Phân tích các loại nguồn pháp luật của pháp luật Việt Nam hiện nay

[VPLUDVN] Cho đến trước năm 2014, pháp luật Việt Nam chủ yếu bao gồm hai loại nguồn là văn bản quy phạm pháp luật và tập quán pháp. Từ khi nhà nước ban hành Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, án lệ đã chính thức được thừa nhận là một loại nguồn của pháp luật Việt Nam.

Đến nay, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã công bố các án lệ đã được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua. Bên cạnh đó, quan niệm về lẽ phải, lẽ công bằng cũng được thừa nhận là nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.

1. Văn bản quy phạm pháp luật

Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay. Pháp luật nước ta có quy định cụ thể về thẩm quyền ban hành, tên gọi, nội dung, trình tự thủ tục ban hành đối với từng loại văn bản quy phạm pháp luật. Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, tên gọi, trình tự, thủ tục cũng như thẩm quyền ban hành đối với từng loại văn bản có thể có sự thay đổi. Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam tương đối phức tạp, với khá nhiều loại văn bản, do khá nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành. Ngoài hiến pháp là luật cơ bản, các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam thường có tên gọi là luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư… Theo quy định của pháp luật hiện hành (Xem: Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015), ở Việt Nam hiện nay có các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Hiến pháp;

– Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội;

– Pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

– Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

– Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

– Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

– Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

– Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước;

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;

– Quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

– Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt;

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện;

– Quyết định của ủy ban nhân dân cấp huyện;

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã;

– Quyết định của ủy ban nhân dân cấp xã.

Trong đó:

– Hiến pháp là luật cơ bản của đất nước, hiến pháp quy định về những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của quốc gia.

– Luật, bộ luật được Quốc hội ban hành để quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo Hiến pháp phải do luật định, việc hạn chế quyền con người, quyền công dân; tội phạm và hình phạt; chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; chính sách cơ bản về văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường; quốc phòng, an ninh quốc gia; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp ngoại giao; hàm, cấp nhà nước khác; huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; chính sách cơ bản về đối ngoại; trưng cầu ý dân; cơ chế bảo vệ Hiến pháp; vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

– Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quy định tỉ lệ phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhung chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành; tạm ngưng hoặc kẻo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; đại xá; vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

– Pháp lệnh được ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành để quy định về những vấn đề được Quốc hội giao.

– Nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội được ban hành để giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; quy định việc tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội; bãi bỏ pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội; tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; vấn đề khác thuộc thẩm quyền của ủy ban thường vụ Quốc hội.

– Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để quy định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bo, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp căn cứ vào nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội; công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong trường hợp ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được; vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước.

– Nghị quyết liên tịch giữa ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ với Đoàn Chủ tịch ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được ban hành để quy định chi tiết những vấn đề được luật giao.

– Nghị định của Chính phủ được ban hành trong các trường hợp sau đây:

Một là, quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Hai là, quy định các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước;

Ba là, quy định các biện pháp để thực hiện các vấn đề thuộc thẩm quyền quản lí, điều hành của Chính phủ; những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ, cơ quan ngang bộ trở lên; nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ;

Bốn là, quy định những vẩn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lí nhà nước, quản lí kinh tế, quản lí xã hội (trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của ủy ban thường vụ Quốc hội).

– Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, chính quyền địa phương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương ttong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

– Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được ban hành để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc xét xử.

– Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao được ban hành để thực hiện việc quản lí các Toà án nhân dân và Toà án quân sự về tổ chức và những vấn đề khác được Luật tổ chức Toà án nhân dân và luật khác có liên quan giao.

– Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành để quy định những vấn đề được Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và luật khác có liên quan giao.

– Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban hành để quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lí nhà nước của minh.

– Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành để quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan này trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng.

– Quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước được ban hành để quy định chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán.

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được ban hành để quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; quy định chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

– Quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ban hành để quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; quy định biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; biện pháp thực hiện chức năng quản lí nhà nước ở địa phương.

– Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt được ban hành để quy định nhũng vấn đề được luật giao.

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được ban hành để quy định những vấn đề được luật giao.

Các loại văn bản quy phạm pháp luật trên đây được chia thành hai loại là văn bản luật và văn bản dưới luật. Có thể quan niệm rằng, văn bản luật là những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành, các văn bản quy phạm pháp luật khác là văn bản dưới luật. Ngoài hiến pháp được quy định chính thức là vãn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất, các văn bản quy phạm pháp luật khác không được quy định chính thức thứ tự cao thấp về hiệu lực, tuy nhiên có thể hiểu rằng, bằng việc quy định hệ thống văn bản qùy phạm pháp luật và thẩm quyền ban hành chúng, nhà nước đã đồng thời xác định thứ tự cao thấp về hiệu lực của từng loại văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật một cách đúng đắn. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau. Trong lĩnh vực dân sự, Bộ luật dân sự là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trường họp luật khác có liên quan quy định ưái với những những nguyên tắc chung của pháp luật dân sự thì các quy định của Bộ luật dân sự được áp dụng (Xem: Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Xem: Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2015).

