1. Tiêu chí về chính trị
– Có nội dung phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng: Trong xã hội có giai cấp, các đảng phái chính trị luôn muốn thể hiện và khẳng định vai trò, mở rộng sự ảnh hưởng của mình đối với các giai tầng khác. Vì vậy, văn bản pháp luật luôn mang tính chính trị và phản ánh sâu sắc ý chí của giai cấp cầm quyền. Xem xét chất lượng của văn bản pháp luật dựa trên những yêu cầu về nội dung phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng là đòi hỏi mang tính khách quan và xuất phát từ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước. Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dãn tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cap công nhãn, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lẩy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua nhiều hình thức trong đó lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, chính sách được coi là chủ yếu nhất, trên cơ sở đó Nhà nước thể chế hoá thành những quy định pháp luật. Như vậy, pháp luật được coi là phương tiện hữu hiệu chuyển tải toàn bộ đường lối của Đảng và đưa đường lối đó vào thực tiễn đời sống. Cho nên, khi đánh giá chất lượng của văn bản pháp luật trước hết phải dựa vào đường lối, chính sách của Đảng làm chuẩn mực chính trị để xem xét nội dung văn bản.
– Nội dung vàn bản pháp luật phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản pháp luật: Yêu cầu này đặt ra nhằm bảo đảm tính khả thi của văn bản pháp luật sau khi được ban hành. Để đáp ứng được yêu cầu này, ngay trong quá trình ban hành văn bản pháp luật, cơ quan soạn thảo phải tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức xã hội, công dân cho dự thảo văn bản. Đây là thủ tục bắt buộc khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, đồng thời là hình thức thể hiện tính dân chủ trong quá trình ban hành văn bản pháp luật; thu hút trí tuệ tập thể đóng góp vào dự thảo văn bản làm cho văn bản sau khi được ban hành sẽ có nội dung phù hợp với đối tượng thi hành của chính văn bản đó.
2. Tiêu chí về tính hợp hiến, hợp pháp
Văn bản pháp luật được ban hành có chất lượng không chỉ đáp ứng tiêu chuẩn về chính trị mà còn bảo đảm cả tính hợp hiến và hợp pháp.
– Nội dung văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp: Tính hợp hiến đòi hỏi mọi văn bản pháp luật đều phải phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất theo trật tự thứ bậc, hiệu lực pháp lý của văn bản pháp luật, tạo thành hệ thống thống nhất. Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định:
‘‘Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp… ”.
Đe bảo đảm nguyên tắc Hiến pháp là luật cơ bản, có tính pháp lý cao nhất, các chủ thể cỏ thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật phải bảo đảm cho văn bản đó phù hợp với Hiến pháp. Tính hợp hiến của văn bản pháp luật được biểu hiện:
Thứ nhất, nội dung văn bản pháp luật phù hợp với các quy định cụ thể của Hiến pháp. Để bảo đảm nội dung văn bản pháp luật phù hợp với các quy định của Hiến pháp, cơ quan soạn thảo văn bản phải nắm rõ và hiểu đúng các quy định cụ thể của Hiến pháp liên quan tới nội dung văn bản pháp luật.
Thứ hai, văn bản pháp luật phải phù hợp với nguyên tắc cơ bản và tinh thần của Hiến pháp. Đây là vấn đề khó xác định khi ban hành văn bản pháp luật. Thực tế ban hành văn bản chỉ càn không hái với các quy định của Hiến pháp thì chưa đủ mà phải xác định mục đích và những nguyên tắc cơ bản của văn bản pháp luật phù hợp với phần “hồn” hoặc “tinh thần” của Hiến pháp.
– Văn bản pháp luật phải hợp pháp: Tính hợp pháp được hiểu là đúng với pháp luật, không hái với pháp luật. Theo nghĩa như vậy, để bảo đảm tính hợp pháp, văn bản pháp luật được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định; có nội dung phù hợp với quy định của Nhà nước; đúng thể thức và kĩ thuật hình bày văn bản. Tính hợp pháp của văn bản pháp luật là một hong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng văn bản pháp luật được ban hành, quyết định sự tồn tại và hiệu lực pháp lý của văn bản pháp luật. Văn bản pháp luật họp pháp khi hội tụ đủ những dấu hiệu sau:
Thứ nhất, văn bản pháp luật được ban hành đúng thẩm quyền:
Thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật được hiểu là giới hạn quyền lực do pháp luật quy định cho chủ thể ban hành văn bản pháp luật để giải quyết những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật bao gồm thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung.
Thẩm quyền hình thức được hiểu là các chủ thể ban hành văn bản pháp luật đúng tên gọi do pháp luật quy định. Theo quy định này, mỗi cá nhân, cơ quan trong thẩm quyền của mình chỉ được ban hành một hoặc một số hình thức văn bản pháp luật do luật quy định. Đây chính là quy định nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật, đồng thời bảo đảm duy trì tính hợp pháp của văn bản pháp luật về mặt hình thức. Thẩm quyền về hình thức của các chủ thể trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật được quy định trong Hiến pháp năm 2013; các luật tổ chức về bộ máy nhà nước; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 như: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Kiểm toán nhà nước; nghị quyết của hội đồng nhân dân, quyết định của uỷ ban nhân dân… Ngoài ra, thẩm quyền hình thức của các chủ thể còn được quy định trong các đạo luật về tổ chức bộ máy; các luật, pháp lệnh điều chỉnh từng lĩnh vực chuyên môn… Theo các quy định trên, có thể thấy số lượng chủ thể được pháp luật xác định tên loại văn bản được ban hành theo thẩm quyền là tương đối rộng. Điều này có ý nghĩa buộc các chủ thể phải tuân thủ và bảo đảm cho văn bản ban hành được hợp pháp về mặt hình thức. Một khi các chủ thể vi phạm yêu cầu này cũng có nghĩa là văn bản pháp luật ban hành không hợp pháp về hình thức theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền nội dung là giới hạn quyền lực của các chủ thể trong quá trình giải quyết công việc do pháp luật quy định, về thực chất, đó là chủ thể ban hành văn bản pháp luật giải quyết cồng việc phát sinh thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định. Trên thực tế, thẩm quyền này được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, các luật về tổ chức (Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019; Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019…). Ngoài ra, thẩm quyền của các chủ thể được quy định trong các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước…
Thứ hai, văn bản pháp luật được ban hành đúng căn cứ pháp lý
Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật, cơ sở pháp lý là những chuẩn mực pháp luật được quy định trong các văn bản liên quan, mà theo đó văn bản được ban hành hợp pháp. Thông thường, văn bản được lựa chọn là cơ sở pháp lý bảo đảm tính hợp pháp của văn bản pháp luật là văn bản quy định trực tiếp về thẩm quyền của chủ thể ban hành văn bản, các văn bản chứa đựng quy định có liên quan trực tiếp đến nội dung văn bản pháp luật đang soạn thảo. Hơn nữa, thông thường văn bản được xác định là cơ sở pháp lý phải là văn bản đang có hiệu lực pháp lý tại thời điểm ban hành văn bản.
Hiện nay, thẩm quyền của các chủ thể trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật được quy định tại nhiều văn bản khác nhau. Muốn xác lập một cách chính xác cơ sở pháp lý của văn bản pháp luật, trước hết cần xác định nội dung công việc đó thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào. Để làm được điều này, chủ thể ban hành văn bản phải hiểu được các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước nói chung và của cơ quan ban hành văn bản pháp luật nói riêng.
Thứ ba, văn bản pháp luật có nội dung hợp pháp:
Khi xem xét tính hợp pháp về nội dung của văn bản pháp luật, bên cạnh việc tôn trọng các quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật phải bảo đảm tuân thủ “thứ bậc hiệu lực” của văn bản trong hệ thống pháp luật. Trước hết, nội dung hợp pháp thể hiện: Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành; văn bản áp dụng pháp luật có nội dung phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, yêu cầu này còn được đặt ra theo nguyên tắc văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp hơn phải phù hợp với văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn. Chẳng hạn, để đánh giá tính hợp pháp văn bản pháp luật của Chính phủ cần xem xét và đặt văn bản đó trong mối liên hệ với các văn bản pháp luật khác đã ban hành trước đó của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và một số văn bản khác có liên quan. Trong trường họp ngược lại, nếu nội dung văn bản pháp luật ban hành không phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn thì văn bản đó không phát sinh hiệu lực pháp lý trên thực tế và không họp pháp.
Về phương diện khác, tính họp pháp của văn bản pháp luật còn được đánh giá theo nguyên tắc “văn bản của địa phương ban hành phải phù hợp và thống nhất với văn bản do trung ương ban hành”. Nguyên tắc này phản ánh sự phân chia quyền lực trong hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, đồng thời tạo ra sự đồng bộ, thống nhất của hệ thong pháp luật. Như vậy, trong công tác ban hành văn bản pháp luật của chính quyền địa phương một đòi hỏi đặt ra là phải bảo đảm tính hợp pháp trong sự phù hợp với các văn bản khác do cơ quan trung ương ban hành. Chẳng hạn, khi đánh giá nội dung họp pháp của văn bản pháp luật do uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành, cần xem xét nội dung văn bản đó trong mối liên hệ với các văn bản đã ban hành của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ… để bảo đảm sự phù hợp và thống nhất về các vấn đề nội dung và hiệu lực pháp lý của văn bản.
Một điểm quan trọng nữa để bảo đảm tính hợp pháp về nội dung cho văn bản pháp luật, đặc biệt với văn bản quy phạm pháp luật là phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập. Theo đó, các chủ thể khi ban hành văn bản pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật nói riêng phải tìm hiểu, nghiên cứu các điều ước quốc tế để chuyển hoá cho phù hợp.
Thứ tư, văn bản pháp luật phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thủ tục xây dựng, ban hành cũng như quản lý văn bản
Văn bản pháp luật là nhóm văn bản có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước cũng như quản lý xã hội. Do vậy, yêu cầu bảo đảm sự chặt chẽ, thống nhất trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật là rất cần thiết. Với văn bản quy phạm pháp luật, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật gồm: lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; soạn thảo; thẩm định; lấy ý kiến đóng góp; thẩm tra; xem xét, thông qua; công bố văn bản quy phạm pháp luật. Việc tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền theo luật định vừa là điều kiện để bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, một nguyên tắc cơ bản trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, vừa góp phần nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được soạn thảo. Còn với văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính thủ tục ban hành trải qua những bước như: xác định vấn đề giải quyết, lựa chọn thẩm quyền giải quyết, lựa chọn quy phạm pháp luật để vận dụng, soạn thảo, trình, thông qua, kí, ban hành.
Thứ năm, văn bản pháp luật ban hành tuân thủ đúng những quy định của pháp luật về thể thức, kĩ thuật trình bày
Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật, những quy định về thể thức và kĩ thuật trình bày đóng vai trò khá quan trọng. Thể thức là tập hợp các thành phần cấu thành thể thức văn bản như: quốc hiệu; tiêu ngữ; tên cơ quan ban hành văn bản; số, kí hiệu văn bản; tên loại vãn bản; trích yếu nội dung; chữ kí; nơi nhận, sao văn bản. Hiện nay, thể thức và kĩ thuật trình bày vãn bản pháp luật được quy định trong Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 15/4/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP; Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ quy định về công tác văn thư.
Để văn bản pháp luật ban hành bảo đảm tính họp pháp, chủ thể có thẩm quyền khi ban hành văn bản cần chú ý cách thức trình bày theo quy định của pháp luật. Đồng thời, văn bản còn phải được trình bày theo bố cục, kết cấu phù hợp với hình thức và nội dung văn bản cần ban hành.
3. Tiêu chí về tính hợp lý
3.1. Văn bản pháp luật có nội dung phù hợp với thực tiễn
Văn bản pháp luật được ban hành có nội dung phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và đem lại hiệu quả tác động là mong muốn của cơ quan ban hành. Nội dung của văn bản pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội sẽ bảo đảm tính khả thi cho văn bản đó. Xem xét tính hợp lý của văn bản pháp luật khi có nội dung phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội luôn cần thiết trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản pháp luật.
Văn bản pháp luật là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật, là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng nên luôn có mối quan hệ biện chứng với điều kiện kinh tế – xã hội đang tồn tại khách quan. Nội dung văn bản pháp luật được coi là phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội khi được xem xét cụ thể ở những khía cạnh như phù hợp với kinh tế, văn hoá, đạo đức, phong tục và tập quán tốt đẹp của dân tộc.
Trước hết, nội dung văn bản pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật với kinh tế. Theo đó, kinh tế giữ vai trò quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển cũng như quyết định về nội dung và hình thức của pháp luật. Mọi sự thay đổi của nền kinh tế sớm hay muộn đều dẫn đến sự thay đổi tương ứng đối với pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với kinh tế. Pháp luật luôn có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của kinh tế. Bằng việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh mối quan hệ trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước quản lý và tác động làm cho kinh tế vận hành theo đúng mục đích mà Nhà nước đặt ra. Sự ảnh hưởng của pháp luật đối với kinh tế có thể biểu hiện theo hai xu hướng hoặc là thúc đẩy sự phát triển kinh tế nếu pháp luật phản ánh đúng, đầy đủ và kịp thời tình hình kinh tế của đất nước hoặc sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế nếu pháp luật phản ánh không phù hợp. Do vậy, khi đánh giá tính hợp lý của văn bản pháp luật, cơ quan ban hành văn bản cần xem xét sự phù hợp của nội dung văn bản pháp luật đó với các quy luật, yêu cầu phát triển nền kinh tế của đất nước nói chung và nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ cụ thể trên từng lĩnh vực kinh tế nói riêng.
