Luật ngân hàng: Câu hỏi lý thuyết theo chương (có đáp án)

Câu hỏi lý thuyết luật ngân hàng chương 1

(Những vấn đề lý luận chung về ngân hàng và pháp luật ngân hàng)

1. Thế nào là hoạt động ngân hàng và đặc điểm hoạt động ngân hàng?Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
+ Hoạt động nhận tiền: Theo khoản 13 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm  2010 thì hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
Việc nhận tiền gửi được thực hiện diễn ra liên tục và thường xuyên nhất tại Ngân hàng, việc nhận tiền gửi là một trong những hoạt động giúp cho ngân hàng huy động được nguồn tiền, nguồn vốn để duy trì hoạt động khác của ngân hàng.
+Hoạt động cấp tín dụng: Theo khoản 14 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, việc cấp tín dụng cho một tổ chức hay cá nhân được phép sử dụng được hiểu như một giao kết qua lại giữa các bên khách hàng và ngân hàng đó
+ Hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: Căn cứ theo khoản 15 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản được hiểu là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
+ Hoạt động cho vay: Căn cứ tại khoản 16 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cho vay được hiểu là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
b. Đặc điểm hoạt động ngân hàng
– Hoạt động ngân hàng lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh trực tiếp
– Hoạt động ngân hàng chỉ do các tổ chức tín dụng thực hiện
– Chủ thể quản lý nhà nước là ngân hàng nhà nước
– Hoạt động ngân hàng được điều chỉnh bằng Luật Ngân hàng
– Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc thù, tính đặc thù thể hiện ở
chỗ rủi ro cao, khó quản lý, khó giám sát..

2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Việt Nam?

Từ một nước thuộc địa không có chủ quyền về tiền tệ, ngay sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước ta đã từng bước thiết lập được một nền tiền tệ và một hệ thống Ngân hàng độc lập với những bước đi phù hợp sáng tạo.

Tháng 12/1945 Nhà nước cho phát hành đồng bạc Việt Nam đầu tiên được nhân dân ta hưởng ứng và hoan nghênh, gọi là “Tờ giấy bạc cụ Hồ”. Sự ra đời của đồng tiền cách mạng đã góp phần quan trọng trong quá trình đấu tranh với địch trên mặt trận tiền tệ, phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, ổn định giá cả, đồng thời đảm bảo cho chi tiêu ngân sách.

Ngày 3/2/1947 tổ chức tín dụng đầu tiên của Việt Nam: Nha tín dụng sản xuất được thành lập nhằm “giúp vốn cho nhân dân phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, đồng thời hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn và làm hậu thuẫn cho chính sách giảm tức và hướng dẫn nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể”.

Ngày 6/5/1951 tại Hang Bòng thuộc xã Tân trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngân hàng Quốc gia Việt nam là cơ quan ngang Bộ, Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia là thành viên Chính phủ. Tổng Giám đốc đầu tiên của ngành Ngân hàng là Cố Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng và Phó Tổng Giám đốc là đồng chí Lê Viết Lượng. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ban đầu có những nhiệm vụ chủ yếu là: Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ; quản lý Kho bạc Nhà nước; huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá; quản lý kim dung bằng biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời thật sự là một bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển nền tiền tệ – ngân hàng của Việt Nam. Tuy nhiên từ ngày đầu thành lập, hệ thống Ngân hàng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách, bởi một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, tự cung, tự cấp, thị trường nhỏ bé, phân tán và bị chia cắt, chi phối bởi chiến tranh; ngân sách bội chi lớn, lạm phát gia tăng, nền kinh tế mất cân đối gay gắt. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Chính phủ ngành Ngân hàng đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của mình, góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Sau năm 1954, miền Bắc được giải phóng, tiến hành khôi phục kinh tế, chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH. Hệ thống Ngân hàng trở thành công cụ đắc lực của Nhà nước dân chủ nhân dân trong việc tiếp quản vùng giải phóng, khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1960-1965) và phục vụ công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày 21/01/1960 Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 1959. Từ 1960 toàn Ngành đã có 221 Chi điếm Ngân hàng huyện, 41 Chi nhánh nghiệp vụ Ngân hàng quận, thị xã và các trung tâm kinh tế ở miền Bắc. Ngoài ra có trên 7.000 HTX tín dụng được thành lập và hoạt động trên địa bàn nông thôn.

Trải qua 2 cuộc chiến tranh khốc liệt với những nhiệm vụ hết sức nặng nề nhưng được Đảng giáo dục, rèn luyện cả hồng và chuyên, đội ngũ cán bộ Ngân hàng ngày càng được trưởng thành trên mọi lĩnh vực hoạt động, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phòng miền Nam thống nhất đất nước, làm tốt nghĩa vụ Quốc tế với cách mạng Lào và Cămpuchia. Hàng trăm cán bộ Ngân hàng (trong đó có một số đồng chí Lãnh đạo) đã được Đảng điều vào Nam công tác, trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh trên mặt trận tiền tệ với địch và 104 cán bộ Ngân hàng đã anh dũng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.

Sau ngày đất nước thống nhất (1975) hệ thống tiền tệ Ngân hàng đã được áp dụng thống nhất trong cả nước. Nhưng do hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài, thiên tai liên tục, nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, lạm phát phi mã với 3 con số (năm 1986 lạm phát lên tới 774%) đã làm đình trệ sản xuất, đời sống của đại bộ phận dân cư gặp nhiều khó khăn.

Để khắc phục tình trạng đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều giải pháp trong lĩnh vực phân phối lưu thông (cải cách giá, tiền lương – tiền). Đặc biệt từ Đại hội VI của Đảng (họp năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mang tính chiến lược, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước. Ngành ngân hàng thực hịên chương trình cải cách, chuyển dần từ tập trung bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN.

Từ bước khởi đầu thành công theo NĐ 53 ngày 26/3/1988 của Chính phủ về tách hệ thống Ngân hàng thành Ngân hàng 2 cấp, ngày 24/5/1990 Nhà nước ban hành 2 Pháp lệnh Ngân hàng, đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Theo Pháp lệnh, hệ thống Ngân hàng gồm 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và là Ngân hàng Trung ương; Các Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Sau một thời gian được thực tiễn kiểm nghiệm, 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã được tổng kết lên thành 2 Luật Ngân hàng, được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/10/1998 (và đã được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất vào năm 2003).

Trong suốt thời kỳ đổi mới (1986-2010), hệ thống Ngân hàng đã không ngừng phát triển cả về mạng lưới tổ chức và nội dung hoạt động. Đến nay trên cả nước đã có 5 NHTM Nhà nước; 36 NHTM cổ phần, 48 Chi nhánh NH nước ngoài, 05 Ngân hàng liên doanh, 48 Văn phòng Đại diện nước ngoài; 17 Công ty tài chính; 13 Công ty cho thuê Tài chính  và trên 1000 QTDND cơ sở hoạt động rộng khắp từ thành thị đến nông thôn. Các nghiệp vụ ngân hàng đã trở nên đa dạng, phong phú và quy mô tăng lên nhanh chóng.

Trải qua nhiều thời kỳ, ngành Ngân hàng Việt Nam đã có nhiều đóng góp to lớn và có hiệu quả trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên cạnh những đóng góp to lớn, hiệu quả đối với nền kinh tế, hàng năm ngành Ngân hàng là một trong những ngành đi đầu và thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước (thông qua nộp các loại thuế và lợi nhuận). Bằng nguồn quỹ phúc lợi và sự đóng góp của cán bộ, CNV, người lao động, ngành Ngân hàng đã có nhiều đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội khác, như xây nhà tình nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ các quỹ từ thiện, khuyến học chăm sóc trẻ em, khắc phục hậu quả thiên tai, xoá đói giảm nghèo …

Công tác quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng không ngừng được hoàn thiện. Việc điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ngày càng đạt hiệu quả cao; góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát theo từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã và đang làm tốt vai trò đại diện của Chính phủ tại các Tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), cũng như các tổ chức song phương và đa phương khác. Đồng thời góp phần quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trên mọi lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.

Trong những năm gần đây, hệ thống Ngân hàng Việt Nam (NHNN và các TCTD) đã có nhiều thành tích trong việc điều hành và thực thi các chính sách tiền tệ nhằm phục vụ mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, từng bước nâng cao giá trị của đồng tiền Việt Nam.

Từ năm 2011 đến nay, Ngành Ngân hàng Việt Nam vừa tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ theo tinh thần 2 Luật: Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng (được Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII thông qua ngày 16/6/2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011), vừa cùng với cả hệ thống chính trị nổ lực thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. (nói rõ nhiệm vụ nhiệm kỳ 2010-2015 và 2015-2020)

3. Tại sao nói NHNN là NH của các NH?

– Xuất phát từ vị trí pháp lý là ngân hàng trung ương, NHNN quản lý các NHTM theo một số cách
+ Bắt buộc các NHTM phải lập một tài khoản tiền gửi thanh toán tại NH trung ương
+ Bắt buộc các NHTM phải lập một tài khoản dự trữ bắt buộc tại NH trung ương
– Bên cạnh đó,
+ NH trung ương còn thực hiện vai trò “Cứu cánh cuối cùng” (trường hợp NH bị mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD àNHNN cho vay tiền).
+ NH trung ương thực hiện tái cấp vốn cho các NH.
+ khách hàng của NHNN là các NH

4. Thế nào là hệ thống ngân hàng hai cấp? Đặc điểm của hệ thống ngân hàng hai cấp.

Hệ thống ngân hàng 2 cấp là hệ thống ngân hàng bao gồm: ngân hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên kinh doanh  thương mại và các tổ chức tín dụng

Hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là hệ thống ngân hàng 2 cấp bởi vì:

Trong hệ thống ngân hàng 2 cấp có những lợi thế hơn hắn so với ngân hàng 1 cấp như

*Hệ thống ngân hàng 1 cấp

–  Đơn nhất với cơ chế quản lí bao cấp, quan liêu đã làm cho hoạt động toàn ngành ngân hàng trở nên đơn phương, cứng nhắc.

– Ngân hàng nhà nước không thể làm tròn chức năng kinh doanh theo đúng nghĩa của nó, cũng như chức năng quản lí nhà nước tiền tệ ngân hàng.

– Hoạt đông của hệ thống ngân hàng 1 cấp đã dẫn tới sự phân bổ vốn và sử dụng bốn thiếu hiệu quả làm suy giảm lòng tin của dân chúng

  • Trong khi đó hệ thống ngân hàng 2 cấp

– Có sự vượt chội hơn hẳn như có sự phân định rõ ràng  giữa 2 chức năng kinh doanh của hệ thống ngân hàng và chức năng quản lí nhà nước.

Trong đó ngân hàng tw phát hành tiền là ngân hàng của các ngân hàng,ngân hàng của chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước các hoạt động về tiền tệ và hệ thống trong phạm vi quốc gia. Chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng thuộc về các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. chính ví thế  sư phù hợp với nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần, kinh tế thị trường nên ngân hàng 2 cấp phải là ngân hàng trong nền kinh tế thị trường

5. So sánh hệ thống ngân hàng một cấp và hệ thống ngân hàng hai cấp.

Tiêu chí hệ thống ngân hàng một cấp hệ thống ngân hàng hai cấp
Tư cách pháp lí Hỗn hợp, vừa có tư cách của cơ quan trực thuộc CP, vừa có tư cách của NHTW, và tư cách của NH trung gian. Là cơ quan thuộc chính phủ và là ngân hàng trung ương
Mô hình tổ chức tổ chức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam bao gồm: ở trung ương, chi nhánh liên khu, chi nhánh ở tỉnh và chi nhánh ở nước ngoài. Các chi nhánh không có tư cách pháp nhân, hoạt động với tư cách là cơ quan cấp dưới đại diện của Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Mô hình tổ chức Ngân hàng nhà nước Việt Nam bao gồm 2 cấp: Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc
Chức năng Chức năng của ngân hàng bao gồm: phát hành giấy bạc, điều hoà sự lưu hành tiền tệ, quản lý ngân sách quốc gia; huy động vốn trong nhân dân, điều hòa, mở rộng tín dụng; quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài…

=>> Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện đồng thời chức năng quản lý ngoại hối và trực tiếp thực hiện hoạt động giao dịch ngoại tệ

Ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ đảm nhận vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Các nghiệp vụ ngân hàng sẽ do hệ thống các tổ chức tín dụng trung gian tiến hành. Các ngân hàng thương mại và những tổ chức tín dụng trung gian được pháp lệnh trao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình

Ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản lý ngoại hối mà không còn trực tiếp thực hiện hoạt động giao dịch tiền tệ

 

6. Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1951 đến năm 1988 là hệ thống ngân hàng mấy cấp? Tại sao mô hình này lại hoạt động hiệu quả trong giai đoạn này?

Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra những chủ trương chính sách mới về tài chính – kinh tế; trong đó chính sách tài chính có nội dung cơ bản là: chính sách tài chính phải kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế, tăng thu trên cơ sở đẩy mạnh tăng gia sản xuất; giảm chi bằng cách tiết kiệm, thực hiện dân chủ hoá chế độ thuế, quy định rõ Ngân sách trung ương, Ngân sách địa phương; thành lập Ngân hàng Quốc gia, phát hành đồng bạc mới để ổn định tiền tệ, cải tiến chế độ tín dụng.

Trên cơ sở đó, sự ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được khái quát thành 2 giai đoạn:

a) Thời kỳ năm 1951 đến năm 1975

* Ở miền Bắc

Ngày 06/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam quy định: “Mọi công việc của Nha ngân khố Quốc gia và Nha tín dụng sản xuất trao cho Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã đảm nhiệm hai chức năng khác nhau: một là chức năng của Ngân khố, hai là chức năng của Ngân hàng.

Đến năm 1960 Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được tổ chức thành hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương, do Nhà nước độc quyền sở hữu và quản lý. Hệ thống Ngân hàng này được tổ chức theo mô hình hệ thống Ngân hàng một cấp. Hệ thống này tiếp tục tồn tại đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (ngày 30 tháng 4 năm 1975) và tiếp quản hệ thống Ngân hàng Sài Gòn cũ ở miền Nam cho đến năm 1988.

* Ở miền Nam

Ngày 31 tháng 12 năm 1954 Bảo Đại ký quyết định số 48 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở miền Nam. Từ năm 1954 đến năm 1975 hệ thống ngân hàng ở miền Nam Việt Nam được tổ chức theo mô hình ngân hàng tư bản chủ nghĩa, tức mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp, bởi lẽ nền kinh tế ở miền Nam trong giai đoạn này bao gồm: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và các Ngân hàng
chuyên nghiệp.

b) Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1990

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, các ngân hàng nước ngoài và các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đã rút khỏi miền Nam Việt Nam. Nhà nước ta đã tiến hành quốc hữu hóa hệ thống Ngân hàng của chế độ Sài Gòn, còn đối với các Ngân hàng tư nhân nhà nước tổ chức thanh lý, bởi lẽ các chủ Ngân hàng này đã tẩu tán tài sản và chạy trốn ra nước ngoài. Nói chung, các Ngân hàng này đều rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả, tổng số nợ đối với nhân dân lớn hơn tài sản còn lại.

Đặc điểm của hệ thống Ngân hàng trong giai đoạn năm 1975 – năm 1988 được tổ chức theo mô hình ngân hàng một cấp, giống như mô hình ngân hàng từ năm 1951 – năm 1975 ở miền Bắc. Vị trí và chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được xác định như sau:

– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không những là một cơ quan ngang Bộ, có trách nhiệm quản lý các chính sách tiền tệ, tín dụng của nhà nước, mà còn là một tổ chức kinh doanh theo chế độ hoạch toán kinh tế xã hội chủ nghĩa để phục vụ các tổ chức và các ngành kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh.

– Chức năng chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là phân phối vốn tiền tệ và giám đốc bằng tiền mọi hoạt động trong nền kinh tế.

– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện vai trò trung tâm tiền mặt, trung tâm tín dụng và trung tâm thanh toán trong nền kinh tế quốc dân.

Như vậy, sau 30 năm, trải qua 02 cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, từ một TCTD đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là Nha tín dụng, được thành lập 1947. Đây là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với hệ thống các chi nhánh tỉnh và chi điếm huyện, đã từng là tổ chức tín dụng lớn nhất và duy nhất trong hàng chục năm. Chức năng chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các cơ quan đoàn thể, các tổ chức kinh tế và dân cư để cho vay. Ngân hàng Nhà nước vừa là cơ quan quản lý tiền tệ tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh không vì mục tiêu lợi nhuận.

7. Vị trí pháp lí và chức năng của ngân hàng?

Phân tích vị trí pháp lý và chức năng của NHNN VN
a. Vị trí pháp lý:
Vị trí và chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đuợc quy định tại Điều 2 Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam 2010 với nội dung như sau:
– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ
của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
– Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính
tại Thủ đô Hà Nội.
Theo khoản 1 điều 1 LNHNN thì:
NHNN vừa có vị trí pháp lý của cơ quan thuộc bộ máy hành pháp (cơ quan của chính phủ)
NHNN vừa có vị trí pháp lý của NH trung ương

b. Chức năng của NHNN: theo Nghị định 16/2017/NĐ-CP
• Chức năng quản lý nhà nước
– Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển
– Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia
– Xây dựng pháp luật, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
– Cấp, thu hồi các loại giấy phép liên quan đến hoạt động ngân hàng
– Kiểm tra, thanh tra
– Quản lý, vay, trả nợ nước ngoài
• Chức năng ngân hàng trung ương
– Phát hành tiền
+ Qua kênh của tổ chức tín dụng
+ Qua kênh của ngân sách nhà nước
– Là ngân hàng đối với chính phủ
– Điều hành trung tâm tiền tệ, nghiệp vụ thanh toán mở
– Kiểm soát dự trữ quốc tế, quản lý dự trữ ngoại hối, cung ứng dịch vụ thông tin

8. Có ý kiến cho rằng khái niệm hoạt động tổ chức tín dụng hiện nay còn quá hẹp, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng khi muốn mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.  Anh (chị) có nhận xét gì về ý kiến này.

Sự gia tăng nhanh chóng các loại hình TCTD là điều cần thiết để thị trường tín dụng phát triển.  Các TCTD đang có xu hướng mở rộng địa bàn hoạt động bằng việc thành lập và phát triển thêm nhiều chi nhánh, thậm chí trên cùng một địa bàn nhỏ (trong cùng một đơn vị hành chính loại nhỏ cấp huyện, thị xã nhưng cũng có đến 2 – 3 chi nhánh của cùng một ngân hàng được thành lập có tính độc lập trong kinh doanh với nhau). Hậu quả của việc mở rộng quá mức hệ thống tổ chức mạng lưới chi nhánh do thiếu sự tính toán và phân chia hợp lý địa bàn hoạt động, đang là một cảnh báo cho sự tranh giành khách hàng, cạnh tranh thiếu bình đẳng, mất đi tính hợp tác và cộng đồng tài trợ, điều hết sức cần thiết của hoạt động tín dụng ngân hàng trong cơ chế thị trường.

Về cơ cấu các thành phần tham gia thị trường tín dụng, trên thực tế nhiều tổ chức chính trị – xã hội như Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh, Uỷ ban dân tộc miền núi, một số Tổ chức phi Chính phủ nước ngoài, Dự án tín dụng Việt – Bỉ, Dự án hoạt động tiết kiệm tín dụng của UNLCEF… tham gia hoạt động tín dụng, nhưng chưa có sự quản lý của Nhà nước theo Luật các TCTD. Bên cạnh đó, các tổ chức kinh tế của Nhà nước như Kho bạc Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển và Quỹ bảo lãnh tín dụng cũng có những hoạt động nghiệp vụ tín dụng, nhưng tổ chức và hoạt động cũng không bị điều chỉnh bởi Luật các TCTD. Vì vậy, hoạt động tín dụng của các tổ chức trên đã làm cho thị trường tín dụng đa dạng nhưng phức tạp, thiếu sự quản lý và cạnh tranh bình đẳng trong quan hệ tín dụng trên cùng một địa bàn, cùng một đối tượng vay vốn…

Mặc dù hiện nay thị trường tín dụng khá sôi động, nhưng nhìn chung chưa quán xuyến được toàn bộ nhu cầu vốn thông qua kênh tíndụng ngân hàng đối với nềnkinh tế. Khả năng và tính linh hoạt của thị trường tín dụng còn nhiều hạn chế, nhiều nhu cầu vay vốn chưa được đáp ứng, nhất là vốn trung, dài hạn và các nhu cầu vốn nhỏ, lẻ và thời vụ trong nông nghiệp, nông thôn.

Theo ước tính của nhiều chuyên gia kinh tế, các nguồn vốn tín dụng ngân hàng mới chỉ đáp ứng khoảng 30-35% nhu cầu vốn tín dụng trong những khu vực nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, thị trường tín dụng ngầm vẫn tồn tại như một tất yếu với tình trạng cho vay nặng lãi dưới nhiều hình thức: hụi họ, cho vay nóng, cho vay cầm cố… trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là kinh tế tư nhân. Các hình thức tín dụng ngoài khuôn khổ pháp luật nàyđã phá hoại rất nghiêm trọng lực lượng sản xuất xã hội, đặc biệt đối với các hộ dân cư nghèo đói ở cả thành thị và nông thôn.

9. Chủ thể thực hiện hoạt động ngân hàng? Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có kinh doanh tiền tệ hay không?

Chủ thể thực hiện Hoạt động ngân hàng phải là các ngân hàng, hoặc các tổ chức tín dụng, được nhà nước cho phép hoạt động.

Ngân hàng lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh trực tiếp, hoạt động ngân hàng chỉ do các tổ chức tín dụng thực hiện, chủ thể quản lý ngân hàng là ngân hàng nhà nước, được điều chỉnh bởi luật Ngân hàng.

Đối với đối tượng kinh doanh là tiền tệ, đây là đối tượng kinh doanh trực tiếp đối với hoạt động ngân hàng thương mại. Bởi tiền lệ đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập nên các hoạt động khác của ngân hàng như:

+ Tái cấp vốn

1. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng.

2. Ngân hàng Nhà nước quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng theo các hình thức sau đây:

a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;

b) Chiết khấu giấy tờ có giá;

c) Các hình thức tái cấp vốn khác.

+ Lãi suất

1. Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.

2. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.

Như vậy ta có thể thấy, đối với hoạt động của ngân hàng việc xác định đối tượng kinh doanh chính là việc vô cùng quan trọng. Bởi nói giúp cho các hoạt động còn lại của ngân hàng được diễn ra trôi chảy và liên tục xoay vòng.

10. Tại sao nói hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện?

Bởi đây là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện tức là có yêu cầu về vốn pháp định cũng như phải thực hiện thủ tục xin giấy phép kinh doanh để có thể thực hiện hoạt động kinh doanh

Quy định của pháp luật về điều kiện tiến hành hoạt động Ngân hàng
1. Để tiến hành các hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng được cấp giấy phép phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y;
b) Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có đủ vốn pháp định và có trụ sở phù hợp với yêu cầu hoạt động ngân hàng;
c) Phần vốn pháp định góp bằng tiền phải được gửi vào tài khoản phong toả không được hưởng lãi mở tại Ngân hàng Nhà nước trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày. Số vốn này chỉ được giải toả sau khi tổ chức tín dụng hoạt động;
d) Đăng báo trung ương, địa phương theo quy định của pháp luật về những nội dung quy định trong giấy phép.
2. Để tiến hành các hoạt động ngân hàng, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được cấp giấy phép hoạt động ngân hàng phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có trụ sở kinh doanh phù hợp với yêu cầu hoạt động ngân hàng;
b) Đăng báo trung ương, địa phương theo quy định của pháp luật về những nội dung quy định trong giấy phép.
3. Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép, tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép phải hoạt động.

11. Điểm khác nhau cơ bản giữa hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác là gì? Nhận xét về điểm khác nhau này?

