1. Các ảnh hưởng (tác động) mang tính phổ biến của môi trường
Tính phổ biến toàn cầu của vấn đề môi trường thể hiện ở các khía cạnh sau:
– Ảnh hưởng của những tác hại mà con người gây ra cho môi trường không chỉ giới hạn trong phạm vi vùng, thậm chí trong phạm vi quốc gia nơi xảy ra sự tàn phá môi trường. Các nước, các khu vực lân cận đều có thể bị ảnh hưởng bởi sự tàn phá môi trường diễn ra ở khu vực hay ở quốc gia lân cận. Ở Việt Nam, việc các khu rừng đầu nguồn bị tàn phá đã dẫn đến những cơn lũ quét gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho những nơi rừng bị phá mà cả những nơi khác. Nạn cháy rừng ở đảo Kalimantan của Indonesia không chỉ ảnh hưởng đến môi trường của đất nước này mà cả của các nước khác trong khu vực. Tác hại của môi trường cũng mang tính toàn cầu. Việc con người chặt phá rừng, thải các chất khí vào bầu khí quyển đã phá vỡ tầng ôzôn, gây nên nhiều biến động bất bình thường của thiên nhiên như hiện tượng Elnino.
– Việc tàn phá môi trường ảnh hưởng đến mọi xã hội bất chấp cơ cấu chính trị, kinh tế ở đó như thế nào. Không có bất cứ xã hội nàó được loại trừ khỏi sự trả thù của thiên nhiên, dẫu đó là quốc gia có tiềm lực kinh tế hùng mạnh như Hoa Kì hay quốc gia nghèo như Việt Nam, Lào hay Myanma. Tóm lại dù giàu hay nghèo, địa vị xã hội khác nhau hay giống nhau, dù được ữang bị những phương tiện tối tân để cải tạo thiên nhiên hay chỉ đang ở trong thời kì lạc hậu về kĩ thuật và công nghệ, con người đều phải đối mặt với những hiểm hoạ mà sự tàn phá môi trường mang lại.
– Sự xuất hiện của các định chế pháp lí quốc tế liên quan đến môi trường thể hiện rõ tính chất toàn cầu của vân đề môi trường. Những thập kỉ cuối của thế kỉ XX được đánh dấu bằng sự ra đời của hàng loạt các công ước quốc tế về môi trường và các tổ chức quốc tế về môi trường. Ngay cả trong các hiệp định về thành lập khu vực mậu dịch tự do cũng có các quy định cụ thể về môi trường. Chẳng hạn, ữong hiệp định về NAETA, trong các định chế của ASEAN đều chứa đựng nhiều biện pháp bảo vệ môi trường.
Vấn đề bảo vệ môi trường đã trở thành một trong các yểu tố của chính sách phát triển kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Điều kiện về bảo vệ môi trường là một trong những điều khoản của các hợp đồng liên doanh, đầu tư nước ngoài kí kết giữa các tổ chức kinh tế thuộc nhiều quốc gia khác nhau.
2. Khái niệm phát triển bền vững
Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union for Conservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của phát triển bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.
Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment and Development) của Liên hợp quốc định nghĩa “phát triển bền vững” là “phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Khái niệm phát triển bền vững của WCED chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá trình phát triển. Phát triển bền vững là mô hình chuyển đổi nhằm tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng, lợi ích trong tương lai (Goodian và Hecdue, 1988, GS. Grima Lino).
Phát triển bền vững vừa là nhu cầu cấp bách, vừa là xu thế tất yếu của tiến trình phát triển xã hội
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002: “Phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Khái niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”.
Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường.
Cho tới nay, khái niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được sự thống nhất chung. Mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục tiêu thiên niên kỷ.
3. Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững
Phát triển bền vững phải đồng thời đạt được 3 tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh, an toàn và chất lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế, trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.
Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản: Một là, giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết kiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường; Ba là, bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là, xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là, công nghệ sạch và sinh thái hóa công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng lượng đã sử dụng).
Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: (1) Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế. (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền vững về kinh tế. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững. (3) Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí như: Chỉ số phát triển con người (HDI – Human Development Index), hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số HDI là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.
Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được. Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính: Một là, ổn định dân số, phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị; Hai là, giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa; Ba là, nâng cao học vấn, xóa mù chữ; Bốn là, bảo vệ đa dạng văn hóa; Năm là, bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới; Sáu là, tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết định.
Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,… đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.
4. Nội dung phát triển bền vững về môi trường
Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản sau:
Một là, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo;
Hai là, phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái;
Ba là, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tầng ôzôn;
Bốn là, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính;
Năm là, bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm;
Sáu là, giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm…
5. Tại sao cần sự phát triển bền vững của môi trường ?
Phát triển bền vững là phạm trù được hình thành do nhu cầu của việc bảo vệ môi trường. Thực chất của phát triển bền vững là sự kết hợp giữa phát triển với việc duy trì môi trường hay nói cách khác là yếu tố cơ bản của phát triển bền vững là quyền phát triển và sự cần thiết phải chăm sóc môi trường. Mặc dù chưa có định nghĩa toàn diện và thống nhất về phát triển bền vững song về thực chất đó là mối liên kết không thể tách ròi giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Mối liên kết này được đề cập lần đầu tiên ưong Báo cáo Brundtland. Báo cáo này nhân mạnh: “Môi trường sinh thái và nền kinh tế ngày càng trở nên hoà quyện lẫn nhau xét cả ở cấp độ vùng, khu vực, quốc gia lẫn quốc tế”.
Mối liên kết này cũng được khẳng định ttong nguyên tắc thứ 13 của Tuyên bố Stockholm: “Nhằm đạt được việc quản lí tài nguyên hợp lí và tiến đến cải thiện môi trường, các nước cần phải chấp nhận cách tiếp cận tống hợp và phối hợp trong quy hoạch phát triển nhằm bảo đảm phát triển tương hợp với nhu cầu bảo vệ và cải thiện môi trường vì lợi ích của nhân dân các nước”
Trong Tuyên bố Rio de Janeừo, khái niệm phát triển bền vững được đề cập rõ nét và toàn diện hơn. Nguyên tắc thứ 4 của Tuyến bố này nêu rõ: “Đề thực hiện được sự phát triển bền vũng, sự bảo vệ môi trường nhất thiết sẽ là bộ phận cấu thành của quá trình phát triển và không thể xem xét tách rời quá trình đó”.
Phát triển bền vững được hiểu dưới nhiều khía cạnh và theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có cách hiểu phát triển bền vững bao gồm những khía cạnh xã hội và hoạch định chính sách và cũng có cách hiểu chỉ thuần tuý dưới góc độ môi trường. Chẳng hạn, trong những nghiên cứu của Brundtland, phát triển bền vững phải thoả mãn các yếu tố sau: Sự xoá bỏ nghèo đói và bóc lột; sự giữ gìn và tăng cường các nguồn tài nguyên mà chỉ với chúng mới có thể đảm bảo việc xoá nghèo được liên tục; phải bao gồm sự tăng trưởng cả kinh tế lẫn văn hoá xã hội; và sự thống nhất giữa môi trường sinh thái và kinh tế trong hoạch định chính sách. Chính phủ Canada tiếp cận phát triển bền vững theo ba tiêu chí mang tính định mục tiêu: Mục tiêu kinh tế là phải tạo ra được sản xuất hàng hoá và dịch vụ với nguyên tắc chi phối là hiệu quả; mục tiêu môi trường là gìn giữ và quản lí tốt các nguồn tài nguyên thiên nhiên với nguyên tắc chi phối là bảo vệ đa dạng sinh học và tính thống nhất của sinh thái; mục tiêu xã hội là gìn giữ và nâng cao chất lượng cuộc sống với nguyên tắc chi phối là công bàng.
Nhà nước Việt Nam có quan điểm thống nhất về phát triển bền vững là “phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đen khả năng đáp ứng nhu cầu đó cùa các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường” (khoản 4 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014).
Tuy có sự khác nhau về cách tiếp cận song về cơ bản các tiêu chí cùa phát triển bền vững được đưa ra tương đối thống nhất. Đó là: Sự phát triển kinh tế, sự bảo vệ môi trường và sự thoả mãn các yêu cầu cuộc sống con người.
Phát triển bền vững có những đòi hỏi riêng của nó về mặt tài chính, về mặt định chế và pháp luật. Tuỳ theo phạm vi, quốc gia hay quốc tế, phát triển bền vững sẽ đặt ra những đòi hỏi khác nhau trên các bình diện kể ttên. Trong phạm vi quốc gia, phát triển bền vững đòi hỏi được thể chế hoá dưới những hình thức sau:
– Quyết định chính sách và các cơ quan quyết định chính sách: Quyết định chính sách là bước quan trọng trong phát triển bền vững. Khả năng kết hợp giữa phát triển và bảo vệ môi trường phụ thuộc rất lớn việc ban hành các chính sách đúng đắn. Thực tế ở nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, nơi mà việc quyết định chính sách thường bị chi phối bởi một nhóm hoặc một cá nhân cho thấy ảnh hưởng to lớn của việc quyết định chính sách đối với phát triển bền vững. Gắn liền với việc ra chính sách là vị trí và thẩm quyền của cơ quan ban hành chính sách và quyết định. Việc xác định đúng vị trí, tạo ra được sự kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau giữa các hệ cơ quan quyền lực nhà nước cũng là yếu tố định chế quan trọng của phát triển bền vững. Các quyết định sẽ ít bị mang tính chất tham nhũng, ít bị chi phối bởi lọi ích cá nhân nếu như các cơ quan ban hành chúng được đặt dưới sự giám sát của cộng đồng hoặc các cơ quan nhà nước khác. Không chỉ ở các nước đang phát triển mà ngay ở các nước phát triển, việc hoàn thiện cơ quan quyết định chính sách cũng đang là vấn đề đáng quan tâm.
– Ban hành pháp luật và thực thi pháp luật: Pháp luật là công cụ đặc biệt quan ttọng để đảm bảo phát triển bền vững. Vai ttò, vị trí của pháp luật được xem xét trong phần tiếp theo của chương này.
– Giải quyết tranh chấp: Cơ chế giải quyết các tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho các quan hệ xã hội phát triển ổn định và các lợi ích hợp pháp được bảo vệ thoả đáng. Phát triển bền vững sẽ gặp khó khăn nếu như các quan hệ kinh tế xã hội không được điều tiết thích hợp thông qua nhiều biện pháp trong đó có việc giải quyết tranh chấp. Với tư cách là yếu tố định chế của phát triển bền vững, giải quyết tranh chấp cần được chú ý phát triển mạnh hơn nữa, đặc biệt ở nước ta và các nước đang phát triển khác.
– Hợp tác quốc tế: Tính toàn cầu và ảnh hưởng toàn cầu của môi trường đòi hỏi việc phải có nhiều hình thức hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển bền vững. Hai thập kỉ vừa qua đã chứng kiến nhiều bước phát triển của quá trình hợp tác quốc tế và những định chế pháp lí, tổ chức thích hợp. Các công ước quốc tế đa phương, các định chế tổ chức quốc tế đã được hình thành nhằm tạo ra sự phát triển bền vững toàn cầu. WTO, UNCSD, WCED là những ví dụ quan trọng của quá trình hợp tác quốc tế vì sự phát triển bền vững.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.