Quyền sở hữu trí tuệ trong tư pháp quốc tế là các quyền sở hữu bao gồm quyền sở hữu tác giả và quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước ngoài liên quan tới:
1) Các sản phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;
2) Việc trình diễn của các nghệ sĩ, các chương trình phát và truyền thanh, phát và truyền hình;
3) Các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực sáng tạo của con người;
4) Các phát minh khoa học;
5) Các kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, các thương hiệu và chỉ dẫn thương mại, bảo vệ chống cạnh tranh không lành mạnh và mọi quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghệ, khoa học, văn học, nghệ thuật.
Quyền tác giả và quyền liên quan trong tư pháp quốc tế
Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan
Theo nguyên tắc được thừa nhận chung trên thế giới, quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo vào thực tế hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã có bồ hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả[11]
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
4. Chính phủ hướng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này.
Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm các phần phát sinh. Tác phẩm được bảo hộ phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác. Tin tức thời sự thuần Thúy đưa tin, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản pháp luật lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó, quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả
Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả.
Nội dung quyền tác giả được bảo hộ bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
Điều 19. Quyền nhân thân
Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:
1. Đặt tên cho tác phẩm;
2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Điều 20. Quyền tài sản
1. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:
a) Làm tác phẩm phái sinh;
b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
c) Sao chép tác phẩm;
d) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
đ) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
2. Các quyền quy định tại khoản 1 Điều này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Quyền liên quan là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh trình được mã hóa được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả.
Chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định quan hệ về quyền tác giả và quyền liên quan có yếu tố nước ngoài nếu thuận ít nhất một trong ba trường hợp sau đây:
– có ít nhất một bên tham gia là cá nhân, tổ chức (bao gồm cả cơ quan nhà nước) mang quốc tịch nước ngoài cư trú, đặt trụ sở ở quốc gia khác.
– Đối tượng được bảo hộ của quyền tác giả là tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học sáng tạo và được thể hiện đầu tiên trên lãnh thổ của nước ngoài dưới một hình thức vật chất nhất định, đối tượng được bảo hộ của quyền liên quan là cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được định hình hoạch thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia khác.
– đối tượng được bảo hộ của quyền liên quan là cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được định hình hoạch thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia khác. Sự kiện pháp lí là cơ sở phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ về quyền tác giả và quyền liên quan xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia khác.Sự kiện pháp lí là cơ sở phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ về quyền tác giả và quyền liên quan xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia khác.
Quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh (Khoản 4 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005)
Quyền sở hữu công nghiệp trong tư pháp quốc tế luôn có yêu tố nước ngoài. Là một dạng của quan hệ dân sự, căn cứ theo quy định tại điều 758 bộ luật dân sự năm 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, và khoản hai điều 663 bộ luật dân sự 2015 về phạm vi áp dụng, quyền sở hữu công nghiệp được xem là có yêu tố nước ngoài khi sợ khi chủ sở hữu là người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được khai thác, sử dụng ở nước ngoài,…
Với tính chất vô hình,Với tính chất vô hình, các đối tượng sở hữu công nghiệp rất dễ phổ biến là sao chết. Từ đặc điểm này cùng với những lợi ích thiết thực mà tác đối tượng sở hữu công nghiệp mang lại trong kinh doanh, thương mại, dẫn đến các đối tượng sở hữu công nghiệp rất dễ bị khai thác, sử dụng bất hợp pháp ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất lãnh thổ của quyền sở hữu công nghiệp, nên việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại nước ngoài là rất khó khăn. Chính vì vậy cần phải có một cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp do các chủ thể tại nước ngoài nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ sở hữu, khuyến khích sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các quan hệ thương mại…
Lixang quyền sở hữu công nghiệp
Lixang quyền sở hữu công nghiệp là sự cho phép sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp. Về bản chất Lee Sang quyền sở hữu công nghiệp là sự nhượng quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp của các chủ sở hữu do các chủ thể có nhu cầu. Tuy nhiên không phải tất cả các đối tượng sở hữu công nghiệp đều là đối tượng của Lee Sang. Cụ thể đối với chỉ dẫn địa lý được xem là tài sản của quốc gia nên các chủ thể chỉ có quyền sử dụng và không được phép chuyển giao. Bên cạnh đó một đối tượng khác có quyền sở hữu công nghiệp là tên thương mại, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước đều quy định chỉ được phép chuyển giao khi chuyển giao toàn bộ cơ sở sản xuất kinh doanh.
Lixang quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau, nhưng có thể là một nội dung của các hợp đồng phát triển sản xuất, của hợp đồng góp vốn, hợp đồng chuyển giao công nghệ tuy nhiên trên thực tế thì sang quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện chủ yếu thông qua một loại hợp đồng, rất đặc trưng được gọi là hợp đồng đi săn. Trong một số trường hợp đặc biệt ly tăng quyền sử công nghiệp còn được thực hiện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ( được gọi là ly xăng không tự nguyện hay lixang cưỡng bức).
Hợp đồng lixang là một dạng của hợp đồng dân sự nhưng khác với các hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường, hợp đồng lixang không chuyển giao quyền sở hữu mà chỉ chuyển giao quyền sử dụng. Hình thức của hợp đồng lixang thường được kết lập dưới hình thức văn bản và được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Quyền đối với giống cây trồng
Giống cây trồng là một trong các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
Nguyên tắc “đối xử quốc gia” là nguyên tắc chủ đạo được Công ước UPOV ghi nhận. Điều 4 của Công ước quy định mỗi Bên kí kết phải dành cho công dân của các Bên kí kết khác, các cá nhân định cư và pháp nhân có trụ sở đăng kí trên lãnh thổ của Bên kí kết được hưởng sự đối xử như sự đối xử mà Luật của mỗi Bên kí kết khác đã hoặc sẽ dành cho công dân của nước mình đối với việc công nhận và bảo hộ quyền của nhà tạo giống.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.