QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN ĐỔI VỚI GIỐNG CÂY TRỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

[VPLUDVN] Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới UPOV từ năm 2006 và cam kết sau 10 năm sẽ bảo hộ tất cả các giống và loài thực vật. 

Quyền sở hữu công nghiệp trong tư pháp quốc tế

Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu hợp pháp cuả cá nhân, pháp nhân đối với các đối tượng mang tính công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích,…) hoặc những dấu hiệu phân biệt công nghiệp thương mại (nhãn hiệu, tên thương mại,…) do trí tuệ con người sáng tạ ra và được nhà nước bảo hộ trong một thời gian nhất định.

Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối vơi giống cây trồng mới do mình chọn, tạo hoặc phát hiện và và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu

Quyền sở hữu công nghiệp đối với giống cây trồng có đầy đủ các điểm của một quan hệ dân sự

Cũng như các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khác chịu sự điều chỉnh của tư pháp quốc tế các quan hệ của quyền sở hữu công nghiệp trong tư pháp quốc tế luôn chưa đựng yếu tố nước ngoài.

Quyền sở hữu công nghiệp trong tư pháp quốc tế luôn gắn liền với các phương thức, các biện pháp hợp pháp để bảo hộ quốc tế quyền sở hữu công nghiệp

Bảo hộ quóc tế đối với quyền sở hưu công nghiệp

Các phương thức bảo hộ quốc tế quyền sở hữu công nghiệp – bảo hộ bằng các điều ước quốc tế đa phương

Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Mục đích chủ yếu của công ước Paris năm 1883 nhằm xây dựng cá điều kiện thuận lợi trong việc cấp văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu, đối tượng sở hữu công nghiệp là công dân, pháp nhân của các quốc gia thành viên cong ước trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng luật sở hữu công nghiệp của các quốc gia thành viên.

Nội dung chính của công ước Paris năm 1883 có bốn vấn đề chính như sau:

– Quy định nguyên tắc đối xử quốc gia trong việc bảo hộ uqyền sở hữu cong nghiệp tạ các quốc gia thành viên.

– Quy định về quyền ưu tiên.

– Quy định một số nguyên tắc chung đối với hệ thống sở hữu công nghiệp mà các quốc gia phải tuân thủ.

– Quy định khuôn khổ hành chính để thực thi Công ước.

Nội dung cơ bản của Công ước Paris năm 1883 được thể hiện:

– Các đối tượng được bảo hộ là các đối tượng quyền sở hữu côn nghiệp được tiếp cận theo hai nghĩa.

+ Nghĩa rộng không chỉ áp dụng cho công nghiệp và thương mại mà còn áp dụng cho cả các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khia thác các sản phẩm chế biến, các sản phẩm tự nhiên.

+ Nghĩa hẹp thì các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp chỉ gồm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Nguyên tắc bảo hộ: nguyên tắc đói xử quốc gia (quy định tại Điều 2 và Điều 3 của Công ước Paris năm 1883), áp dụng cho các chủ thể sau: là công dân của các quốc gia trên, không phải công dân cư trú tại quốc gia thành viên, có cơ sở công nghiệp hay thương mại có hiệu quả và có thực tại các quốc gia thành viên.

Điều 2. Đối xử quốc gia đối với công dân các nước thành viên của Liên minh

(1) Trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu công nghiệp, công dân của bất kỳ nước thành viên nào cũng đều được hưởng các điều kiện thuận lợi như công dân của tất cả các nước thành viên khác mà luật tương ứng của các nước đó quy định hoặc sẽ quy định mà; hoàn toàn không ảnh hưởng đến các quyền được quy định riêng trong Công ước này. Do đó, họ được hưởng sự bảo hộ và công cụ bảo vệ pháp luật chống mọi hành vi xâm phạm quyền của mình như những công dân của nước thành viên khác, miễn là tuân thủ các điều kiện và thủ tục quy định đối với công dân nước đó.

(2) Tuy nhiên, không thể đặt ra cho công dân của các nước thành viên của Liên minh bất cứ điều kiện nào về việc cư trú hoặc việc đặt trụ sở tại nước được yêu cầu bảo hộ để được hưởng bất kỳ quyền sở hữu công nghiệp nào.

(3) Các quy định liên quan đến các đòi hỏi về thủ tục xét xử và thủ tục hành chính, thẩm quyền xét xử, việc lựa chọn địa chỉ giao dịch hoặc chỉ định người đại diện nếu có trong luật về sở hữu công nghiệp của mỗi nước thành viên được bảo lưu tuyệt đối.

Điều 3. Được đối xử tương đương công dân các nước thành viên của Liên minh

Công dân của các nước không phải thành viên Liên minh nhưng định cư hoặc có cơ sở thương mại hoặc công nghiệp thực sự và có hiệu quả trên lãnh thổ của một trong những nước thành viên của Liên minh sẽ được đối xử theo cùng một chế độ như công dân của các nước thành viên của Liên minh.

Ngoài lệ của nguyên tắc đối xử quốc gia (khoản 3 Điều 2 của Công ước Paris năm 1883) trường hợp luật quốc gia liên quan tới tới hệ thống tư pháp và các yêu cầu đại diện thì được bảo hộ tuyệt đối.

Các quy định liên quan đến các đòi hỏi về thủ tục xét xử và thủ tục hành chính, thẩm quyền xét xử, việc lựa chọn địa chỉ giao dịch hoặc chỉ định người đại diện nếu có trong luật về sở hữu công nghiệp của mỗi nước thành viên được bảo lưu tuyệt đối

Điều kiện để được bảo hộ theo quy định cuả Công ước Paris năm 1883 là công dân của một quốc gia thành viên muốn được bảo hộ tại một quốc gia thành viên khác thì phải nộp đơn yêu cầu bảo hộ.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *