các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại hối
* Nghiệp vụ ngoại hổi giao ngay
Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện ngay trong ngày hoặc chậm nhất là hai ngày làm việc kể từ khi thỏa thuận hợp đồng mua bán.
Nghiệp vụ này diễn ra trên thị trường giao ngay và được thực hiện trên cơ sở tỉ giá giao ngay (spot rate), tức là tỉ giá được xác định trước và có giá trị tại thời điểm giao dịch. Tỉ giá giao ngay thường được niêm yết ở tất cả các ngân hàng thương mại và trên các phương tiện .thông tin đại chúng.
Các ngân hàng thường không thu phí giao dịch mà sử dụng chênh lệch giữa tỉ giá bán và tỉ giá mua để trang trải chi phí giao dịch, bù đắp rủi ro và thu lợi nhuận. Tuy nhiên, khách hàng phải kí quỹ theo quy định của từng ngân hàng đối với giao dịch giao ngay có thời hạn thanh toán vào 01 hoặc 02 ngày làm việc sau ngày giao dịch mua, bán ngoại tệ.
*Nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỉ giá
Mức giá giữa các thị trường giao ngay chênh lệch tạo ra cơ hội kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường giao ngay. Vì vậy, có thể xem nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỉ giá là một ứng dụng của nghiệp vụ hối đoái giao ngay. Nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỉ giá là nghiệp vụ thực hiện việc mua một đồng tiền ở nơi giá thấp và bán lại ở nơi giá cao hơn (hoặc ngược lại) tại cùng một thời điểm để thu lợi nhuận từ chênh lệch giá.
Trong nghiệp vụ này, nhà kinh doanh không chịu rủi ro hối đoái bởi vì việc mua và bán xảy ra đồng thời cùng một thời điểm nên không tạo ra trạng thái thiếu hay thừa ngoại tệ. Tuy nhiên, việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỉ giá trên có xu hướng cân bằng tỉ giá ở các thị trường ngoại hối khác nhau do sự phát triển của các phương tiện thông tin hiện đại ngày nay, thị trường ngoại hối trở nên thông suốt trên phạm vi toàn cầu, người bán và người mua có thể dễ dàng biết được giá cả và tiếp cận với nhau từ nhiều địa điểm nên nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỉ giá ngoại tệ không còn phổ biến nữa.
* Nghiệp vụ ngoại hối kì hạn
Giao dịch ngoại hối kì hạn là nghiệp vụ mua bán ngoậĩ hối trong đó hai bên cam kết sẽ mua bán với nhau một số lượng ngoại tệ nhất định theo một mức tỉ giá được thoả thuận khi kí kết hợp đồng và việc giao nhận, thanh toán ngoại hối sẽ được thực hiện vào một ngày xác định trong tương lai.
Tham gia giao dịch trên thị trường này chủ yếu là các ngân hàng thương mại, các công ti đa quốc gia, các nhà đầu tư trên thị trường tài chính quốc tế và các công ti xuất nhập khẩu, tức là những người mà hoạt động của họ thường xuyên chịu ảnh hưởng một cách đáng kể bởi sự biến động của tỉ giá.
Ngày nay, giao dịch kì hạn phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trên thị trường ngoại hối. Giao dịch kì hạn rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi ro tỉ giá hối đoái đối với công ti khi tham gia xuất nhập khẩu, vay nợ nước ngoài hay thực hiện đầu tư nước ngoài. Thị trường kì hạn còn là nơi hoạt động tích cực của các nhà đầu cơ để kiếm lời. Kì hạn hợp đồng ngoại hối thường là bội số của 30 ngày: 1; 2; 3; 4; 5; 6; 9; 12 tháng. Tuy nhiên, hai bên có thể thỏa thuận các kì hạn lẻ hay kì hạn nhiều hơn 01 năm.
* Nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối
Nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối là việc đồng thời mua vào và bán ra một ngoại tệ nhất định với cùng một lượng giá trị, nhưng ngày mua vào và ngày bán ra là ở hai thời điểm khác nhau. Đây là sự phối hợp giữa hai nghiệp vụ giao dịch ngoại hối giao ngay và giao dịch ngoại hối có kì hạn.
Ưu điểm cơ bản của việc sử dụng giao dịch hoán đổi là sử dụng hợp đồng hoán đổi nhằm giảm chi phí và tránh được rủi ro do biến động tỉ giá. Trong giao dịch hoán đổi các bên tham gia bao gồm ngân hàng và khách hàng đều có những lợi ích nhất định.
Với khách hàng, lợi ích thể hiện ở việc thỏa mãn được nhu cầu ngoại tệ hoặc nội tệ của mình ở thời điểm hiện tại. Với ngân hàng, lợi ích thể hiện ở chỗ một mặt ngân hàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng góp phần nâng cao uy tín và gia tăng giá trị thương hiệu của mình. Mặt khác, ngân hàng có thể kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giá mua và bán ngoại tệ.
* Nghiệp vụ ngoại hối tương lai
Giao dịch ngoại hối tương lai là việc thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỉ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai thông qua một Sở giao dịch mà không trực tiếp qua ngân hàng.
Sở giao dịch là đơn vị đề ra quy chế và kiểm soát hoạt động của các hội viên. Hội viên của Sở giao dịch có thể là đại diện của các công ti, ngân hàng thương mại hay cá nhân có tài khoản riêng.
Hợp đồng ngoại hối tưong lai khá giống hợp đồng ngoại hối kì hạn, nhưng có tính thanh khoản cao hơn bởi vì các bên có thể xóa bỏ hợp đồng cũ bất cứ khi nào và mở ra hợp đồng mới, hai bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch giá trị tại thời điểm đảo họp đồng. Như vậy, ngoài mục đích là hạn chế rủi ro, hợp đồng tương lai còn là công cụ thích hợp cho các nhà đầu cơ. Nhà đầu cơ dự báo một loại ngoại tệ nào đó lên giá trong tương lai sẽ mua họp đồng tương lai loại ngoại tệ đó. Ngược lại, nhà đầu cơ khác lại dự báo ngoại tệ đó xuống giá trong tương lai sẽ bán họp đồng ngoại tệ tương lai. Sở giao dịch với tư cách là nhà tổ chức và trung gian trong giao dịch sẽ đứng ra thu xếp các loại hợp đồng này.
* Nghiệp vụ ngoại hối quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn là một công cụ tài chính, cho phép người mua hợp đồng có quyền mua hoặc bán một đồng tiền này với một đồng tiền khác tại mức tỉ giá cố định đã thỏa thuận trước, trong một thời gian nhất định trong tương lai.
Quyền chọn không chỉ cho phép nhà đầu tư đón đầu xu thế của một đồng tiền mà nó còn cho phép giới hạn rủi ro thua lỗ. Bạn có thể kiếm được lợi nhuận từ quyền chọn với bất cứ chiều nào của biến động giá (giá lên, xuống hay thậm chí là không biến động).
Nghiệp vụ mua bán ngoại hối quyền chọn là nghiệp vụ mua bán ngoại hối được thực hiện trên cơ sở hợp đồng quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán.
– Hợp đồng quyền chọn mua: là hợp đồng cho phép người mua hợp đồng có quyền nhưng không bắt buộc mua một số lượng ngoại tệ nhất định.
– Hợp đồng quyền chọn bán: là hợp đồng cho phép người mua hợp đồng có quyền nhưng không bắt buộc bán một số lượng ngoại tệ nhất định.
Người mua trong hợp đồng quyền chọn mua hoặc người bán trong họp đồng quyền chọn bán có thể thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng nếu thấy không có lợi. Tuy nhiên, phải trả một mức phí quyền chọn khi kí kết họp đồng.
Trên thực tế, các nhà xuất khẩu thường mua quyền chọn bán hoặc bán quyền chọn mua vì họ muốn có sự đảm bảo chắc chắn về số ngoại tệ mà họ thu được từ số hàng đã bán. Ngược lại, các nhà nhập khẩu thì lại thường bán quyền chọn bán hoặc mua quyền chọn mua. Các nhà đầu tư cũng thường mua quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua vì họ muốn có sự đảm bảo về tỉ giá đối với cam kết bằng ngọại tệ của họ. Ngoài ra, tham gia vào các nghiệp vụ này còn có các nhà đầu cơ ngoại tệ nhằm kiếm lời.
5. Tỷ giá hối đoái là gì? Có các loại Tỉ giá nào theo các tiêu chí phân loại khác nhau?
Tỷ giá hối đoái hay còn gọi là tỷ giá trao đổi ngoại tệ. Được hiểu là tỷ giá của một đồng tiền này có thể được quy đổi cho một đồng tiền khác, tỷ giá giữa 2 loại tiền tệ, là số lượng đơn vị tiền tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (năm 1997), tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giá trị của đồng Việt Nam với giá trị đồng tiền nước ngoài. Tỷ giá này được hình thành dựa trên cơ sở cung cầu ngoại tệ, dưới sự điều tiết của Nhà Nước, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định.
Trong ngành tài chính ngân hàng, tỷ giá hối đoái phản ánh mối quan hệ giá trị đồng tiền của hai nước với nhau. Ví dụ tỷ giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày 21/11/2019 1 USD = 23.260VNĐ. Đây chính là tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái được xem là một loại giá cả đặc biệt, là giá trị của tiền chứ không phải giá trị của hàng hóa.
Cách đọc tỷ giá hối đoái: Đồng tiền đứng trước được hiểu là đồng tiền yết giá, đồng tiền đứng thứ hai gọi là đồng tiền định giá. Trong ví dụ về tỷ giá hối đoái trên thì USD là đồng tiền yết giá còn VNĐ là đồng tiền định giá.
Tỷ giá hối đoái còn được xem là quan hệ so sánh tiền tệ của các nước theo tiêu chuẩn nào đó. Trong chế độ bản vị vàng thì tiền tệ trong lưu thông hoạt động kinh doanh là tiền đúc bằng vàng và giấy và nó được đổi ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng. Vì thế, tỷ giá hối đoái có thể hiểu là mối quan hệ so sánh giữa tiền vàng của hai nước.
Còn trong chế độ tiền giấy thì tiền đúc không còn được sử dụng nên ngang giá vàng không còn là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái. Theo đó thì việc so sánh các đồng tiền khác nhau được thực hiện bằng hình thức so sánh mức mua của hai tiền tệ với nhau.
Cách phân loại tỷ giá hối đoái
Đối với thị trường hối đoái hiện nay, có rất nhiều loại tỷ giá khác nhau. Nằm lòng khái niệm Tỷ giá hối đoái là gì, bây giờ hãy cùng tham khảo cách để phân chia tỷ giá hối đoái nhé.
Căn cứ vào giá trị tỷ giá
Dựa vào giá trị tỷ giá có thể chia thành 2 loại:
- Tỷ giá hối đoái thực: Là tỷ giá có tác động của lạm phát và sức mua trong một cặp tiền tệ phản ánh giá cả hàng hóa tương quan có thể bán ra nước ngoài và hàng tiêu thụ trong nước. Tỷ giá này đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế của nước đó.
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: Là tỷ giá của một loại tiền tệ theo giá hiện tại, không tính đến ảnh hưởng của lạm phát.
Căn cứ vào phương thức chuyển ngoại hối
Dựa vào khái niệm Tỷ giá hối đoái là gì và căn cứ vào phương thức chuyển ngoại hối, chúng ta có thể chia làm 2 loại:
- Tỷ giá thư hối: Là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. Tỷ giá điện hối thường cao hơn tỷ giá thư hối.
- Tỷ giá điện hối: Là tỷ giá thường được niêm yết tại ngân hàng. Đó là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá khác
Căn cứ vào thời điểm giao dịch ngoại hối
Có thể chia ra thành 2 loại như sau:
- Tỷ giá mua: Là tỷ giá mua ngoại hối vào của ngân hàng
- Tỷ giá bán: Là tỷ giá bán ngoại hối ra của ngân hàng
Căn cứ vào kỳ hạn thanh toán
Dựa trên kỳ hạn thanh toán, phân chia tỷ giá hối đoái thành:
- Tỷ giá giao dịch kỳ hạn (FORWARDS): Là tỷ giá do tổ chức tín dụng tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đảm bảo trong biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng.
- Tỷ giá giao ngay (SPOT): Là tỷ giá do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận trong đó phải đảm bảo biểu độ do ngân hàng nhà nước quy định. Việc thanh toán giữa các bên phải được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo, sau ngày cam kết mua hoặc bán.
Căn cứ vào đối tượng xác định tỷ giá
Dựa trên đối tượng xác định tỷ giá và những thông tin khái niệm “Tỷ giá hối đoái là gì” chúng ta có thể phân chia thành”
- Tỷ giá thị trường: Tỷ giá được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường hối đoái.
- Tỷ giá chính thức: Là tỷ giá do Ngân hàng trung ương của nước đó xác định. Trên cơ sở của tỷ giá này các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ hạn, hoán đổi.
Bên cạnh đó, còn có 2 loại tỷ giá mà bạn nên quan tâm bao gồm:
Tỷ giá hối đoái song phương
Tỷ giá hối đoái song phương hay còn có tên là Bilateral Exchange Rate: Được hiểu là giá của một đồng tiền nước này so với đồng tiền khác và không đề cập đến vấn đề lạm phát giữa hai nước. Nếu NEER > 1 thì đồng tiền đó mất giá (giảm giá) đối với tất cả đồng tiền còn lại , nếu NEER < 1 thì đồng tiền đó lên giá (được giá) đối với tất cả đồng tiền còn lại.
Tỷ giá hối đoái hiệu dụng
Tỷ giá hối đoái hiệu dụng (NEER–Nominal Efective Exchange rate) hay còn gọi có tên là tỷ giá danh nghĩa đa phương / tỷ giá danh nghĩa hiệu dụng. Biết được tỷ giá hối đoái là gì chúng ta có thể hiểu tỷ giá hối đoái hiệu dụng là chỉ số trung bình của một đồng tiền so với đồng tiền còn lại.
Các loại chế độ tỷ giá hối đoái hiện nay
Chế độ tỷ giá hối đoái là cách thức một Quốc gia quản lý đồng tiền của mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối. Tỷ giá hối đoái ở mỗi nước và mỗi thời điểm là khác nhau. Ở phần trước, chúng ta đã tìm hiểu về khái niệm “Tỷ giá hối đoái là gì” và cách để phân loại chúng. Ở phần này, hãy cùng tham khảo về các loại chế độ tỷ giá hối đoái thường gặp hiện nay nhé.
Tỷ giá hối đoái thả nổi
Tỷ giá hối đoái thả nổi hay tỷ giá linh hoạt là khi giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị trường ngoại hối. Đồng tiền sử dụng tỷ giá thả nổi được gọi là một đồng tiền thả nổi.
Các nhà kinh tế học cho rằng, trong phần lớn trường hợp, chế độ tỷ giá thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhanh nhạy với thị trường ngoại hối. Việc này sẽ làm dịu tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái cố định
Tỷ giá hối đoái cố định hay tỷ giá hối đoái neo, là khi giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với một thước đo giá trị khác, như vàng, bạc, kim cương…
Biết rõ tỷ giá hối đoái là gì chúng ta có thể hiểu đơn giản rằng khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định. Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa chọn chế độ tỷ giá ngược hoàn toàn với tỷ giá hối đoái thả nổi.
Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết là tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định và thực tế cho thấy không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định.
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, do đó, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Hầu hết các đồng tiền của các nước đa phần sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường.
5. Trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
Yếu tố thương mại
Nằm ở 2 khía cạnh chính sau đây:
- Tình hình tăng trưởng kinh tế: Khi tốc độ tăng giá của sản phẩm xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng giá sản phẩm nhập khẩu thì tỷ lệ trao đổi thương mại tăng kéo theo giá trị đồng nội tệ tăng và tỷ giá giảm. Ngược lại tốc độ tăng nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu thì cán cân thương mại giảm khiến cho tỷ giá hối đoái tăng.
- Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế cao thì đồng ngoại tệ tăng và nội tệ giảm khiến tỷ giá hối đoái tăng.
Yếu tố lạm phát
Vấn đề lạm phát trong nước là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến hoạt động thương mại quốc tế và ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ làm thay đổi tỷ giá. Đây cũng là yếu tố để trả lời cho câu hỏi yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái là gì?.
Ví dụ: Nếu tình hình trong nước (Ấn Độ) có tỷ lệ lạm phát cao hơn quốc gia nước ngoài (Mỹ). Khi đó, người tiêu dùng Ấn Độ sẽ có xu hướng chọn lựa hàng hoá Mỹ hơn do giá thành chi trả cho hàng hoá sẽ rẻ hơn và thị trường sẽ nhập khẩu hàng Mỹ tăng làm cầu đồng ngoại tệ (đô la Mỹ) tăng.
Còn ở Mỹ, người dân sẽ hạn chế sử dụng hàng hoá từ Ấn Độ do giá cao và nhập khẩu giảm khiến cung ngoại tệ (đô la Mỹ) giảm.
Còn với nội địa có tỷ lệ lạm phát thấp hơn so với nước ngoài thì tỷ giá hối đoái sẽ giảm và giá trị nội tệ sẽ tăng.
Yếu tố thu nhập
Nếu đã biết tỷ giá hối đoái là gì thì có thể nói thu nhập của mỗi quốc giá cũng là yếu tố tác động đáng kể đến tỷ giá hối đoái.
- Tác động trực tiếp: nếu thu nhập của quốc gia đó tăng thì người dân sẽ có xu hướng muốn dùng hàng nhập khẩu nhiều hơn từ đó làm cầu ngoại tệ tăng làm tỷ giá tăng
- Tác động gián tiếp: thu nhập cao thì người dân sẽ tăng mức chi tiêu trong nước làm cho tỷ lệ lạm phát cao làm tỷ giá tăng
Ngược lại khi quốc gia có thu nhập giảm thì sẽ giảm cầu ngoại tệ dẫn đến giảm tỷ giá hối đoái
Yếu tố lãi suất
Lãi suất có một phần ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư chứng khoán ở nước ngoài, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái.
Ví dụ: Khi đất nước A có lãi suất thấp hơn so với các nước ngoài như Trung Quốc. Thì nhà đầu tư nước A sẽ có xu hướng đầu tư vào thị trường Trung Quốc hoặc gửi tiền tiết kiệm vào các ngân hàng nước ngoài đó. Như vậy sẽ giúp họ có thêm khoản lợi nhuận lớn hơn so với đầu tư vào thị trường trong nước. Khi đó, ngoại tệ Trung Quốc sẽ tăng lên và cung về ngoại tệ của nước A sẽ giảm.
Còn khi nội địa có lãi suất cao hơn nước ngoài thì tài chính nội địa hấp dẫn tỷ giá hối đoái giảm còn giá trị nội tệ sẽ tăng.
6. Tác động của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu: Nếu đồng tiền nội tệ mất giá (tỷ giá tăng) kéo theo giá cả hàng xuất khẩu của quốc gia đó sẽ rẻ hơn dẫn đến sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế sẽ được nâng cao. Khi tỷ giá tăng lên sẽ thúc đẩy nền kinh tế thu được nhiều ngoại tệ, từ đó giúp cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện.
Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến doanh nghiệp: Với những doanh nghiệp lớn, ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến doanh nghiệp là không hề nhỏ, tác động trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Đặc biệt là những doanh nghiệp có nợ vay bằng USD sẽ không tránh khỏi ảnh hưởng khi tỷ giá USD/VND biến động tăng, dẫn đến phát sinh lỗ chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại dư nợ gốc ngoại tệ khi đó những doanh nghiệp có dư nợ USD phải chịu chi phí lỗ tỷ giá.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng tới lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Khi một nước có lạm phát sức mua đồng nội tệ giảm, tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hóa dịch vụ trong nước đắt hơn so với thị trường nước ngoài. Theo quy luật chung, người dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ kéo theo nhập khẩu sẽ tăng, cầu ngoại tệ tăng và tỷ giá hối đoái cũng sẽ tăng theo. Mặt khác, vì tăng giá nên người tiêu dùng nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút dẫn đến cung ngoại tệ trên thị trường giảm, là nguyên nhân làm tỷ giá hối đoái tăng. Bởi vây, lạm phát ảnh hưởng đến cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trường tiền tệ, lạm phát khiến đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng nội tệ của quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
7. Trong thời gian qua, chính phủ Việt Nam đã có những chính sách gì tác động vào tỷ giá hối đoái nhằm ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và kích thích sản xuất nói riêng?
Đáp ánBạn cần Đăng nhập và nâng cấp lên tài khoản Bạc/Vàng/Kim Cương để xem chi tiết...8. Cán cân thanh toán quốc tế là gì? Trình bày các bộ phận cấu thành cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thanh toán quốc tế là một bản báo cáo tổng hợp ghi chép những giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kì nhất định.
Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các đối tượng cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Trong đó, đối tượng cư trú của một quốc gia là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp thường trú lâu dài ở một nước và chịu sự kiểm soát của pháp luật nước đó. Thông thường, người cư trú từ 01 năm trở lên được coi là lâu dài, song độ dài thời gian này cũng còn tùy thuộc vào từng quốc gia. Ở Việt Nam, cá nhân cư trú là người có noi ở thường xuyên tại Việt Nam hoặc có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, hoặc có nơi ở thường xuyên ở Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng kí thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
*Cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai (Current Account – CA) phản ánh các khoản thu và chi mang tính thu nhập. Bản chất của cán cân vãng lai phản ánh tình hình thu chi từ chuyển giao quyền sở hữu về tài sản giữa đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú.
Cán cân vãng lai bao gồm 4 cán cân bộ phận là:
– Cán cân thương mại – Trade Balance (TB).
– Cán cân dịch vụ – Services Balance (SB).
– Cán cân thu nhập – Incomes Balance (IB).
– Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều – Currency Transfers Balance (TrB).
Cán cân thương mại dùng để đối chiếu và so sánh các khoản thu từ xuất khẩu và chi cho nhập khẩu hàng hóa. Khi một quốc gia xuất khẩu hàng hóa sẽ thu về ngoại tệ, đây chính là khoản thu và được ghi có (+); các nghiệp vụ nhập khẩu làm phát sinh khoản chi và được ghi nợ (-). Khi thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa lớn hơn chi cho nhập khẩu hàng hóa thì cán cân thương mại được gọi là thặng dư (hay xuất siêu). Và ngược lại, khi thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa thấp hơn chi cho nhập khẩu hàng hóa thì cán cân thương mại thâm hụt (hay gọi là nhập siêu).
Cán cân dịch vụ phản ánh các khoản thu, chi phát sinh trong các giao dịch về dịch vụ như vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính, viễn thông… giữa đối tượng cư trú với đối tượng không cư trú. Hiện nay, cán cân dịch vụ của các nước có quy mô và tỉ trọng trong tổng giá trị cán cân thanh toán quốc tế ngày càng tăng.
Cán cân thu nhập phản ánh các khoản thu, chi phát sinh về thu nhập của người lao động và thu nhập từ hoạt động đầu tư. Trong đó, thu nhập của người lao động là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật mà đối tượng cư trú trả cho đối tượng không cư trú hoặc ngược lại. Thu nhập từ hoạt động đầu tư là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp, lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá hoặc các khoản vay giữa đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú.
Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng giữa đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú. Các khoản chuyển giao vãng lai 1 chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú. Các khoản nhận chuyển giao vãng lai, ghi dương (+); Các khoản cấp viện trợ, ghi âm (-). Quy mô và tình trạng cán cân chuyển giao vãng lai một chiều phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố về môi trường kinh tế, tâm lý, tình cảm, chính trị-xã hội và ngoại giao giữa các nước.
* Cán cân vốn
Cán cân vốn (Capital Account – KA) phản ánh toàn bộ chỉ tiêu giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú về chu chuyển vốn trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, chuyển giao vốn một chiều, các hình thức đầu tư khác làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản nợ. Nói cách khác, cán cân vốn thể hiện các khoản thu, chi phát sinh trong quá trình chuyển giao quyền sử dụng tài sản giữa đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú.
Cán cân vốn bao gồm:
– Cán cân vốn dài hạn (KL): Ghi chép các luồng vốn dài hạn (có kì hạn từ 01 năm trở lên) chảy vào và chảy ra khỏi một quốc gia, các luồng vốn dài hạn được chia thành đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và vốn dài hạn khác.
– Cán cân vốn ngắn hạn (Ks): Ghi chép các luồng vốn ngắn hạn (có kì hạn đến 01 năm) chảy vào và chảy ra khỏi một quốc gia. Cán cân vốn ngắn hạn bao gồm nhiều hạng mục phong phú và chủ yếu là: tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối…
– Chuyển giao vốn một chiều (Ktr): gồm các khoản cho, tặng, viện trợ không hoàn lại và các khoản nợ được xóa.
Khi có luồng vốn chảy vào nền kinh tế, ghi dương (+), làm cho tài sản nợ tăng (vay nợ…) hoặc tài sản có giảm (đòi nợ…). Khi có luồng vốn chảy ra nền kinh tế, ghi âm (-) làm cho tài sản nợ giảm (trả nợ vay…) hoặc tài sản có tăng (cho vay…).
* Cán cân tổng thể
Nếu ở mỗi quốc gia, việc thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (nhầm lẫn và sai sót bằng 0), thì cán cân tong the (Overall Balance – OB) bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn, tức là:
OB = CA + KA
Thực tế, do có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu thập số liệu và lập BOP, do đó, thường phát sinh những nhầm lẫn và sai sót. Vì vậy, cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân vãng lai, cán cân vốn và hạng mục nhầm lẫn sai sót trong thống kê là:
OB = CA + KA + OM
Hạng mục nhầm lẫn và sai sót thống kê bao gồm các giao dịch kinh tế thực tế đã xảy ra nhưng không được ghi chép hoặc có được ghi chép nhưng ghi chép đó có nhầm lẫn, không chính xác.
* Cán cân bù đắp chính thức
Cán cân này phản ánh những thay đổi tài sản dự trữ chính thức do các giao dịch can thiệp của cơ quan chính phủ của một nước nhằm cân bằng tổng thể các giao dịch tư nhân và chính phủ. Các tài sản dự trữ bao gồm: vàng, quyền rút vốn đặc biệt (SDR), dự trữ trong IMF, ngoại tệ có khả năng chuyển đổi…
Thông thường, cán cân tổng thể của các quốc gia không ở trạng thái cân bằng, cán cân tổng thể có thể thặng dư (OB > 0) hoặc thâm hụt (OB < 0). Do vậy, cần được bù đắp bởi các tài sản dự trữ trên. Các hạng mục đó được gọi là cán cân bù đắp chính thức (Official Fanancing Balance – OFB).
Vì ngân hàng trung ương có chức năng can thiệp lên cung, cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, do đó, các hoạt động can thiệp của ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại hối (mua bán nội tệ) nhằm tác động lên nền kinh tế, được xem là quan hệ giữa đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú.
Cụ thể, khi cán cân tổng thể bị thâm hụt (-), ngân hàng trung ương cần bù đắp chính thức bằng cách tăng cung ngoại tệ bằng cách bán ngoại tệ, OFB (+). Ngược lại, khi cán cân tổng thể thặng dư (+), ngân hàng trung ương cần bù đắp chính thức bằng cách tăng cầu ngoại tệ bằng cách mua ngoại tệ, OFB (-).
* Khoản mục lỗi và sai sót (OM)
Do áp dụng nguyên tắc hạch toán kép, nên cán cân thanh toán quốc tế luôn được cân bằng. Tổng của cán cân tổng thể và cán cân bù đắp chính thức phải luôn bằng 0. Tức là:
OB + OFB = O-> OB = — OFB-»CA + KA + OM= — OFB
->OM = -(OFB + CA + KA)
Từ công thức OM ta thấy, số dư của hạng mục lỗi và sai sót chính là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Bởi vì, cán cân bù đắp chính thức, cán cân vãng lai và cán cân vốn luôn được xác định. Công thức trên được áp dụng để xác định số dư nhầm lẫn và sai sót khi lập cán cân thanh toán.
Trong thực tế, tùy theo nhu cầu mà mỗi quốc gia có thể cơ cấu lại cán cân thanh toán quốc tế cho phù hợp với mục đích sử dụng và mục đích phân tích riêng của mình.
9. Phương pháp phản ánh các giao dịch quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia được ghi chép theo một nguyên tắc ghi nợ (Debit) và ghi có (Credit).
Một giao dịch được ghi vào bên ghi có (+) là các khoản sẽ thu được từ người nước ngoài của quốc gia biên soạn cán cân thanh toán (ví dụ gọi là nước A). Các giao dịch được ghi có vào cán cân thanh toán của nước A bao gồm xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ cho người nước ngoài, đầu tư mua trái phiếu do chính phủ của người nước ngoài. Như vậy, có thể hiểu các giao dịch ghi có sẽ làm tăng dòng tiền từ nước ngoài vào nước A.
Một giao dịch được ghi vào bên nợ (-) là các khoản mà nước A phải trả cho người nước ngoài. Các giao dịch này bao gồm nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ của A, giao dịch mua cổ phiếu, trái phiếu của chính phủ, doanh nghiệp nước ngoài của các nhà đầu tư nước A. Như vậy, các giao dịch ghi nợ làm tăng dòng tiền đi ra khỏi nước A.
về nguyên tắc, cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia có thể được hạch toán, ghi chép bằng bất kì đồng tiền nào. Tuy nhiên, trên thực tế, phần lớn các quốc gia phát triển có đồng tiền tự do chuyển đổi, đồng tiền sử dụng trong cán cân thanh toán quốc te là đồng nội tệ. Còn đối với những quốc gia không có đồng tiền tự do chuyển đổi thường sử dụng một ngoại tệ được sử dụng nhiều nhất trong thanh toán quốc tế của quốc gia này. Ở Việt Nam, đồng tiền dùng để ghi chép và hạch toán là đồng USD.
10. Trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế.
* Cán cân mậu dịch:
Là yếu tố quan trọng quyết định đến vị trí của BOP mà cán cân thương mại lại phụ thuộc yếu tố tác động trực tiếp đến nó. Ví dụ như:
– Thương mại hữu hình: là một trong những hạng mục thường xuyên của BOP. Tùy theo trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, độ phong phú của tài nguyên thiên nhiên mà có một số quốc gia khác lại ở vào vị trí nhập siêu.
– Thương mại vô hình: chủ yếu là dịch vụ và du lịch. Có một số quốc gia được thiên nhiên ưu đãi về vị trí địa lý, cảnh quan và khí hậu đã trở thành nơi thu hút khách du lịch của thế giới.
* Lạm phát
Với điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu tỷ lệ lạm phát của một quốc gia cao hơn so với các nước khác có quan hệ mậu dịch, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa của nước này trên thị trường quốc tế do đó làm cho khối lượng xuất khẩu giảm.
* Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân
Nếu mức thu nhập của một quốc gia tăng theo một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của quốc gia khác, tài khoản vãng lai của quốc gia đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Do mức thu nhập thực tế (đã điều chỉnh do lạm phát) tăng, mức tiêu thụ hàng hóa cũng tăng.
* Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái
Nếu tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với tiền của quốc gia khác, tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm, nếu các yếu tố khác bằng nhau. Hàng hóa xuất khẩu từ nước này sẽ trở nên đắt hơn đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền của họ mạnh. Kết quả là nhu cầu hàng hóa đó giảm(cán cân vãng lai).
* Sự ổn định chính trị của một đất nước, chính sách đối ngoại của quốc gia
Sự ổn định chính trị của một đất nước là cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế. đây cũng là điều kiện tiên quyết để các quốc gia khác tăng cường quan hệ kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách đối ngoại trở thành điều kiện đủ cho mọi quan hệ kinh tế trực tiếp. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, chính sách đối ngoại phù hợp sẽ là yếu tố mở đường cho mọi yếu tố khác phát triển.
* Khả năng và trình độ quản lý kinh tế của chính phủ
Đây là yếu tố tạo sự phát triển bền vững và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Yếu tố này vừa mang tính thử nghiệm vừa đánh giá sự năng động trong điều hành nền kinh tế của chính phủ trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại cũng sẽ đạt được. Do đó, cán cân thanh toán quốc tế sẽ được cải thiện theo chiều thuận.
11. Các biện pháp nhằm thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế?
– Giảm bớt chi tiêu ngân sách nhà nước.
Giảm chi tiêu ngân sách nhà nước sẽ tác động đến tổng cầu do đó góp phần cải thiện cán cân ngắn hạn.
Giảm chi tiêu ngân sách nhà nước thường đi đôi với chính sách thắt chặt tiền tệ, thuế khóa như: tăng lãi suất cho vay để giảm đầu tư, dùng công cụ thuế để hạn chế tiêu dùng nhất là hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
– Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài có thể áp dụng các biện pháp sau:
+ Nâng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút ngoại tệ từ nước ngoài vào.
+ Vay của nước ngoài và tìm kiếm nguồn viện trợ nhà nước.
+ Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thủ tục dễ dàng, ưu đãi về thuế, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
– Điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm khuyến khích xuất khẩu tăng thu ngoại tệ đồng thời hạn chế nhập khẩu tiết kiệm ngoại tệ.
Chính sách chiết khấu: Ngân hàng trung ương dùng cách thay đổi lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng để điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế. Nếu lãi suất tái chiết khấu tăng trong khi lãi suất của các nước trong khu vực vẫn giữ nguyên thì sẽ thu hút được lượng ngoại tệ lớn ở trong nước và ngoài nước vào ngân hàng, như vậy cung cầu ngoại tệ sẽ được cải thiện.
Khi cần thiết ngân hàng trung ương hạ lãi suất tái chiết khấu sẽ mở rộng quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài tăng thu ngoại tệ.
+Chính sách hối đoái là biện pháp tác động trực tiếp vào tỷ giá hối đoái nghĩa là ngân hàng trung ương hay cơ quan ngoại hối của nhà nước dùng các nghiệp vụ trực tiếp mua, bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá phù hợp với điều kiện của mình trong từng giai đoạn, phù hợp mục tiêu chính sách kinh tế đối ngoại.
+Nâng giá hoặc phá giá sức mua của đồng tiền nội tệ.
– Áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch nhằm kích thích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, tăng thu ngoại tệ bù đắp sự thiếu hụt, sử dụng hàng rào thuế quan hạn chế nhập khẩu.
– Sử dụng quyền rút vốn đặc biệt SDR tại IMF
Khi một quốc gia là thành viên chính thức tại IMF thì có thể sử dụng quyền rút vốn
đặc biệt hoặc thực hiện xuất vàng để trang trải các khoản nợ nước ngoài.
* Các giải pháp mang tính chiến lược
– Tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ tùy thuộc vào điều kiện tài nguyên, trình độ phát triển khoa học công nghệ của quốc gia trong đó trình độ khoa học công nghệ giữ vị trí quyết định.
– Có chính sách hợp lý và năng động để thu hút khách du lịch, kiều hối, xuất khẩu lao
động, xuất khẩu công nghệ nhằm tăng thu ngoại tệ.
– Quản lý thu chi ngoại tệ theo nguyên tắc tăng thu giảm chi ngoại tệ.
– Đổi mới chính sách quản lý kinh tế đối ngoại để thu hút vốn đầu tư .
– Nâng cao trình độ quản lý,điều hành kinh tế của chính phủ,các cấp chính quyền.
12. Bình luận về tình trạng cán cân thanh toán của Việt Nam thời gian gần đây?
Những tháng đầu năm 2020, kinh tế Việt Nam nói riêng và kinh tế thế giới nói chung chịu các ảnh hưởng tiêu cực đến từ dịch bệnh Covid-19. Theo các số liệu được công bố, xuất khẩu trong tháng 4/2020 của Việt Nam giảm mạnh, tới 13,9% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do sự sụt giảm đến 26% so với cùng kỳ của hàng dệt may và giày dép. Một số đơn đặt hàng từ Mỹ và EU – chiếm khoảng 60% xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam – đã bị hủy bỏ hoặc trì hoãn do tác động của dịch bệnh.
Đối với khu vực sản xuất, thông tin đăng tải trên báo Thời báo ngân hàng (Cơ quan ngôn luận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) cho biết, khu vực sản xuất chịu nhiều sự tác động theo đó, tháng 4/2020 chỉ số PMI (chỉ số quản lý thu mua – chỉ số về xu hướng kinh tế trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ) sụt giảm với tốc độ nhanh và xuống mức thấp kỷ lục là 32,7 điểm. Điều này phản ánh của nhu cầu ngày càng yếu. Tuy nhiên, chuyên gia kinh tế Yun Liu của HSBC vẫn đánh giá: “Việt Nam là nền kinh tế duy nhất trong ASEAN mà chúng tôi dự báo còn tiếp tục có được tăng trưởng dương trong năm 2020”
Cán cân thanh toán (BOP) của Việt Nam hiện đang ở một vị thế tương đối mạnh. Nhờ dòng vốn FDI được duy trì, tài khoản vốn thặng dư đã giúp hỗ trợ để duy trì thặng dư BOP tổng thể.
Mới đây, Báo cáo của World Bank cho thấy, cuối tháng 8/2020 dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà cs là 92 tỷ USD, tăng so với mức 80 tỷ USD vào cuối tháng 12. Theo World Bank, dù mức tăng này không cao như mức tăng cùng kỳ năm 2019, nhưng nó chứng tỏ khả năng phục hồi của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam được đánh giá đã đạt mức thặng dư thương mại hàng hóa cao kỷ lục và thu hút được dòng vốn FDI lớn cho dù có chịu tác động dịch bệnh. Hoạt động này đã giúp giảm thiểu tác động của việc giảm lượng kiều hối và thu nhập bằng ngoại tệ từ du khách nước ngoài.
Trong 8 tháng đầu năm 2020, cán cân thanh toán của Việt Nam tiếp tục thặng dư. Cụ thể, trong tháng 8, xuất khẩu của Việt Nam ổn định, tăng trưởng 1,42% (mỗi tháng) nhưng dòng vốn FDI vào Việt Nam giảm đáng kể, chỉ đạt khoảng 720 triệu USD trong tháng 8 so với 3,1 tỷ USD vào tháng 7 năm 2020. Trong 8 tháng đầu năm 2020, Việt Nam đã nhận được 19,5 tỷ USD vốn FDI, giảm 14% so với cùng kỳ năm 2019.
Có thể thấy cán cân thanh toán là một trong những tài liệu quan trọng phản ánh vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế. Thông qua cán cân thanh toán sẽ giúp các nhà hoạch định kinh sẽ hiểu rõ được tình hình kinh tế của một đất nước, để từ có các chiến lược phát triển phù hợp.
13. Trình bày các chức năng chính của tiền tệ
Phương tiện trao đổi
Trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường là một trong những hoạt động phổ biến nhất của đời sống con người. Tuy nhiên, việc trao đổi này không phải lúc nào cũng thuận lợi. Nhằm loại bỏ những sự khó khăn trong mậu dịch. Mọi người phải lựa chọn một thứ gì đó sẽ đóng vai trò là vật trung gian. Và đó chính là tiền.
Để xem xét chức năng quan trọng này của tiền, chúng ta có thể tư duy ngược lại bằng cách xem xét sự vắng mặt của nó. Khi không có tiền, hàng hóa sẽ được trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác. Lúc đó, người mua phải tìm những thứ mà người bán chấp nhận.
Giả sử bạn đang ghé thăm một cửa hàng tạp hóa trong nền kinh tế không có tiền. Bạn sẽ cần phải chất đầy một đống đồ mà người bán tạp hóa có thể chấp nhận để đổi lấy hàng tạp hóa. Đó sẽ là một chuyện rất rắc rối. Chi phí vận chuyển cao khủng khiếp và cơ hội gặp một cửa hàng đúng nhu cầu lại hiếm hoi. Điều này sẽ làm nền kinh tế thế giới đình trệ và hoạt động kém hiệu quả.
Thước đo giá trị
Trong thực tế, nếu bạn hỏi bất kỳ người Việt Nam nào về giá cả. Họ sẽ cho bạn một con số kèm với đơn vị là đồng. “Đĩa cơm tấm này giá 25.000 đồng” hoặc “tôi đã trả 30 triệu đồng cho cái Iphone 12 này”. Mọi người sẽ không nói rằng “Tôi đã trả 1200 đĩa cơm tấm để đổi lấy cái Iphone 12”. Về lý thuyết, câu nói trên hoàn toàn có đúng theo nghĩa đen. Nhưng mọi người sẽ không dùng cách báo giá như vậy. Bởi vì, mọi người không đến những FPT Shop hoặc Điện máy xanh với cả nghìn dĩa cơm để đổi một cái Iphone 12. Dẫn đến thông tin đo lường sẽ không thực tế.
Trong ví dụ trên, có thể thấy rằng tiền đóng vai trò như một đơn vị đo lường. Tiền là một phương tiện nhất quán để đo giá trị của mọi thứ. Khi báo giá của hàng hóa hoặc dịch vụ theo đơn vị tiền. Tất cả mọi người đều có thể hiểu về số lượng, quy mô cũng như là giá trị của nó.
Lưu trữ giá trị
Chức năng thứ ba của tiền là dùng để lưu trữ giá trị. Tức là nó có giá trị theo thời gian. Nếu bạn để quên một tờ 100.000 đồng hồi năm 2017 ở trong tủ. Bây giờ bạn mở tủ ra và thấy nó, dĩ nhiên bạn vẫn có thể cầm nó ra ngoài mua bất cứ thứ gì bạn muốn. Thực tế, giá trị đã được “lưu trữ” tờ polyme đó trong ngần ấy thời gian. Và nó cũng có thể tiếp tục lưu trữ giá trị trong tương lai.
Dĩ nhiên, tiền không phải là thứ duy nhất lưu giữ giá trị. Từ bất động sản như : nhà cửa, đất đai cho đến các động sản như: xe, cộ,… đều có chức năng này. Tuy nhiên, tiền khác với những kho lưu trữ giá trị khác này là có thể dễ dàng trao đổi lấy các hàng hóa khác. Với chức năng phương tiện trao đổi làm cho nó trở thành một kho lưu trữ giá trị tiện lợi.
Mặc dù vậy, tiền không phải là một kho lưu trữ giá trị không có rủi ro. Chúng ta đều biết rằng trong kinh tế có hiện tượng làm phát. Nó làm bốc hơi một phần giá trị của tiền. Trong thời kỳ lạm phát phi mã, mọi người có thể không muốn dựa vào tiền như một vật lưu trữ giá trị. Thay vào đó, họ có thể chuyển sang các hàng hóa như đất đai hoặc vàng có tính an toàn hơn.
14. Trình bày với các hệ thống tiền tệ quốc tế.
Khái niệm
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong tiếng Anh gọi là International Monetary System.
Hệ thống tiền tệ quốc tế là một loạt các nguyên tắc, qui định, các công cụ và các tổ chức để cho việc thanh toán quốc tế có hiệu quả.
Phân loại
Hệ thống tiền tệ quốc tế có thể được phân chia theo chế độ tỉ giá hoặc theo cách xác định tài sản dự trữ quốc tế. Theo chế độ tỉ giá có hệ thống tiền tệ quốc tế theo chế độ tỉ giá cố định và theo chế độ tỉ giá thả nổi.
Phân loại theo cách xác định tài sản dự trữ tế chúng ta có hệ thống tiền tệ theo chế độ bản vị vàng (vàng là tài sản dự trữ quốc tế duy nhất), hệ thống tiền tệ theo chế độ bản vị của một đồng tiền quốc gia (ví dụ như bản vị đồng đôla).
Ví dụ: Hệ thống tiền tệ theo chế độ bản vị vàng là hệ thống tỉ giá cố định. Nhưng cũng có hệ thống tỉ giá cố định mà không có sự liên hệ với vàng. Trong chế độ này, dự trữ quốc tế là một số đồng tiền quốc gia (chẳng hạn như đôla Mỹ) không được chuyển đổi ra vàng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế tốt là một hệ thống mà tối đa hóa được các quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế, đảm bảo sự cân bằng về lợi ích của các quốc gia do thương mại và đầu tư quốc tế đem lại.
Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện tại và tương lai
Từ tháng 3/1973, thế giới đã hoạt động dưới hệ thống thả nổi có quản lí. Đó là sự kết hợp giữa hệ thống tỉ giả cổ định với tỉ giá linh hoạt. Đồng tiền của các nước có nền kinh tế mạnh được sử dụng như đồng tiền quốc tế (USD, DM, JPY…) đặc biệt là USD.
Nhiều nước gắn giá trị đồng tiền của mình với các đồng tiền khác. Một số nước gắn đồng tiền của mình với đôla Mỹ. Một điểm quan trọng của hệ thống tiền tệ hiện nay là việc không nhấn mạnh đến vàng trong các giao dịch tài chính quốc tế.
Năm 1979 hệ thống tiền tệ châu Âu được thành lập với kế hoạch tạo ra một đồng tiền chung châu Âu (ECU) và Ngân hàng Trung ương châu Âu vào năm 1997 hoặc 1999.
Việc đưa đồng EURO vào thực tế được thực hiện theo hai thời kì khác nhau:
Từ ngày 1/1/1999 đến 31/12/2001 là giai đoạn đầu thời kì quá độ. Trong thời kì này những người sống trong các nước có sử dụng đồng EURO có quyền lựa chọn quyền sử dụng đồng EURO hay không theo nguyên tắc không bắt buộc, không cấm.
Từ ngày 1/1/2002, tiền EURO giấy và xu trở thành tiền chính thức hợp pháp và được lưu hành song song với đồng tiền cũ của các quốc gia trong một thời gian. Những đồng tiền riêng của các quốc gia dần được thu hồi cho đến ngày 1/7/2002.
Từ khi ra đời, đồng EURO đã dần trở thành đồng tiền quốc tế mạnh, là một đối thủ cạnh tranh của đồng đôla Mỹ, được sử dụng ngày càng rộng rãi trong các giao dịch tài chính quốc tế.
Một số nước Châu Á cũng có mong muốn hình thành một động tiền chung trong khu vực nhưng chưa đủ điều kiện để thực hiện.
Câu hỏi tự luận chương 6: Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu
1. Trình bày về hội nhập kinh tế khu vực theo quan niệm truyền thống.
Hiệp định Thương mại Khu vực (Regional Trade Agreement – RTA) là thuật ngữ được khung khổ GATT/WTO thống nhất dùng để chỉ các thảo thuận tự do hóa thương mại giữa các thành viên của GATT/WTO trên nguyên tắc có đi có lại trong phạm vi điều chỉnh của các điều khoản như Điều khoản XXIV/GATT; Điều khoản V/GATS và Điều khoản Cho phép (Enabling Clause 1979). Khái niệm RTA của GATT/WTO dùng để chỉ hai hình thức hội nhập kinh tế là Khu vực Thương mại Tự do (FTA) và Liên minh Thuế quan (C.U).
Theo quan niệm của lý thuyết thương mại truyền thống về hội nhập kinh tế khu vực (Viner, 1950), Hiệp định Thương mại Khu vực có thể ở các cấp độ cam kết hội nhập khác nhau nên có những khái niệm tương ứng như hội nhập chỉ ở mức độ cắt giảm thuế quan cho nhau thì được gọi là Hiệp định Thương mại Tự do (Free Trade Agreement – FTA) và hội nhập sâu hơn ở mức độ thực hiện chính sách thuế quan chung với nước thứ ba thì được gọi là Liên minh Thuế quan (Customs Union – CU).
Xét từ góc độ pháp lý thì Hiệp định Thương mại Tự do (Free Trade Agreement/FTA) là dạng hiệp định quá độ [interim agreement] làm cơ sở pháp lý cho việc hình thành một Khu vực Thương mại Tự do (Free Trade Area) hoặc một Liên minh Thuế quan (Customs Union) sau một khoảng thời gian nhất định. Về bản chất “Hiệp định/Khu vực Thương mại Tự do là một hiệp định có đi có lại trong đó các hàng rào thương mại giữa các quốc gia tham gia hiệp định được xóa bỏ. Song mỗi thành viên của hiệp định có quyền duy trì các hàng rào thương mại riêng đối với các nước không phải là thành viên hiệp định”.
Nghiên cứu của Shibata năm 1967 đưa ra định nghĩa về Khu vực Thương mại Tự do (Free Trade Area) như sau:
“Một Khu vực Thương mại Tự do (FTA) là một nhóm nước với nhau, trong đó mỗi nước đồng ý miễn thuế quan và các hạn chế định lượng thường áp dụng với các sản phẩm nhập khẩu hay bộ phận cấu thành các sản phẩm này, có xuất xứ hoặc được sản xuất tại vùng lãnh thổ của các thành viên khác trong nhóm nước hình thành nên FTA đó”.
Định nghĩa của Shibata tiếp cận từ khía cạnh xuất xứ hàng hóa, vốn là vấn đề lớn nhất đặt ra cho quá trình thực thi các FTA/RTA nhằm tránh những hành vi gian lận thương mại cũng như giảm thiểu chi phí giao dịch không đáng có đối với khu vực doanh nghiệp.
2. Trình bày về hội nhập kinh tế khu vực theo quan niệm mới.
Kể từ thập kỷ 1990 đến nay, khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do (Free Trade Agreement – FTA) đã mở rộng hơn về phạm vi và sâu hơn về cam kết tự do hóa. Đây chính là lý do mà các học giả thường gọi các Hiệp định Thương mại Tự do ngày nay là FTA “thế hệ mới”. Các FTA ngày nay không chỉ dừng lại ở phạm vi cam kết cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan, mà hơn thế còn bao gồm nhiều vấn đề rộng hơn cả cam kết trong khung khổ GATT/WTO cũng như một loạt vấn đề thương mại mới mà WTO chưa có quy định. De Melo và Panagariya (1993) đã từng nhận xét “Chúng ta nhận thấy ngày càng rõ rằng hội nhập khu vực đã vượt qua phạm vi của hoạt động thương mại hàng hóa, dịch vụ và các nhân tố sản xuất”. Phạm vi cam kết của FTA này còn bao gồm những lĩnh vực như thuận lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh (còn gọi là “những vấn đề Xingapo”), các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao động, môi trường, thậm chí còn gắn với những vấn đề dân chủ và nhân quyền hay chống khủng bố… Điều này cũng có nghĩa khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do được sử dụng rộng rãi ngày nay không còn được hiểu trong phạm vi hẹp của những thỏa thuận hội nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết kinh tế “nông” của giai đoạn trước thập kỷ 1980, mà đã được dùng để chỉ các thỏa thuận hội nhập kinh tế “sâu” giữa hai hay một nhóm nước với nhau.
Bên cạnh đó, khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do được sử dụng nhiều trong các văn bản và bài nghiên cứu hiện nay là vì cho tới nay số lượng các Khu vực Thương mại Tự do (Free Trade Area) đã thực sự hình thành dựa trên các Hiệp định Thương mại Tự do được ký kết là không nhiều, đặc biệt đối với các Hiệp định Thương mại Tự do được ký kết sau khi WTO ra đời năm 1995. Cộng thêm đại đa số các Hiệp định Thương mại Khu vực (RTA) từ trước tới nay hướng tới hình thành các Khu vực Thương mại Tự do, cho nên Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) là khái niệm được sử dụng thường xuyên nhất thay thế cho cả ba khái niệm Hiệp định Thương mại Khu vực (Regional Trade Agreement), Khu vực Thương mại Tự do (Free Trade Area), và Liên minh Thuế quan (Custom Unions), trừ một số trường hợp phân tích cụ thể.
Quan điểm của các học giả ủng hộ tự do hóa thương mại đa phương như Jagdish Bhagwati (1993) hay Bhagwati và Panagariya (1996) thì cho rằng tất cả các hiệp định tự do hóa thương mại khu vực như vậy cần được gọi đúng với bản chất “phân biệt đối xử” của chúng, do đó phải dùng khái niệm “Hiệp định Thương mại Ưu đãi” (Preferential Trade Agreement/PTA) để chỉ các RTA nói trên mới đúng. Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc (UNESCAP) thì đưa ra định nghĩa:
“Hiệp định Thương mại Ưu đãi (Preferential Trade Agreement/PTA) là thuật ngữ khái quát dùng để mô tả một quá trình hội nhập thương mại mà trong đó các nước tham gia sẽ trao cho nhau những nhượng bộ thương mại có đi có lại đầy đủ hoặc từng phần. Thuật ngữ “ưu đãi” dùng để chỉ thực tế là các thành viên của các hiệp định này được quyền – theo quy định của Điều khoản GATT/XXIV hay GATS/V – trao cho nhau những ưu đãi mà không phải mở rộng các ưu đãi đó tới các thành viên WTO khác (theo nguyên tắc Tối huệ quốc/MFN). Nhìn lại lịch sử, các Hiệp định Thương mại Ưu đãi (PTA) thường được ký kết giữa các nước cận kề hoặc cùng vùng địa lý nên các Hiệp định Thương mại Ưu đãi còn được gọi là các Hiệp định Thương mại Khu vực (Regional Trade Agreement/RTA)”.
Thực tiễn chính sách hội nhập kinh tế của các quốc gia trong hệ thống thương mại thế giới từ trước tới nay nói chung và của các quốc gia Đông Á ngày nay nói riêng cho thấy, mỗi quốc gia đã và đang sử dụng những khái niệm, tên gọi pháp lý khác nhau cho các hiệp định hội nhập kinh tế song phương và khu vực của mình, song về bản chất đó vẫn là các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hay Liên minh Thuế quan (CU) như trình bày ở trên. Ví dụ, ngay từ những năm 1950 thì các nước Châu Âu đã ký kết Hiệp ước Rôma (Treaty of Roma, 1957) hướng tới hình thành Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC). Ngày nay, Nhật Bản gọi các FTA mà mình ký kết là “Hiệp định Đối tác Kinh tế” (Economic Partnership Agreement/EPA); Trung Quốc thì sử dụng cả hai khái niệm “Khu vực Mậu dịch Tự do” (Free Trade Area/FTA) và “Hiệp định Đối tác Kinh tế chặt chẽ hơn” (Closer Economic Partnership Agreement/CEPA); Ấn Độ thì sử dụng khái niệm “Hiệp định Hợp tác Kinh tế Toàn diện” (Comprehensive Economic Cooperation Agreement/CECA) còn Hàn Quốc và ASEAN thì sử dụng cả hai khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) và “Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện” (Framework Agreement on Comprehensive Economic Cooperation/FACEC). Chung quy thì bản chất của các hiệp định này đều là Hiệp định Thương mại Tự do với mục đích là hình thành một Khu vực Thương mại Tự do giữa các bên ký kết trong tương lai. Chính vì sự tương đồng về bản chất của quá trình liên kết kinh tế bất chấp những khái niệm và tên gọi khác nhau mà khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) sẽ được sử dụng xuyên suốt trong quá trình phân tích để phản ánh các khái niệm đa dạng trên, trừ trường hợp trích dẫn cụ thể.
3. Trình bày về quan hệ kinh tế song phương giữa Việt Nam – Hoa Kỳ
Quan hệ hợp tác kinh tế là nhu cầu khách quan mà hai bên Việt Nam – Hoa Kỳ đều cùng hướng tới nhằm khai thác triệt để những lợi thế so sánh của mình. Hai bên đều có lợi ích khi phối hợp có hiệu quả trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là các cơ chế như: APEC, ARF, EAS, và ADMM+…
Động lực phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam-Hoa Kỳ trước hết bắt nguồn từ nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng ổn định, khá toàn diện; nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong phú, chính trị, xã hội ổn định, đường lối đổi mới, hội nhập đúng đắn với nhiều cơ chế chính sách ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài nói chung, Hoa Kỳ nói riêng phù hợp với các lĩnh vực Hoa Kỳ có thế mạnh. Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện tính minh bạch về thông tin, luật pháp và vấn đề khuyến khích đầu tư nước ngoài; tạo một môi trường thuận lợi, thu hút nhiều công ty của Hoa Kỳ.
Hơn hai triệu người Mỹ gốc Việt là nguồn lực dồi dào để thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Hệ thống thông tin và giao thông, thủ tục xuất-nhập cảnh giữa hai nước ngày càng được cải thiện; đường bay trực tiếp hai nước đã được thiết lập, tạo thuận lợi cho các doanh nhân và khách du lịch, các sinh viên và nhà khoa học di chuyển thuận lợi và rẻ hơn…
Đặc biệt, Việt Nam, Hoa Kỳ và 10 nước khác (New Zealand, Australia, Canada, Mexico, Nhật Bản, Malaysia, Brunei, Singapore, Peru và Chile) thành viên TPP (Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương) đã tuyên bố chính thức kết thúc đàm phán TPP (ngày 5-10-2015) và chính thức ký kết để xác thực lời văn Hiệp định này ngày 4-2-2016, tại Aucland – New Zealand. TPP là một bước tiến nhanh và đỉnh cao nhất trong lộ trình nâng tầm đối ngoại đa phương từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”; đóng góp tích cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường thu hút vốn nước ngoại và khách du lịch quốc tế, đấu tranh chống những hành động gian lận, áp đặt các rào cản thương mại; góp phần duy trì môi trường an ninh và phát triển kinh tế đối ngoại, đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu và củng cố vững chắc vị thế của Việt Nam trong cộng đồng khu vực và quốc tế.
TPP là FTA đầu tiên mà Việt Nam và Mỹ cùng tham gia, và là FTA thứ 12 (ngoài WTO), mà Việt Nam đã ký kết, qua đó, xác lập quan hệ thương mại tự do sâu rộng với hơn 50 nước đối tác, trong đó có 15/20 nước G20, chiếm hơn 2/3 tổng GDP và hơn 50% thương mại toàn thế giới, mở ra nhiều cơ hội và cả thách thức mới về đầu tư và thương mại trong số hơn 224 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ.
Việc ông Barack Obama, vị Tổng thống Mỹ thứ ba đến thăm Việt Nam sau khi hai nước Việt-Mỹ khôi phục quan hệ ngoại giao vào năm 1995, trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 23 đến 25-5-2016 đã tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam là hành động tích cực xóa đi rào cản cuối cùng của quan hệ hai nước trên tiến trình bình thường hóa, đồng thời mở ra động lực và tầm cao mới cho phát triển kinh tế-thương mại và hợp tác toàn diện hai bên theo hướng mạnh mẽ và cân bằng hơn.
Diễn ra trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều bất ổn, khủng hoảng chính sách và quan hệ giữa các nước lớn cũng thay đổi, nên bên cạnh các thuận lợi, trong quan hệ kinh tế với nhau, hai bên không tránh khỏi những tranh chấp thương mại gây cản trở nhất định cho hợp tác. Ngoài ra, để tạo thuận lợi hơn nữa cho thương mại và kinh tế, Việt Nam đang đề nghị Hoa Kỳ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường (MES) và trao Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP).
4. Trình bày về sự tham gia của Việt Nam trong liên kết kinh tế khu vực ASEAN.
Sau 19 năm tham gia ASEAN, quan hệ kinh tế-thương mại của Việt Nam-ASEAN đã có sự phát triển vượt bậc, cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Về thương mại, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với ASEAN hiện đạt 22 tỷ USD/năm, chiếm khoảng 1/5 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và gấp gần 2 lần tổng giá trị thương mại của Việt Nam với bên ngoài ở thời điểm trước năm 1995. Tốc độ tăng trưởng thương mại của Việt Nam với ASEAN đạt trung bình 15-16%/ năm trong suốt 15 năm qua. Nhiều mặt hàng tiêu dùng và công nghiệp thuộc thế mạnh của Việt Nam đã trở nên quen thuộc tại nhiều nước ASEAN. Về đầu tư, ASEAN liên tục nằm trong số các nhà đầu tư lớn nước ngoài tại Việt Nam. Tính đến hết năm 6/2010, Việt Nam đã cấp giấy phép đầu tư cho 1449 dự án của các nước ASEAN với vốn đăng ký xấp xỉ 44 nghìn tỷ USD, trong đó, vốn thực hiện đạt trên 12 nghìn tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam sang các nước ASEAN, tuy còn khiêm tốn, song đang có chiều hướng gia tăng trong những năm tới, đặc biệt tại các thị trường Lào, Campuchia và Myanmar.
Mặc dù là một nước thành viên mới, tham gia sau với trình độ phát triển kinh tế còn chênh lệch lớn so với các nước bạn trong Hiệp hội, song với quyết tâm và ý thức trách nhiệm cao, Việt Nam đã tham gia tích cực vào hầu hết các chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư, dịch vụ, tài chính-tiền tệ, nông-lâm nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện viễn thông, năng lượng, du lịch, hải quan v.v…
Trong khuôn khổ CEPT/AFTA, đến 1/1/2010, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho hơn 10 nghìn dòng thuế xuống mức 0-5%, chiếm 97,8% số dòng thuế trong biểu thuế, đó có 5488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%. Trong điều kiện sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam với hầu hết các nước thành viên ASEAN còn lớn như hiện nay, những nỗ lực thực hiện các cam kết trong AFTA của Việt Nam như vậy được các bạn rất hoan nghênh. Song song với chương trình cắt giảm thuế quan, Việt Nam còn phối hợp với các nước ASEAN triển khai các chương trình công tác nhằm xác định, phân loại và tiến tới dỡ bỏ các hàng rào phí thuế quan. Việt Nam cũng đã cùng các nước ASEAN hòan tất 8 Gói cam kết dịch vụ. Các cam kết hiện nay được tiến hành chủ yếu trong 7 ngành ưu tiên là: tài chính, viễn thông, vận tải hàng hải, hàng không, du lịch, dịch vụ kinh doanh và dịch vụ xây dựng.
