1. Vai trò của pháp luật đối với xã hội
Ngày nay, pháp luật không chỉ được nhìn nhận là của “riêng” nhà nước, công cụ để nhà nước tổ chức và quản lí xã hội, ngược lại, pháp luật đã trở thành “tài sản” chung của toàn xã hội, một loại quy tắc ứng xử đặc biệt quan trọng trong đời sống chung, yếu tố thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày. Đối với đời sống xã hội, pháp luật có những vai trò nổi bật sau đây:
Pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội
Pháp luật không sinh ra các quan hệ xã hội, nhưng pháp luật được xem như một phương thức hữu hiệu để điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội. Có thể nói, nếu coi cuộc sống như một dòng chảy tự nhiên, thì pháp luật được xem như hai bờ của dòng chảy đó, bờ có vai trò định hướng dòng chảy, làm cho sự chảy đó không tràn lan, tùy tiện mà theo một dòng nhất định, không có bờ, nước vẫn chảy, nhưng không theo dòng. Tất nhiên, bờ phải đi theo dòng chảy, “lựa” theo dòng chảy, bờ không thể bắt dòng chảy trái quy luật. Do vậy, vai trò định hướng của pháp luật phải trên cơ sở quy luật vận động, phát triển khách quan của các quan hệ xã hội.
Pháp luật như là “hành lang”, “đường biên” cho ứng xử của con người, nó nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ nhất định. Nhờ có pháp luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ đó có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thể. Qua đó, pháp luật củng cố và tàng cường các xu hướng phát triển tích cực của các quan hệ xã hội, ngăn ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực, đảm bảo sự phát triển của xã hội phù họp với quy luật khách quan. Pháp luật ghi nhận sự tồn tại của các quan hệ xã hội phù hợp với mục đích, định hướng của nhà nước, tạo lập môi trường pháp lí thuận lợi cho sự phát triển và bảo vệ sự tồn tại của những quan hệ xã hội đó. Ngược lại, pháp luật hạn chế và loại bỏ những quan hệ xã hội lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của đời sống, trái với mục đích, định hướng của nhà nước.
Đặc biệt trong bối cảnh có sự thay đổi lớn của đời sống xã hội, vai trò của pháp luật càng được thể hiện rõ. Sau mỗi cuộc cách mạng xã hội, kể cả các cuộc cải cách, những yếu tố mới được xác lập thường gặp phải sự chống đối, sức ỳ và lực cản từ nhiều phía, ngược lại, những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp nhưng chưa hoàn toàn mất hẳn. Trong những điều kiện đó, “Luật pháp được xem như một phương thức hữu hiệu đế điều tiết các trạng thái xã hội và các quan hệ nảy sinh từ chỉnh các biến đổi xã hội quan trọng đó” Bằng pháp luật, những yếu tố mới, tích cực, tiến bộ sẽ được khẳng định, nhờ đó sự tồn tại của chúng trở nên chính thức và chắc chắn, không thể đảo ngược. Có thể nói, mọi chủ trương cải cách, đổi mới nếu không được bảo đảm bởi pháp luật thì khó có thể thành công. “Trong lịch sử nhân loại, các cuộc cải cách đã thất bại bởi một trong những nguyên nhân là người ta đã đặt các cải cách xã hội tách biệt với luật pháp ”.
Pháp luật là cơ sở để bảo đảm an toàn xã hội
An toàn xã hội là tình trạng của đời sống xã hội, trong đó con người được yên ổn trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động, học tập, nghỉ ngơi, tính mạng, sức khỏe, tài sản, bí mật đời tư, danh dự, uy tín… không bị xâm hại. An toàn xã hội được thể hiện trên nhiều mặt, an toàn trong sản xuất, trong giao thông, trong sinh hoạt hàng ngày, an toàn trong các giao dịch xã hội… An toàn luôn là vấn đề có ý nghĩa trong mọi xã hội, đó là tiền đề, đồng thời cũng là động lực và mục tiêu của cuộc sống. Tuy nhiên, “an toàn xã hội luôn có nguy cơ bị phá vở hoặc bị xâm hại từ nhiều phía mà nguyên nhân chủ yếu là lòng tham và sự kém hiểu biết cũng như thái độ ứng xử của con người đối với môi trường xung quanh, điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội… Nhờ sự tác động mạnh mẽ, nhiều mặt của pháp luật mà an toàn xã hội được bảo đảm, tính mạng, tài sản, danh dự, uy tín… của con người được bảo vệ. Cùng với việc xác định cách thức xử sự cho các chủ thể, pháp luật nghiêm trị những hành vi gây mất an toàn cho cuộc sống. “Phàm hình pháp là cái gốc của thiên hạ, ngẫn cẩm điều bạo ngược, ghét bỏ điều ác là để răn những điều chưa xảy ra”. Nhờ có pháp luật, người dân trở nên vững tâm hơn, họ tin tưởng cái ác sẽ bị trừng trị, an toàn sẽ được bảo đảm: “luật pháp nói chung không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi con người, giúp họ giải quyết có hiệu quả các công việc thực tiễn mà còn tạo lập cho họ niềm tin về “an ninh” của chính mình”. Bằng pháp luật, nhà nước thể chế hoá những tiêu chuẩn an toàn kĩ thuật, đề ra những biện pháp đảm bảo an toàn, giáo dục con người ý thức tự bảo vệ minh… Pháp luật còn có sự tác động mạnh mẽ đến các mặt của đời sống xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, cải thiện điều kiện vật chất kĩ thuật của xã hội.
Pháp luật là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong xã hội
Có thể nói, các quy định trong hệ thống pháp luật được xem như là kết quả của quá trình “chọn lọc, đào thải” một cách tự nhiên các cách xử sự trong xã hội. Trải qua bao biến cố xã hội, bỏ qua và vượt lên những yếu tố ngẫu nhiên, không hợp lí, pháp luật tồn tại như những cách xử sự phổ biến, hợp lí, khách quan. Chính vì vậy, pháp luật được xem như một loại chuẩn mực công cộng được thừa nhận rộng rãi nhất trong toàn xã hội. Với ưu thế đó, pháp luật là chuẩn mực chung, có hiệu quả nhất để các cá nhân, tổ chức trong xã hội tự giải quyết các tranh chấp trong đời sống.
Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người
Quyền con người là khả năng con người được tự do lựa chọn hành động, tự do lựa chọn cách thức và mức độ thể hiện thái độ cũng như hành động theo ý mình, không bị hạn chế, ràng buộc, cấm đoán một cách vô lí. Ngày nay, quyền con người đã trở thành một giá trị chung được toàn thế giới công nhận. Trong lịch sử, cùng với sự phân chia giai cấp thì sự áp bức giai cấp cũng xuất hiện, các quyền con người bị xâm phạm, bị chà đạp. Từ đó cho đến nay, vấn đề tái lập sự bình đẳng trong xã hội, bảo đảm, bảo vệ các quyền, tự do, dân chủ của con người luôn là nhu cầu, khát vọng mạnh mẽ của nhân loại bị áp bức. Có thể nói, lịch sử loài người từ khi xã hội phân chia thành các giai cấp là lịch sử đấu tranh nhằm giải phóng con người, vươn tới tự do, đòi quyền làm chủ.
Tuy nhiên, chỉ trong điều kiện xã hội dân chủ, pháp luật mới thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do, dân chủ của con người. Vai trò quan trọng này của pháp luật thể hiện trước hết ở việc pháp luật ghi nhận các quyền, tự do, dân chủ của con người, cần lưu ý rằng, sự quy định trong pháp luật chỉ là sự thừa nhận chính thức của nhà nước về các quyền vốn có của con người. Pháp luật quy định trách nhiệm của nhà nước cũng như toàn xã hội trong việc bảo đảm cho các quyền con người được hiện thực hoá. Đồng thời, pháp luật quy định các biện pháp nhằm bảo vệ quyền con người khỏi bị xâm hại.
Quyền con người, tự do cá nhân cũng cần phải có điểm dừng, nó không thể được hiểu là được làm tất cả hay muốn làm gì thì làm. Tự do “chỉ có thể là được làm những cải nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm “Nếu một công dãn làm điều trái luật thì anh ta không còn tự do nữa vì nếu đế anh ta tự do làm thì mọi người đều được làm trái luật cả “. Lênin đã khẳng định, sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể được. Chính vì vậy, quyền, tự do cá nhân luôn phải được đặt trong sự tôn trọng quyền, tự do của người khác, tôn trọng và tuân thủ những quy tắc chung của cộng đồng, mỗi người vừa tôn họng cái chung, vừa có điều kiện để tự do hành động nhằm đáp ứng lợi ích riêng của mình. Nói cách khác, quyền tự do của mỗi người phải bị giới hạn bởi quyền tự do của người khác. Pháp luật là phương tiện để mỗi cá nhân phải ràng buộc đối với cá nhân khác và xã hội. Một mặt cá nhân được làm tất cả trừ những việc bị pháp luật cấm, mặt khác, họ không được làm những gì có hại cho người khác, cho cộng đồng. Đồng thời, quyền, tự do, dân chủ của cá nhân phải luôn đi kèm với nghĩa vụ.
Pháp luật là phương tiện bảo đảm dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội
Dân chủ, công bằng, bình đẳng là những giá trị của nhân loại. Dân chủ được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Trên bình diện chung nhất, dân chủ có nghĩa là người dân là chủ, người dân làm chủ, làm chủ chính bản thân mình và làm chủ xã hội trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Mỗi người được tự quyết định vận mệnh của chính mình, đồng thời tham gia quyết định những vấn đề chung của xã hội. Công bằng, bình đẳng không phải là những khái niệm bất di bất dịch, nó mang tính tương đối và phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hai khái niệm này có nội hàm gần gũi nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Khi nói tới bình đẳng xã hội, người ta muốn nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xã hội nào đấy, chẳng hạn về kinh tế chính trị, văn hoá… Trong khi đó, công bằng xã hội chỉ là một dạng của bình đẳng xã hội, đó là sự ngang bằng nhau trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa công – tội và thưởng – phạt.. theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, có công được thưởng, có tội phải bị trừng phạt, tội càng nặng mức phạt càng nặng. Nói cách khác, bình đẳng là ngang bằng nhau về địa vị xã hội, công bằng là được đối xử ngang bằng nhau, không có sự thiên vị trong phân phối, ttong khen thưởng, xử phạt… Tiến bộ xã hội được hiểu là sự vận động, biến đổi của xã hội theo chiều hướng đi lên, trở nên tốt hơn trước. Tiến bộ xã hội có nội dung toàn diện, bao quát trên cả phương diện vật chất và tinh thần của xã hội, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tư tưởng, khoa học kĩ thuật…
Pháp luật của các nhà nước hiện đại có vai trò to lớn trong việc bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội. Pháp luật quy định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lí nhà nước và xã hội, thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước, quy định trách nhiệm của nhà nước trước nhân dân… Pháp luật chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về nguồn gốc xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, dân tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị, tài sản… Pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người. Bằng pháp luật, nguyên tắc phân phối theo lao động, theo mức vốn và các nguồn lực khác góp vào sản xuất kinh doanh, theo mức độ cống hiến đối với xã hội được bảo đảm. Pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các giai tầng xã hội, nhất là những người ở vị thế xã hội yếu hơn. Thông qua pháp luật, người có công thì được thưởng, kẻ có tội phải bị trừng phạt, công càng lớn, thưởng càng lớn, tội càng lớn, phạt càng nặng.
Pháp luật là công cụ quan trọng để ghi nhận và bảo vệ cái mới, tích cực, tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của con người ngày càng được nâng cao, có điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện, các giá trị con người ngày càng được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ.
Pháp luật đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội
Bất cứ xã hội nào cũng luôn cần có ổn định để tồn tại và phát triển, hơn nữa, sự phát triển phải có tính chất liên tục và vững chắc trên tất cả các mặt, đảm bảo có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không phương hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Nói một cách cụ thể, sự phát triển của xã hội phải bao hàm trong đó tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền tiết kiệm tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường, công bằng xã hội được bảo đảm, truyền thống tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn và phát huy.
Trong điều kiện ngày nay, đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội là vấn đề rất cấp bách, đòi hỏi toàn xã hội phải chung tay thực hiện, trong đó pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Pháp luật đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra những tiền đề quan ừọng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Pháp luật tạo ra cơ chế thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ, qua đó thúc đẩy sự phát triển toàn diện các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội… Pháp luật góp phần ngăn ngừa những hiện tượng dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội, đồng thời, nó cũng góp phần quan trọng trong việc khắc phục khủng hoảng, đảm bảo sự phát triển liên tục, kéo dài của nền kinh tế. Pháp luật quy định các biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường, khai thác và sử dụng hợp lí, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Nhờ có pháp luật mà sự phát triển kinh tế đã được kết hợp chặt chẽ với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Pháp luật góp phần bảo tồn và phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc không chỉ cho hôm nay mà còn cho mai sau.
Vai trò giáo dục của pháp luật
Đổ điều chỉnh hành vi con người, pháp luật phải tác động lên ý thức của họ. Thông qua đó, pháp luật nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng và làm thay đổi hành vi của các chủ thể trong xã hội.
Trước hết, pháp luật vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa là mục đích của nhận thức pháp luật. Với tính chất công khai của mình, một khi pháp luật đã được công bố, bắt buộc các thành viên trong xã hội phải nắm bắt được chúng. Mặt khác, chính yêu cầu của đời sống buộc con người phải có những trĩ thức nhất định về pháp luật. Đồng thời nhờ tham gia vào đời sống mà con người dần dần tích lũy được các tri thức pháp luật. Như vậy, chính hệ thống pháp luật thực định cũng như đời sống pháp lí thực tiễn là chất liệu cũng như nội dung của tri thức pháp lí. Thông qua các quy định trong pháp luật, thông qua việc tham gia vào các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh, thông qua giao tiếp… mọi người biết được như thế nào là hợp pháp, như thế nào là trái pháp luật…
Thứ hai, pháp luật giữ vai trò định hướng tư tưởng cho các thành viên trong xã hội. Pháp luật là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái độ tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, pháp luật thúc đẩy việc hình thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp. Pháp luật giáo dục ý thức công dân, làm hình thành ở mỗi người ý thức về trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với cộng đồng, công dân đối với đất nước.
Thứ ba, pháp luật định hướng hành vi của con người. Thông qua các quy định trong pháp luật, các chủ thể biết được quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của mình, từ đó có cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi một cách phù hợp. Pháp luật tạo cho mỗi chủ thể khả năng sử dụng những quyền đã được pháp luật quy định để phục vụ lợi ích của mình, nhưng đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ tương ứng để tôn trọng và bảo đảm quyền, lợi ích của chủ thể khác. Bằng việc quy định các biện pháp cưỡng chế, pháp luật tạo ra một “chướng ngại vật” có sức cản trở mạnh mẽ đối với những hành vi trái pháp luật. Đồng thời, bằng việc quy định những hình thức khen thưởng, pháp luật khuyến khích các chủ thể tích cực, chủ động, tự giác thực hiện những hành vi hợp pháp.
2. Vai trò của pháp luật đối với lực lượng cầm quyền
Pháp luật thể chế hoá chủ trương, đường lối, chỉnh sách của lực lượng cầm quyền
Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật. Do được đảm bảo bằng nhà nước nên pháp luật luôn được các lực lượng cầm quyền sử dụng như một công cụ để truyền tải các chủ trương chính sách của mình. Bằng pháp luật, các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của lực lượng cầm quyền nhanh chóng được truyền bá rộng rãi, công khai trên toàn xã hội. Thông qua pháp luật, các lực lượng cầm quyền áp đặt chủ trương, đường lối của mình đối với toàn xã hội, bắt toàn thể xã hội phải phục tùng các chủ trương, đường lối, chính sách do lực lượng đó đề ra. Nhờ có pháp luật, chủ trương, đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền mới dễ dàng đi vào đời sống, trở thành hiện thực trong đời sống. Như vậy, pháp luật vừa là một hình thức thể hiện đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền, vừa là một phương tiện quan trọng làm cho đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền đi vào đời sống, trở thành hiện thực trong đời sống. Có thể nói, pháp luật là công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền lực tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Chính vì vậy, các lực lượng chính trị trong xã hội luôn tìm cách giành lấy chính quyền để thông qua đó biến chủ trương, đường lối của mình thành pháp luật.
Pháp luật là vũ khỉ chính trị của lực lượng cầm quyền để chống lại sự phản kháng chổng đối trong xã hội
Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp luôn diễn ra dưới những hình thức, tính chất, mục tiêu khác nhau. Theo Lênin, “chính quyền là thiên đường”, vì vậy, các lực lượng đói lập luôn tìm đủ mọi cách giành chính quyền về tay mình. Trong điều kiện đó, pháp luật trở thành vũ khí chính trị sắc bén để bảo vệ địa vị cũng như tư tưởng, đường lối của lực lượng cầm quyền, chống lại sự phản kháng, chống đối của các lực lượng đối lập, thù địch. Thực tế cho thấy, các hành vi chống phá chính quyền, âm mưu lật đổ chính quyền thường bị coi là một trong những tội phạm nguy hiểm nhất, bị trừng trị nghiêm khắc nhất. Pháp luật ngăn cản việc truyền bá cũng như hạn chế sự ảnh hưởng của các hệ tư tưởng đối lập.
3. Vai trò của pháp luật đối với nhà nước
Trước hết, pháp luật tạo lập cơ sở pháp lí vững chắc cho sự tồn tại của nhà nước. Sự hợp pháp tạo ra cho chính quyền một sự “chính danh”, tạo ra thế và lực cho nhà nước, tạo cho nhà nước tư cách và khả năng quản lí và điều hành xã hội. Sự hợp pháp không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân nhà nước mà còn có ý nghĩa chi phối mạnh mẽ đối với cả những lực lượng chống đối nhà nước, nhiều khi nó còn có khả năng ngăn cản các âm mưu chính biến. Chính vì vậy, các chính quyền nhà nước cho dù được tạo nên bằng con đường nào thì sự tồn tại của nó đều cần đến một sự hợp pháp. Ngày nay, sau những cuộc đấu tranh giành chính quyền, lực lượng nào giành được chính quyền cũng luôn tìm cách họp pháp hoá sự tồn tại của chính quyền đó bằng cách tổ chức bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp và tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở của hiến pháp.
Pháp luật là công cụ bảo vệ nhà nước, bảo đảm an toàn cho các nhân viên nhà nước
Pháp luật là công cụ sắc bén để nhà nước tự bảo vệ mình, ngăn chặn các hành vi chống đối chính quyền, làm suy giảm uy tín và sức mạnh của chính quyền. Nhờ có pháp luật, nhà nước được bảo vệ an toàn, tính tôn nghiêm của chính quyền được nâng cao. Nhờ có pháp luật, các nhân viên nhà nước được sống, làm việc trong môi trường an toàn, tạo tiền đề để thực hiện tốt chức năng tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội.
Pháp luật là cơ sờ pháp lí cho tổ chức và hoạt động của bộ mảy nhà nước. Pháp luật quy định con đường hình thành, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước, xác lập mối quan hệ công tác trong nội bộ bộ máy nhà nước cũng như giữa các cơ quan, nhân viên nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong xã hội… Pháp luật thiết lập khuôn khổ cho hoạt động của bộ máy nhà nước, thiết lập hình thức, phương pháp, nguyên tắc, cách thức hoạt động của các cơ quan, nhân viên nhà nước. Nhờ có pháp luật, các cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình một cách dễ dàng, có hiệu quả. Nhờ có pháp luật, việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trở nên khoa học, đồng bộ, nhịp nhàng, tránh được sự chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ trống trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Pháp luật là cơ sở để xây dựng đội ngũ nhãn viên nhà nước “vừa hồng, vừa chuyên”.
Pháp luật xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi nhân viên nhà nước, thông qua pháp luật, mỗi người ý thức được nghĩa vụ, bổn phận của mình, xác định được những việc mình được làm, phải làm, nên làm… Nói cách khác, pháp luật là cơ sở trong việc giáo dục ý thức trách nhiệm, thái độ của đội ngũ nhân viên nhà nước trong quá trình thực thi công vụ. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, mỗi nhân viên nhà nước phải nỗ lực học tập và rèn luyện, nâng cao phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công việc trong cương vị được giao đảm trách.
Pháp luật là công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước
Thực tiễn đã chứng tỏ rằng, “nhà nước luôn luôn cỏ xu hướng lạm quyền”} “tham nhũng, độc tài, chuyên chế trở thành những bệnh chung của mọi xã hội có nhà nước”} Chính vì vậy, để bảo đảm quyền con người, bảo đảm tự do cá nhân đòi hỏi phải có sự giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, được thực hiện bằng nhiều công cụ, trong đó pháp luật là công cụ quan trọng bậc nhất. Pháp luật quy định việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, chế độ trách nhiệm của các cơ quan, nhân viên nhà nước, quy định các biện pháp chế tài đối với hành vi lạm quyền, tham nhũng… của các cơ quan, nhân viên công quyền. Pháp luật quy định cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, bao gồm cơ chế kiểm soát trong nội bộ bộ máy nhà nước và cơ chế kiểm soát của xã hội đối với bộ máy nhà nước.
Pháp luật là công cụ để nhà nước tổ chức và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội
Quản lí xã hội là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải được thực hiện trên cơ sở một hệ thống thể chế rõ ràng, minh bạch. Để quản lí xã hội, có nhiều công cụ khác nhau như pháp luật, đạo đức, phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo, quy định của các cộng đồng dân cư, của các tổ chức xã hội… Mỗi công cụ đều vừa có những mặt mạnh, vừa có những hạn chế nhất định, không có công cụ nào là vạn năng. Với những ưu thế vượt trội như tính quyền lực nhà nước (tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế), tính xác định về hình thức, tính quy phạm phổ biến…, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh chóng, đồng bộ, có hiệu quả và rộng khắp trên quy mô cả nước. Do vậy, pháp luật đã trở thành công cụ quan trọng, có hiệu quả nhất để nhà nước tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội. Thông qua pháp luật, nhà nước đề ra các kế hoạch và chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước, phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, đảm bảo an ninh, quốc phòng…, xác định địa vị pháp lí của các cá nhân, tổ chức xã hội, xác định hành lang, khuôn khổ pháp lí cho hoạt động của các chủ thể xã hội, xác định các biện pháp kiểm tra giám sát và xử lí những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội…
4. Vai trò của pháp luật đối với các công cụ điều chỉnh khác
Vai trò của pháp luật đối với các công cụ điều chỉnh khác tùy thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… của từng quốc gia trong từng giai đoạn phát triển của nó. Pháp luật có thể dung hợp trong nó những quy tắc nhất định trong các thể chế phi quan phương. Một khi đã được ghi nhận thành pháp luật, chúng ưở nên mang tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước, nhờ đó, chúng được thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để hơn. Mặt khác, sự ghi nhận thành pháp luật còn có tác dụng tạo điều kiện cho sự tồn tại, giữ gìn và phát huy vai trò của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ở khía cạnh khác, pháp luật có thể loại trừ khỏi đời sống những quy định trong các thể chế phi quan phương có nội dung trái pháp luật. Tất nhiên, pháp luật phải phù hợp với cuộc sống, đạo lí cũng như thuần phong, mĩ tục của dân tộc.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.