2. Tập quán pháp

Việt Nam đã chính thức thừa nhận tập quán pháp là một loại nguồn của pháp luật từ năm 1995 khi nhà nước ban hành Bộ luật dân sự đầu tiên. Từ đó đến nay, tập quán pháp càng được coi trọng sử dụng, trình tự, thủ tục, cách thức áp dụng tập quán pháp cũng ngày càng hoàn thiện.

Ở Việt Nam hiện nay, có hai con đường dẫn đến sự tồn tại của tập quán pháp.

Một là, những tập quán được dẫn chiếu trong các điều, khoản của văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các văn bản trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại… Chẳng hạn, Bộ luật dân sự năm 2015 có các quy định dẫn chiếu tập quán trong một số trường hợp như: xác định một số quyền nhân thân cho cá nhân (quyền có họ tên, quyền xác định dân tộc); giải thích giao dịch dân sự; xác định ranh giới giữa các bất động sản; vấn đề sở hữu chung của cộng đồng; xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc; giao dịch hụi, họ, biêu, phường; nghĩa vụ của bên thuê tài sản; bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây ra; các nghĩa vụ về tài sản và các khoản thanh toán liên quan đến thừa kế; việc áp dụng tập quán quốc tế…1 Hiện nay, nhà nước đã có kế hoạch xây dựng danh mục các tập quán về hôn nhân và gia đình để áp dụng (Xem các điều 26, 29, 121,175, 211, 231,404,471,477, 603, 658, 666… Bộ luật dân sự năm 2015 và Xem: Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

Hai là, những tập quán được áp dụng để giải quyết những vụ việc cụ thể. Trường họp này pháp luật chỉ đưa ra nguyên tắc để áp dụng tập quán, khi một tập quán được áp dụng nó sẽ trở thành tập quán pháp. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự năm 2015, trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thoả thuận thì áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với những nguyên tắc cơ bản và không vi phạm điều cấm đã được quy định trong các văn bản đó.

3. Án lệ

Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2014 đã chính thừa thừa nhận vai trò của án lệ. Theo quy định này, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Toà án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Thực hiện nhiệm vụ này, Toà án nhân dân tối cao từng bước xuất bản các tập án lệ. Cũng như ở các nước theo truyền thống pháp luật thành văn, án lệ ở Việt Nam được hình thành trước hết trong quá trình toà án giải thích và áp dụng các quy định trong pháp luật thành văn, nhằm làm tăng tính thuyết phục trong các phán quyết của toà án.

Mặc dù pháp luật không quy định một cách chính thức, tuy nhiên, theo lời văn của quy định trong pháp luật hiện hành, có thể hiểu trong lĩnh vực dân sự, thứ tự ưu tiên áp dụng của án lệ là: điều khoản quy định trực tiếp về vụ việc, thoả thuận của các bên, tập quán, quy định điều chỉnh vụ việc tương tự, các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, án lệ.

4. Điều ước quốc tế

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, điều ước quốc tế là một loại nguồn pháp luật quan trọng. Nó có thể được nội luật hoá thành các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật nước ta, cũng có thể nó được áp dụng một cách trực tiếp. Pháp luật Việt Nam có các quy định cụ thể về áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế. Theo đó, nếu về cùng một vấn đề mà giữa pháp luật trong nước và điều ước quốc tế có quy định khác nhau thì thứ tự ưu tiên áp dụng lần lượt là Hiến pháp, điều ước quốc tế, các văn bản luật, các văn bản dưới luật.

5. Quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội

Các quan niệm đạo đức xã hội nhiều trường hợp được pháp luật dẫn chiếu làm căn cứ pháp lí để các chủ thể thực hiện hành vi thực tế. Trong nhiều trường họp, pháp luật quy định, các chủ thể thực hiện hành vi không được trái với những quan niệm đạo đức xã hội (Xem: Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015). Phẩm chất đạo đức cá nhân (được hình thành do tu dưỡng, rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức xã hội) luôn là một trong những tiêu chí cơ bản trong tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước… Nhiều quan niệm, chuẩn mực đạo đức còn được dẫn chiếu cụ thể như trung thành, tận tụy, thiện chí, trung thực, công bằng…( Xem: Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 3 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 8 Luật cán bộ, công chóc năm 2008, Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015). Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định, trong trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận, đồng thời cũng không có tập quán hay quy định điều chỉnh vụ việc tương tự thì có thể áp dụng những quan niệm về lẽ công bằng trong xã hội.

6. Hợp đồng

Pháp luật tôn trọng thoả thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng dân sự, thương mại…, tất nhiên nội dung thoả thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật cũng như không trái đạo đức xã hội. Khi đó, thoả thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là căn cứ pháp lí để các bên thực hiện hành vi của mình, đồng thời đó cũng là căn cứ quan trọng để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nếu có. Thậm chí, trong lĩnh vực dân sự, trong nhiều quy định của pháp luật hiện hành, thoả thuận của các bên được nhà làm luật đề cập trước, sau đó mới đến sự quy định của pháp luật, tập quán… ( Xem: các điều 5, 6 Bộ luật dân sự năm 2015).

7. Pháp luật nước ngoài

Trong điều kiện hiện nay, pháp luật nước ngoài được coi là một nguồn của pháp luật Việt Nam. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài phải tuân theo những điều kiện cũng như thủ tục, trình tự do pháp luật quy định.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *