1. Bảo đảm tính nghiêm túc, khách quan
Tính nghiêm túc, khách quan của ngôn ngữ văn bản pháp luật được hiểu là việc sử dụng ngôn ngữ trong văn bản phải trang trọng, lịch sự, phi cá tính; vừa thể hiện rõ sự uy nghiêm của pháp luật đồng thời thể hiện sự tôn trọng đối với các đối tượng chịu sự tác động của văn bản.
Ban hành văn bản là hình thức pháp lý quan trọng để các chủ thể quản lý thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình tiến hành hoạt động quản lý. Văn bản pháp luật không phải tiếng nói riêng của cá nhân nào mặc dù các văn bản có thể giao cho một hoặc một số cá nhân soạn thảo. Văn bản pháp luật thể hiện ý chí của một cơ quan, tổ chức, nhân danh Nhà nước nhằm giải quyết các việc công nên ngôn ngữ trong văn bản phải bảo đảm tính nghiêm túc, khách quan. Điều này thể hiện được quyền uy của chủ thể quản lý và tính văn minh, lịch sự của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nếu ngôn ngữ trong văn bản pháp luật thiếu tính nghiêm túc sẽ ảnh hưởng lớn đến sự trang nghiêm, uy quyền của người ban hành văn bản. Sự thiếu nghiêm túc của ngôn ngữ văn bản pháp luật còn tạo ra tâm lý coi thường Nhà nước, coi thường pháp luật, đồng thời có thể ảnh hưởng tới tính chính xác của văn bản. Ngược lại, nếu ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản pháp luật bảo đảm tính nghiêm túc, lịch sự sẽ tạo ra sự thiện chí và sự tự giác thực hiện ở người tiếp thu văn bản, nhờ đó pháp luật được tôn trọng.
Yêu cầu bảo đảm tính nghiêm túc, khách quan được biểu hiện ở tất cả các đơn vị ngôn ngữ trong văn bản. Việc sử dụng các từ khẩu ngữ, tiếng lóng (như “xin đểu”, “xe dù”, “bến cóc”, “bảo kê”, “com đen”, “hàng trắng”…), từ thô tục, thể hiện thái độ thiếu nhã nhặn, châm biếm, miệt thị (chẳng hạn gọi bị cáo là y, thị, hắn…) hoặc các từ ngữ bộc lộ tình cảm, quan điểm cá nhân của người soạn thảo không phù hợp với văn phong hành chính – công vụ. Văn bản pháp luật cũng cần tránh lối hành văn tả cảnh, văn vần hay cách diễn đạt hình tượng với những biện pháp tu từ như trong văn chương (chẳng hạn: “cần phải huỷ bỏ lệnh “cấm chợ ngăn sông” hoặc “cần nhanh chóng đẩy nước về sông để chấm dứt đợt úng lụt, cứu vãn mùa màng, ổn định đời sống nhân dân trong huyện”); không dùng các kiểu câu cảm thán, nghi vấn. Bởi lẽ, điều này ảnh hưởng lớn tới tính chính xác về mặt nghĩa của từ cũng như không bảo đảm tính nghiêm túc, lịch sự của văn bản quản lý nhà nước. Văn bản pháp luật cần sử dụng lối hành văn nghị luận khách quan, nghiêm túc.
2. Bảo đảm tính chính xác, rõ ràng
Tính chính xác, rõ ràng của ngôn ngữ trong văn bản pháp luật được hiểu là các đơn vị ngôn ngữ được sử dụng để truyền đạt thông tin trong văn bản phải bảo đảm thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý đồ của nhà quản lý để các nội dung trong văn bản được mọi đối tượng hiểu giống nhau, không cho phép có nhiều cách hiểu và cách giải thích khác nhau. Tính chính xác của ngôn ngữ văn bản pháp luật giúp cho việc thể hiện ý chí của Nhà nước được rõ ràng, tạo ra cho người tiếp nhận văn bản một cách hiểu chung, thống nhất về nội dung của văn bản.
Nếu ngôn ngữ trong văn bản pháp luật được sử dụng thiếu chính xác có thể làm cho văn bản tối nghĩa, dẫn đến tình trạng người tiếp nhận văn bản không hiểu, do vậy không biết được mình cần phải làm gì và làm như thế nào để đáp ứng yêu cầu của văn bản. Mặt khác, sự thiếu chính xác trong việc dùng từ, sự lủng củng, thiếu mạch lạc trong việc diễn đạt câu… trong văn bản pháp luật có thể tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một quy định; dẫn đến việc giải thích, áp dụng không thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bản và hiệu quả quản lý nhà nước. Việc sử dụng ngôn ngữ không chính xác khi soạn thảo văn bản pháp luật còn có thể tạo ra “kẽ hở” để các văn bản này bị lợi dụng. Có thể nói, không có lĩnh vực nào của đời sống xã hội mà việc sử dụng ngôn ngữ thiếu chính xác, diễn đạt thiếu mạch lạc, sự không ăn khóp giữa ngôn ngữ và ý tưởng lại có thể gây ra hậu quả trực tiếp và tai hại như trong lĩnh vực hành chính – pháp luật. Chính vì thế, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã quy định: “Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu ”. (Xem: Khoản 1 Điều 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015).
Để bảo đảm tính rõ ràng, chính xác của ngôn ngữ cần tránh sử dụng các từ nhiều nghĩa hoặc nghĩa không xác định, nên dùng các từ đom nghĩa. Mỗi từ trong văn bản pháp luật phải thể hiện chính xác nội dung cần truyền đạt và chỉ được hiểu theo một nghĩa duy nhất, không làm phát sinh nhiều cách hiểu. Cách viết câu, lập đoạn cũng phải bảo đảm sự ngắn gọn, rõ ràng, diễn đạt mạch lạc, dễ hiểu, sử dụng lối trình bày trực tiếp; tránh việc dùng các từ thừa hay lối nói vòng, ẩn dụ…
3. Bảo đảm tính phổ thông, thống nhất
Tính phổ thông (tính thông dụng) của ngôn ngữ văn bản pháp luật được hiểu là ngôn ngữ được sử dụng thường xuyên trên phạm vi toàn quốc.
Văn bản pháp luật được ban hành để tác động đến các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Trong khi đó, trình độ học vấn và nhận thức pháp luật giữa các vùng miền và dân tộc có sự khác nhau. Vì vậy, tính phổ thông của ngôn ngữ trong văn bản pháp luật sẽ giúp cho mọi người dễ dàng tiếp nhận được thông tin trong văn bản.
Văn bản pháp luật được ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, vì vậy ngôn ngữ của văn bản phải gần gũi với ngôn ngữ thông dụng trong nhân dân. Chỉ có bám sát ngôn ngữ phổ thông thì pháp luật mới có thể có tính chất đại chúng, dễ hiểu để mọi người dân đều có thể nắm bắt đầy đủ, đúng đắn nội dung văn bản, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện văn bản theo đúng yêu cầu của nhà quản lý.
Mặt khác, ngôn ngữ văn bản pháp luật phải có tính thống nhất. Việc sử dụng ngôn ngữ thông dụng trong văn bản pháp luật ở chừng mực nhất định đã mang lại tính thống nhất cho ngôn ngữ văn bản. Bên cạnh đó, yêu cầu về tính thống nhất của ngôn ngữ còn đòi hỏi các từ, thuật ngữ phải được sử dụng thống nhất trong từng văn bản riêng rẽ cũng như trong toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật và trên phạm vi toàn quốc. Đó là điều kiện cần thiết để giúp cho mọi người có thể hiểu và thực hiện pháp luật thống nhất. Ngôn ngữ văn bản không thống nhất thì nội dung văn bản cũng không được hiểu thống nhất và tất nhiên văn bản pháp luật cũng sẽ được thực hiện theo những cách khác nhau.
Để ngôn ngữ văn bản pháp luật bảo đảm tính thống nhất và thông dụng cần tránh sử dụng các từ ngữ địa phương (phương ngữ), từ cổ; không sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành hay từ nước ngoài trong những trường hợp không thật cần thiết; ưu tiên sử dụng các từ ngữ quen thuộc, phù hợp vói thời đại, dễ hiểu với các đối tượng chịu sự tác động của văn bản. Đồng thời, cần chú ý sử dụng các từ, thuật ngữ cho có sự thống nhất trong cùng một văn bản và trong cả hệ thống văn bản pháp luật, không nên dùng nhiều từ khác nhau để chỉ một khái niệm trong cùng một văn bản; cùng một thuật ngữ được sử dụng trong các văn bản pháp luật khác nhau phải được hiểu theo một nghĩa giống nhau. Mặt khác, khi trình bày nội dung văn bản pháp luật cũng cần chú ý diễn đạt đơn giản, phù hợp với tư duy thông thường của người đọc. Điều này bảo đảm cho văn bản pháp luật có một kết cấu chặt chẽ, thống nhất khiển người đọc dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu và như vậy đã đáp ứng được yêu cầu về tính phổ thông.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.