Ngoài ra, văn bản pháp luật có nội dung phù hợp với các quy phạm xã hội khác. Tính hợp lý của văn bản pháp luật còn được biểu hiện thông qua mối quan hệ giữa nội dung văn bản pháp luật với đạo đức, phong tục, tập quán tiến bộ. Mặc dù pháp luật là công cụ không thể thiếu để quản lý xã hội và có vai trò quan trọng đem lại hiệu quả quản lý cho Nhà nước nhung lại không phải là công cụ duy nhất. Song song cùng tồn tại với pháp luật, các quy phạm xã hội khác trong đó có đạo đức, phong tục, tập quán cũng có vai trò điều chỉnh quan hệ xã hội. Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với chân, thiện, mĩ, để rèn luyện, tu dưỡng nhân cách. Phong tục, tập quán là quy tắc xử sự hình thành tự phát từ cộng đồng dân cư, được bảo đảm thực hiện bằng dư luận xã hội. Pháp luật và đạo đức, phong tục, tập quán cũng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Pháp luật góp phần giữ gìn và phát huy những chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán tiến bộ, tốt đẹp của dân tộc. Nhiều quy tắc đạo đức đã được luật hoá để bảo vệ, giữ gìn truyền thống, tránh sự xuống cấp về đạo đức. Đối với những quan niệm, quy tắc đạo đức cũ, lạc hậu, những phong tục, tập quán cổ hủ, trái với sự tiến bộ của xã hội sẽ dần dần bị loại trừ. Như vậy, nếu pháp luật phù hợp với chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán tiến bộ thì pháp luật dễ đi vào cuộc sống và có tính khả thi, còn ngược lại pháp luật không phù hợp với những giá trị chuẩn mực đạo đức thì pháp luật khó được thi hành.
3.2. Văn bản pháp luật bảo đảm về kĩ thuật trình bày
Kĩ thuật trình bày được hiểu là những yếu tố mang tính kĩ năng, nghiệp vụ chuyên môn trong quá trình soạn thảo văn bản, thông thường biểu hiện thông qua hai yếu tố sau:
+ Sử dụng đúng quy tắc ngôn ngữ (tiếng Việt)
Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng giúp chủ thể ban hành văn bản truyền tải toàn bộ ý tưởng tạo thành những quy định pháp luật. Vì vậy, ngôn ngữ sẽ tham gia vào tất cả các công đoạn trong quá trình ban hành văn bản đồng thời là yếu tố có ảnh hưởng lớn tới chất lượng nội dung của mỗi văn bản sau khi được ban hành. Văn bản được coi là có kĩ thuật lập pháp bảo đảm khi đáp ứng được những yêu cầu về sử dụng ngôn ngữ như: ngôn ngữ trong văn bản của Nhà nước là ngôn ngữ viết, là tiếng Việt và được Nhà nước sử dụng. Ngôn ngữ trong văn bản của Nhà nước là tiếng Việt nhưng có sự chuẩn mực cao hơn tiếng Việt thông dụng thể hiện thông qua bốn yêu cầu: bảo đảm tính nghiêm túc, chính xác, phổ thông dễ hiểu và thống nhất.
+ Phân chia, sắp xếp nội dung văn bản logic, chặt chẽ
Tính hợp lý của văn bản pháp luật còn được thể hiện thông qua kĩ thuật phân chia, sắp xếp nội dung văn bản logic, chặt chẽ với những cách thức sau:
– Nội dung khái quát được trình bày trước nội dung cụ thể; nội dung phổ biến được trình bày trước nội dung ngoại lệ, đặc thù;
– Nội dung quan trọng được trình bày trước nội dung ít quan trọng;
– Quy định về quyền, nghĩa vụ được trình bày trước quy định về trình tự, thủ tục thực hiện;
– Thủ tục diễn ra trước được trình bày trước, thủ tục diễn ra sau được trình bày sau (theo trình tự diễn biến của vấn đề).
4. Yêu cầu về tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Nhận thức sâu sắc về vai trò của pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam hội nhập với thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định:
“Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.
Chính vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang bộc lộ những khiếm khuyết, trong đó có vấn đề thiếu tính thống nhất trong pháp luật.
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật khoa học, đồng bộ và thống nhất. Để có hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu trên cần phải chú trọng hoạt động xây dựng pháp luật.
“Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân”.
Ngay từ giai đoạn soạn thảo, ban hành VBQPPL, mà trước hết là các đạo luật, pháp lệnh, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án, dự thảo VBQPPL phải được bảo đảm. Đây phải được coi là một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình lập pháp, lập quy. Bởi lẽ, việc chỉnh lý những sai sót, những mâu thuẫn của các dự án, dự thảo đang trong giai đoạn soạn thảo sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật sẽ hạn chế tối đa khả năng gây thiệt hại cho Nhà nước và xã hội, xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân do việc cho ra đời những VBQPPL mâu thuẫn, trái hiến pháp, pháp luật.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.