Các sáng kiến của Việt Nam trong nỗ lực hợp tác kinh tế ASEAN:
a. Sáng kiến Liên kết ASEAN (2000):
Việt Nam là nước chủ trì thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) được các nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua năm 2000 với mục tiêu thúc đẩy liên kết kinh tế ASEAN thông qua việc các nước ASEAN-6 hỗ trợ các nước CLMV hội nhập khu vực và thu hẹp khoảng cách phát triển. Đến nay, giai đoạn một của Sáng kiến IAI (2002-2008) đã hoàn tất với 134 dự án/chương trình được thực hiện, thu hút 191 triệu đôla Mỹ từ ASEAN-6 và 20 triệu đôla Mỹ từ các nước đối thoại, tổ chức phát triển và các đối tác khác. Các dự án/chương trình tập trung vào 04 lĩnh vực ưu tiên là phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ hội nhập khu vực, công nghệ thông tin và cơ sở hạ tầng. Hiện nay, các bên đang thực hiện Khuôn khổ Chiến lược (KKCL) và Kế hoạch Công tác (KHCT) IAI giai đoạn II (2009-2015).
b. Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN (2010):
Việt Nam là nước chủ trì xây dựng Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN (KHTT). Bản KHTT được các Nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 17 (Hà Nội, tháng 10/2010). KHTT được xây dựng trên cơ sở hài hòa hóa các chiến lược/kế hoạch phát triển từng ngành liên quan và trên nền tảng là các liên kết tiểu vùng, đặc biệt là tiểu vùng Mê-Công. Bản KHTT cũng được xây dựng theo hướng mở, kết nối ASEAN với các đối tác trong khu vực trên cơ sở đảm bảo một ASEAN là trung tâm của các mối liên kết trong tương lai tại Đông Á.
c. Tuyên bố của các Nhà Lãnh đạo ASEAN về Phục hồi và Phát triển Bền vững (2010):
Về hướng liên kết kinh tế ASEAN trong tương lai, Việt Nam đã chủ trì đề xuất HNCC ASEAN 16 (Hà Nội, tháng 4/2010) ra Tuyên bố của các Nhà Lãnh đạo ASEAN về Phục hồi và Phát triển Bền vững. Theo đó, liên kết kinh tế ASEAN sẽ chú trọng hơn tới tính bền vững với các chính sách tăng trưởng kinh tế ổn định và dài hạn, đảm bảo tính cân bằng về cơ hội và quyền lợi cho các quốc gia và các thành phần kinh tế; thúc đẩy hợp tác giáo dục và đào tạo; nâng cao vai trò của khu vực tư nhân; đảm bảo an sinh xã hội; và gắn tăng trưởng với vấn đề môi trường.
5. Phân tích vai trò của Việt Nam trong sự phát triển của cộng đồng kinh tế ASEAN.
Đóng góp của Việt Nam vào quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN được thể hiện rõ trên những khía cạnh chính sau: Thứ nhất, có vai trò quan trọng đưa hai nhóm nước ASEAN xích lại gần nhau nhờ vị trí địa – chính trị và quá trình lịch sử của Việt Nam tạo ra. Việt Nam đã đóng góp lớn trong việc xây dựng Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thúc đẩy sớm xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Thứ hai, giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội ở những thời điểm khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997 và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008; thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020.
Thứ ba, về tầm cỡ kinh tế, so với các quốc gia khác trong khu vực,Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, luôn xác định có trách nhiệm trong việc hoàn thành các cam kết của mình. Việt Nam đã vượt lên nhóm các nước Campuchia, Lào, Myanmar trong ASEAN 4 tạo nên một mức mới trong ASEAN. Việt Nam đã trải qua giai đoạn khó khăn và đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường với không ít thành công đã đạt được. Việt Nam cũng là quốc gia thoát nghèo nhanh nhất nên dễ thuyết phục nước khác.
Với tinh thần tích cực, chủ động, trách nhiệm, kể từ khi tham gia ASEAN, Việt Nam đã hết sức nỗ lực cùng các nước ASEAN trong việc thúc đẩy đạt được nhiều kết quả quan trọng.
6. Đánh giá về những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại của nền kinh tế Việt Nam sau 13 năm gia nhập WTO.
Sau 13 năm gia nhập WTO (7/11/2006-7/11/2019), nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới.
Việc mở cửa nền kinh tế trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ để duy trì tốc độ tăng trưởng cao hằng năm của nền kinh tế Việt Nam.
Hơn 10 năm qua được đánh giá là giai đoạn có nhiều cuộc khủng hoảng quốc tế và tất cả có sự ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế cũng như hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, với những cải cách từ bên trong, với những chính sách đa phương, đa dạng hóa về kinh tế, thương mại và đầu tư với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, có ý nghĩa thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế cũng như hội nhập quốc tế.
Khi gia nhập WTO năm 2006, quy mô kinh tế của đất nước còn khá khiêm tốn, Việt Nam nằm trong nhóm nước thu nhập thấp; năm 2016 khi tham gia AEC và các FTA mới, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình (thấp), là một trong 32 nước có kim ngạch xuất khẩu trên 100 tỷ USD, trong đó có một số mặt hàng đứng hàng đầu thế giới, là nước thu hút FDI ổn định nhất trong ASEAN.
Tính đến tháng 10-2019, Việt Nam đã thu hút 30.136 dự án FDI với tổng vốn đăng ký đạt 358,53 tỷ USD.
Nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đã chọn Việt Nam làm “điểm đến”, như Intel, Microsoft, Samsung, LG, Nokia, Canon, Mitsubishi, Toyota, Honda…
Và mặc dù bị ảnh hưởng bởi những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, khủng hoảng nợ công song nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân đạt gần 7%/năm; năm 2018 đạt 7,08% – cao nhất trong một thập kỷ qua.
Cùng với đó, thu nhập bình quân đầu người cũng được cải thiện đáng kể. GDP bình quân đầu người tăng từ 730 USD năm 2006 lên 2.587 USD năm 2018, khoảng 7.650 USD theo sức mua tương đương.
Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu, mở rộng thị trường, đa dạng các loại hàng hóa tham gia xuất, nhập khẩu.
Việt Nam đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP.
Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là xuất siêu.
Là thành viên của WTO, Việt Nam đã được hơn 70 đối tác công nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ…
Không chỉ tác động mạnh mẽ, tích cực đến phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, các chuyên gia kinh tế cho rằng, gia nhập WTO chính là “mở cánh cửa lớn” để Việt Nam bước vào “sân chơi” toàn cầu.
Gia nhập WTO, Việt Nam đã từng bước mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ theo các thỏa thuận đa phương và song phương
Việc đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới, chủ trì các hội nghị đa phương lớn của Việt Nam trong thời gian qua vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa nâng cao đáng kể năng lực và vị thế quốc tế của Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phám 17 hiệp định FTA song phương và đa phương.
Trong số đó, 12 FTA đã có hiệu lực và đang thực thi. Với việc đàm phán, ký kết hàng loạt FTA, nhất là các FTA thế hệ mới (như FTA Việt Nam – Liên minh châu Âu; Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương; Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương; FTA ASEAN+1; FTA Australia-Hoa Kỳ).
Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được cải cách theo hướng ngày càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng minh bạch hơn, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thông thoáng hơn, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới… góp phần tăng trưởng kinh tế ổn định và chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng phát triển các ngành hàng để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các thị trường đã có FTA với Việt Nam.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, dù có tên trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn chưa phát triển theo đúng kỳ vọng.
Trong công nghiệp, ngành khai thác, gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, việc sử dụng công nghệ tiên tiến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao còn thấp.
Nông nghiệp tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng tỷ lệ hàng nông sản qua chế biến còn thấp; việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm, chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp còn nhiều bất cập.
Để tiếp tục phát triển bền vững, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần những cải cách đột phá, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước; tái cơ cấu các doanh nghiệp, các dịch vụ cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung những dịch vụ có tiềm năng, lợi thế và phát triển logistics xanh.
Đặc biệt, nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ để Việt Nam sớm có những đột phá về khoa học công nghệ, tạo ra những mặt hàng, những sản phẩm kỹ thuật cao mang lại giá trị cao trong xuất khẩu.
Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau đổi mới, việc gia nhập WTO đã nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa.
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp với những mối quan hệ đan xen về lợi ích, việc giải quyết hàng loạt thách thức đặt ra chính là chìa khóa để Việt Nam tạo đà, tiếp tục đưa con tàu kinh tế vươn ra biển lớn.
Ghi chú: Bài viết được được tặng hoặc được sưu tầm hoặc được biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện đáp án chưa chính xác, vui lòng góp ý tại phần Bình luận. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.