Tiêu chí Hoạt động ngân hàng Hoạt động kinh doanh khác trong nền kinh tế
Đối tượng Tiền tệ / dịch vụ ngân hàng Tài sản hàng hoá
Bao gồm các hoạt động tín dụng như nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng có dịch vụ thanh toán nhằm thực hiện các hoạt động nghiệp vụ để sinh lợi nhuận và ổn định lưu thông tiền tệ trong thị trường. Các hoạt động gồm mua bán, trao đổi hàng hóa, các hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi nhuận là chủ yếu.
Chủ thể
thực hiện
cơ cấu tổ chức hoạt động ngân hàng rất chặt chẽ, được quy định theo luật Ngân hàng và những người trong ngành cần có chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo bài bản. có thể có hoặc không tổ chức theo một bộ máy, các mô hình kinh
doanh thì rất đa dạng có thể là hộ kinh doanh, thành lập các công ty, doanh nghiệp.
Chủ thể thực hiện phải là các ngân hàng, hoặc các tổ chức tín dụng, được nhà nước cho phép hoạt động. không bắt buộc phải là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng, có thể
là các chủ thể thực hiện khác như các nhân, công ty, hộ gia đình.
Chủ thể
quản lý
NHNN Bộ Công thương, Bộ Kế hoach và đầu tư
Nguồn luật
điều chỉnh
Luật ngân hàng nhà nước việt nam
Luật các tổ chức tín dụng
Luật thương mại, luật doanh nghiệp

12. Anh chị hiểu thế nào là tiền? Giấy tờ có giá (Sec, Hối phiếu, Trái phiếu, Kỳ phiếu…) có phải là tiền không?

*Tiền: Theo Mác  thì tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.

*Giấy tờ có giá không phải là tiền theo Khoản 8, Điều 6, Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010; Khoản 1, Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: ‘’ Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.

Căn cứ vào nội dung giải đáp về giấy tờ có giá tại công văn 141/TAND-KHXX  có liệt kê một số loại giấy tờ có giá như sau:

‘’ 1. Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo quy định tại điểm 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 thì giấy tờ có giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, thì giấy tờ có giá bao gồm:

a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;

b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;

c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật quản lý nợ công năm 2009;

d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010);

đ) Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp”…’’

Như vậy thì chỉ những loại giấy tờ được nêu trên mới được pháp luật thừa nhận là giấy tờ có giá.

13. Theo anh (chị) đặc điểm gì cần quan tâm nhất khi thực hiện hoạt động ngân hàng? Lý giải đặc điểm đó? 

Hoạt động ngân hàng mang tính rủi ro cao:

– Hoạt động ngân hàng là “chỗ trũng” của nền kinh tế do mội rủi ro trong nên kinh tế đều “chảy” về ngân hàng.

– Hoạt động ngân hàng mang tính cạnh tranh cao giữa các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng.

– Hoạt động ngân hàng có liên hệ mật thiết với các hoạt động tài chính tiền tệ khác vốn có tính rủi ro tự thân như thị trường chứng khoán, thị trường vàng, thị trường dầu mỏ, thị trường bất động sản…

– Hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính “nhạy cảm” với các biến động của kinh tế- chính trị- xã hội. Hoạt động ngân hàng dễ chịu sự tác động của các quy luật mang tính nhạy cảm như: quy luật
lây lan, tâm lý đám đơng Ví dụ: tình trạng rút tiền hàng loạt ở một số ngân hàng như Á Châu ACB năm 2003, Quy luật tương hỗ có mối quan hệ chặt chẽ với các thị trường tài chính, tiền tệ, quy luật
cung cầu…

14. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng xuất phát từ đâu?

1.2.4.1 Rủi ro do nguyên nhân khách quan
Các nguyên nhân gây nên rủi ro có thể xuất phát từ yếu tố thị trường và chính sách của nhà nước bao gồm: rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định, rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi.
1.2.4.2. Rủi ro do nguyên nhân chủ quan
– Nguyên nhân từ phía khách hàng vay Các nguyên nhân này được sắp xếp theo 2 nhóm chính là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nhóm nguyên nhân khách quan thể hiện tác động ngoài ý chí của khách hàng. Nhóm nguyên nhân này vẫn có thể dược ngân hàng nhận biết được các nhân tố gây ra rủi ro nếu có một bộ phận thẩm định nhận biết được các yếu tố gây ra rủi ro và có kế hoạch đề phòng hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay.
Nhóm nguyên nhân chủ quan được hiểu là hành vi cố ý vi phạm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Đây là nguyên nhân chính gây ra rủi ro trong hoạt động cho vay của NH.
– Nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay
Có thể nói rằng, các rủi ro trong hoạt động cho vay của NH trước hết bắt nguồn từ nguyên nhân do lỗi nghiệp vụ, Các nguyên nhân này thường bao gồm: Do ngân hàng lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ, do sự hạn chế về năng lực nghiệp vụ và đạo đức của nhân viên tín dụng, do ngân hàng buông lỏng quản lý và giám sát nguồn vốn sau khi cho vay, do sự hợp tác giữa NH quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả.
[/notes]

15. Tại sao nói NHNN là NH của Chính Phủ?

-NHNN là cơ quan của chính phủ, nằm trong cơ cấu bộ máy của chính phủ và chịu sự điều hành của chính phủ; thống đốc NHNN địa vị ngang hàng với bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ.
– NHNN chịu trách nhiệm báo cáo cho CP, thống đốc chịu TN trước TTCP và QH về lĩnh vực mình phụ trách.
– NHNN Làm thủ quỹ cho kho bạc Nhà nước
– NHNN Đảm bảo quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia
– NHNN Xây dựng và tư vấn cho Nhà nước về các chính sách tiền tệ quốc gia
– NHNN Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và ngân hàng…
– NHNN Cho chính phủ vay và nhận lãi suất từ khoản cho vay.
– NHNN cũng là đại lý của Chính phủ trong việc phát hành  thanh toán các loại chứng khoán chính phủ trên thị trường sơ cấp và thứ cấp.
– NHNN cố vấn cho chính phủ về các chính sách tài chính , tiền tệ , ngân hàng..

16. Nêu các thẩm quyền of NHNN trong thực hiện chức năng quản lý NN và trình bày cơ sở để pháp luật giao thẩm quyền cho NHNN quản lý?

Theo khoản 1 điều 5 LNHNN:
– Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước. Vì hoạt động của ngân hàng NN có tác động mạnh mẽ đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội.
– Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để trình Chính phủ.
(Điều 3 và điều 5 Luật ngân hàng).
– Xây dựng các dự án luật , pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng theo thẩm quyền.
– Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động cho các tổ chức tín dụng (trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định); cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác. Quyết định giải thể, chia tách, hợp nhất các tổ chức tín dụng .
– Kiểm tra thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng, xử lý các vi phạm trong lĩnh vực  ngân hàng, tiền tệ, và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền.
– quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của chính phủ.
– chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế.
– Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng.
– Ký kết và tham gia các điều ước quốc tế về hoạt động ngân hàng và tiền tệ.
– Đại diện cho nhà nước CHXHCNVN  tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong trường hợp được Chủ tịch nước, Quốc hội ủy quyền.
-Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng.
* Cơ sở để nhà nước giao thẩm quyền cho NHNN quản lý:
– NHNN là cơ quan của chính phủ à Theo quy định của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức chính phủ, luật NHNN VN, NHNN là cơ quan ngang bộ có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. à Với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về Nhà nước.
– Hoạt động của NHNN có tác động mạnh mẽ đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội. Do đó việc tham gia của NHNN vào việc xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước là rất cần thiết.
– Việc giao quyền quản lý nhà nước cho NHNN còn nhằm thực hiện nguyên tắc nhà nước thống nhất, quản lý mọi hoạt động ngân hàng.
– NHNN hoạt động vì lợi ích chung của quốc gia à NHNN mang tính công quyền à Thực hiền quyền quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

17. Nêu sự giống và khác nhau cơ bản giữa chi nhánh NHNN với văn phòng đại diện của NHNN?

– Giống nhau:
+ Là đơn vị phụ thuộc NHNN, ko có tư cách pháp nhân, chịu sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của thống đốc.
-Khác nhau:
+ Về nhiệm vụ:
+ Chi nhánh NHNN thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo uỷ quyền của thống đốc.
+ VP đại diện có nhiệm vụ đại diện theo sự uỷ quyền của thống đốc.
– Hoạt động:
+ Chi nhánh NHNN trực tiếp thực hiện một số hoạt động quảng lý nhà nước và hoạt động nghiệp vụ ngân hàng như cấp, thu giấu phép thành lập và giấy phép hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng và tổ chức khác, cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ.
+ VP đại diện: ko được tiến hành hoạt động nghiệp vụ ngân hàng.

18 Phân tích vai trò quan trọng của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế Việt Nam. Cho ví dụ chứng minh.

Thứ nhất, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, duy trì được sự ổn định của thị trường tiền tệ, tiếp tục kiểm soát được lạm phát ở mức 3,53%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra, tạo dư địa để Chính phủ điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác phát huy tác dụng. Từ đó tạo nền tảng duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát ở mức thấp trong trung và dài hạn.

Thứ hai, tỷ giá, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng được điều hành ổn định và diễn biến tích cực, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ xuất khẩu, thực hiện tốt mục tiêu chống đô la hóa, vàng hóa. Thủ tướng nhấn mạnh: “Chính sách tỷ giá hợp lý đã giúp tăng nhanh quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước lên trên 53 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay, góp phần huy động được nguồn lực ngoại tệ, củng cố vị thế, tăng tiềm lực và uy tín quốc gia, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư ngoài nước, ngưởi dân trong nước”.

Thứ ba, ngành Ngân hàng tiếp tục phát huy vai trò là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế với tổng dư nợ tín dụng đến cuối năm 2017 đạt trên 6,5 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 18%, tức là đã cung ứng thêm 1,2 triệu tỷ đồng nguồn vốn cho nền kinh tế trong năm 2017. Kết quả này đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng đạt 6,81%, vượt kế hoạch đề ra.

Cơ cấu tín dụng đã có sự chuyển dịch tích cực, vốn tín dụng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên với nhiều chương trình tín dụng ưu đãi được triển khai tích cực tạo động lực hỗ trợ trực tiếp cho các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Tín dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa… đều đạt mức tăng trưởng cao. Tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro (chứng khoán, bất động sản…) được kiểm soát tương đối tốt. Chính sách lãi suất được điều hành hợp lý. Lãi suất cho vay trong năm qua đã giảm 0,5-1% giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí vốn. Các ngân hàng cam kết sau Hội nghị này tiếp tục giảm tiếp 0,5%.

Các chương trình tín dụng cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp tục phát huy hiệu quả và đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo bền vững, đảm bảo an sinh xã hội của đất nước, xây dựng nông thôn mới và hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi ở vùng nông thôn.

Thứ tư, quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu giai đoạn 2 (2016-2020) được ngành Ngân hàng quan tâm triển khai ngay từ đầu nhiệm kỳ. Ngành Ngân hàng đã tích cực xây dựng, trình Chính phủ ban hành Đề án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu và chủ động đề xuất hoàn thiện hành lang pháp lý giúp đẩy nhanh quá trình này với 2 văn bản pháp lý quan trọng được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3 và thứ 4 là Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Các TCTD.

Chính sách tốt sẽ làm cho hoạt động Ngành tốt, tiếp tục củng cố niềm tin đối với hệ thống ngân hàng, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.

Kết quả tái cơ cấu và xử lý nợ xấu bước đầu đã giúp hệ thống ngân hàng tiếp tục duy trì được sự ổn định, ngăn ngừa được nguy cơ gây mất an toàn hệ thống và từng bước cải thiện tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng yếu kém; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTMCP lành mạnh cải thiện chất lượng hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Qua đó tiếp tục củng cố niềm tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng và đóng góp thiết thực vào quá trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế.

Thứ năm, công tác cải cách hành chính và cải thiện môi trường kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng tiếp tục đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, có ý nghĩa thiết thực tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận với nguồn vốn tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Nhờ đó, chỉ số “Tiếp cận tín dụng” của Việt Nam đã tăng 3 bậc và đứng thứ 4 trong ASEAN. Năm 2017 cũng là năm thứ hai liên tiếp NHNN dẫn đầu các Bộ, ngành về chỉ số cải cách hành chính.

Thứ sáu, hệ thống NHTM đã thực hiện các hoạt động an sinh xã hội rất kịp thời cho vùng khó khăn. Có những ngân hàng làm tới hàng chục trường học, làm hàng trăm ngôi nhà cho vùng bão lũ. Các ngân hàng đã chia sẻ lợi ích của mình cho người nghèo, vùng thiên tai bão lũ.

19. Tại sao ví hoạt động ngân hàng như “chỗ trũng của nền kinh tế”? 

Ví hoạt động ngân hàng như “chỗ trũng của nền kinh tế” bởi hđ của ngân hàng đã kiểm soát được rủi ro thông qua hoạt động cho vay, do đó nó đóng góp vai trò rất lớn trong nền kinh tế

Vai trò đối với nền kinh tế.

* Cho vay góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế.

Do đặc điểm cho vay là quy mô rộng, khách hàng đa dạng mặt khác nó là hình thức kinh doanh chủ yếu của ngân hàng. Với vai trò là trung gian tài chính ngân hàng đóng vai trò là cầu nối vốn cho nền kinh tế, giữa người thừa vốn và người cần vốn để đầu tư.

“Tiền  có giá trị theo thời gian” các nguồn vốn nhàn rỗi được tập hợp và đầu tư cho các phương án, dự án kinh doanh khác nhau đang cần vốn để thực hiện dự án. Đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án nghĩa là phương án, dự án đó được giải quyết về vấn đề vốn. Đây là yếu tố khó khăn, Quan trọng để biến ý tưởng kinh doanh thành thực tế. Và chính nó giải quyết được các vấn đề kinh tế xã hội như tăng trưởng, phát triển kinh tế. Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động…

* Hoạt động cho vay góp phần mở rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật…

Việc vay vốn không những giải quyết được nhu cầu vốn kinh doanh mà còn làm thay đổi cách nghĩ, cách làm … làm thế nào để sử dụng vốn  có hiệu quả kinh tế và vấn đề phần mì rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật sẽ làm tiền đề cho sự phát triển  có hiệu quả đó. Trong đó vốn quyết định mọi vấn đề trong kinh doanh. Đặc biệt trong xu thế hội nhập nền kinh tế thị trường thì đây là vấn đề quan trọng cần giải quyết của các doanh nghiệp Việt Nam.

Lợi ích của ngân hàng

Hoạt động cho vay là hoạt động chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, nhưng nó lại là hoạt động chính của ngân hàng cho vay. Bên cạnh rủi ro tiềm ẩn thì ngân hàng cho vay thu được lãi suất phù hợp với các khoản vay đó và đó cũng là thu nhập chính của ngân hàng cho vay.

Đối với ngân hàng.

Trong nền kinh tế thị trường, cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng. Đối với các hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng chiếm tới hơn 50% tổng tài sản  có và thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm khoảng từ ½ đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Mặt khác rủi ro trong họat động cho vay có xu hướng tập chung chủ yếu vào danh mục cho vay.

Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng, việc ngân hàng không thu hồi được vốn, có thể là do ngân hàng buông láng quản lý, cấp tín dụng không minh bạch, áp dụng một chính sách tín dụng kém hợp lý, hay do nền kinh tế đi xuống không lường trước hay do nguyên nhân chủ quan từ phía hach hàng …

20. Có nhận xét: “Hầu hết các cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, chính trị đều xuất phát từ tâm điểm là cuộc khủng hoảng tài chính”. Anh (chị) có bình luận gì về nhận xét trên? Cho ví dụ thực tiễn.

Thị trường hàng hoá, tiêu thụ thu hẹp: khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho thị trưòng tiêu thụ hàng hoá thu hẹp, do sản xuất của doanh nghiệp; thu nhập người dân giảm mạnh. Vì vậy nhu cầu về tiêu thụ hàng hoá sản phẩm giảm mạnh. Đây là tác động rõ nét và cơ bản nhất đối với kinh tế đất nước, mà lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu – là lĩnh vực chịu tác động lớn nhất. Khó khăn này càng gia tăng, khi tổng giá trị xuất khẩu của nước ta chiếm tới 60% -70% GDP. Hiệu ứng của khó khăn này tác động đến nền kinh tế và hoạt động ngân hàng là không nhỏ: hoạt động sản xuất kinh doanh thu hẹp; giá trị sản xuất công nghiệp giảm; tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và khó khăn trong quan hệ tín dụng ngân hàng – khách hàng (do doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm….);

+ Những diễn biến này đã và đang tác động mạnh đến hoạt động ngân hàng theo xu hướng không tích cực. Đặc biệt là trong lĩnh vực hoạt động tín dụng ngân hàng. Xu hướng tín dụng tăng trưởng chậm lại và nợ xấu phát sinh – là 02 biểu hiện rõ nét và có tác động ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các NHTM:

+ Tín dụng tăng trưởng chậm, một mặt do các NHTM thận trọng trong cho vay vì thị trường biến động mạnh. Mặt khác chính các Doanh nghiệp đã và đang hạn chế mở rộng sản xuất kinh doanh do khó khăn thị trường, do khó khăn trong hoạt động tiêu thụ và ký kết hợp đồng. Trong năm 2008 tín dụng trên địa bàn tăng 23,5%. Trong khi đó tỷ lệ này năm 2007 là 64,4%; năm 2006 là 31%. Tốc độ tăng trưởng 23,5 % của tín dụng ngân hàng, chủ yếu là do tăng trưởng cao trong các tháng đầu năm 2008. Trong các tháng cuối năm, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã chậm lại và giảm so với các tháng đầu năm.

+ Chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng: Diễn biến này gắn liền với nguyên nhân khách quan từ quá trình luân chuyển vốn chậm của nền kinh tế, của doanh nghiệp (do sản xuất kinh doanh tăng trưởng chậm, do hàng hoá khó tiêu thụ…) dẫn đến khả năng thanh toán bị hạn chế, một số doanh nghiệp ứ đọng hàng hoá (đặc biệt là các doanh nghiệp ngành nhựa; doanh nghiệp kinh doanh sắt thép và lương thực….), do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản tín dụng có liên quan.

+ Bên cạnh đó tín dụng bất động sản luân chuyển chậm. Nguyên nhân chính của tình hình này do thị trường bất động sản vẫn chưa khởi sắc: giá bất động sản giảm và khó bán là 02 yếu tố tác động trực tiếp người vay, đến các khoản nợ cho vay bất động sản. Đặc biệt là các khoản nợ cho vay kinh doanh bất động sản. Chất lượng tín dụng bất động sản sẽ tiếp tục phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển, tăng trưởng trở lại của thị trường này.

2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp giảm. Đây cũng là tác động ảnh hưởng lớn. Những khó khăn về tài chính của các tổ chức, doanh nghiệp, của chủ đầu tư nước ngoài trong điều kiện khủng hoảng tài chính là không nhỏ, điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, theo xu hướng giảm về số lượng và quy mô vốn. Qúa trình này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động đầu tư; sản xuất kinh doanh trong nước có liên quan đến vốn đầu tư nước ngoài. Thông qua đó tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.

3. Khủng hoảng kinh tê – tài chính toàn cầu có tác động gián tiếp đến thị trường tài chính tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tác động này phản ánh trên 03 phương diện sau:

+ Dòng vốn đầu tư gián tiếp biến động mạnh. Trong thời gian qua, thị trường chứng khoán trong nước liên tục điều chỉnh, với nhiều yếu tố tác động. Trong đó việc bán ròng của các nhà đầu tư nước ngoài có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường, tạo hiệu ứng mạnh đến tâm lý nhà đầu tư, và làm cho thị trường liên tục giảm điểm trong thời gian qua. Việc các tổ chức tài chính –chi nhánh hoặc công ty con đang hoạt động ở Việt Nam, rút vốn về nước nhằm cứu nguy hoặc đảm bảo an toàn cho các công ty mẹ. Bên cạnh đó khủng hoảng tài chính cũng tạo tâm lý bảo toàn vốn; tâm lý nắm giữ tiền mặt hơn là cổ phiếu của các Nhà đầu tư – Đây là 02 nguyên nhân cơ bản mà nhà đầu tư nước ngoài bán ròng trong thời gian qua, có tác động ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán trong nước.

+ Các hoạt động đầu tư, liên kết góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược vào hệ thống ngân hàng trong nước giảm và hạn chế hơn. Tác động mang tính gián tiếp này, chủ yếu ảnh hưởng đến chiến lược tăng trưởng vốn điều lệ của một số NHTMCP ; hoặc không đạt được theo kế hoạch kỳ vọng. Qua đó ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chiến lược đổi mới công nghệ ; phát triển dịch vụ cũng như tiếp cận và học tập kinh nghiệm quản trị, quản lý ngân hàng hiện đại của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Đây là tác động tạm thời và mang tính ngắn hạn. + Những biến động của lãi suất; của giá vàng; của đồng Dolla Mỹ… trên các thị trường tiền tệ thế giới trong điều kiện khủng hoảng thường biến động nhanh, liên tục và khó dự báo. Điều này tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ, và tác động ảnh hưởng nhất định đến thị trường tiền tệ ; thị trường ngoại hối….

21 Hoạt động tín dụng của NHNN có điểm khác biệt nào so với hoạt động tín dụng của TCTD?

Hai hoạt động này có sự khác biệt về bản chất. Do hoạt động tín dụng của NHNN nhằm mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn cho hệ thống tín dụng.
– Sự khác biệt:
+ ND hoạt động tín dụng:
_ của NHNN: bảo lãnh, tạm ứng cho ngân sách nhà nước, cho vay; chiết khấu giấy tờ có giá và thương phiếu
_ của các TCTD: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá và thương phiếu, bảo lãnh, cho thuê tài chính, hình thức khác.
+ Đối tượng cấp tín dụng:
– NHNN: hạn chế hơn. VD: Cho vay chỉ cho các đối tượng như TCTD là ngân hàng hoặc TCTD tạm thời mất khả năng chi trả và có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống TCTD. Chỉ bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài, chỉ chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá cho các TCTD.
– TCTD: rộng hơn, có khả năng thực hiện đối với các đối tượng như của NHNN, đối tượng của TCTD là mọi tổ chức cá nhân có nhu cầu và đủ điều kiện được cấp tín dụng.

22 Khái niệm luật ngân hàng? Khái niệm, phân loại đối tượng điều chỉnh luật ngân hàng? Anh (chị) có nhận xét gì về đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng?

Ở nước ta cũng như ở các quốc gia khác, sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực ngân hàng là yêu cầu mang tính khách quan đôi với nhà nước. Dựa vào hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta và quan niệm phổ biến ở các nước về mô hình ngành luật ngân hàng, có thể nêu định nghĩa luật ngân hàng như sau:

Luật ngân hàng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước tổ chức và quản lí hoạt động ngân hàng, các quan hệ về tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.

Như vậy, tương tự các ngành luật khác, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng là các quan hệ xã hội.

Căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội do Luật ngân hàng điều chỉnh và phương thức tác động của pháp luật, đối tượng điều chỉnh của Luật ngân hàng gồm hai nhóm chính: các quan hệ quản lí nhà nước về ngân hàng, các quan hệ tổ chức và kinh doanh ngân hàng.

Các quan hệ quản lí nhà nước về ngân hàng là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước thực hiện hoạt động quản lí nhà nước đối với các hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế. Ví dụ: quan hệ cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng, quan hệ thanh tra giữa Ngân hàng nhà nước với các tổ chức tín dụng V.V..

Đối với các quan hệ quản lí nhà nước về ngân hàng phương thức tác động của pháp luật (phương pháp điều chỉnh) là mệnh lệnh phục tùng.

Các quan hệ tổ chức và kinh doanh ngân hàng là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động kinh doanh ngân hàng của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.

Theo quy định của pháp luật, mô hình và cơ cấu tổ chức của các tổ chức tín dụng do pháp luật quy định.

Các quan hệ kinh doanh ngân hàng phát sinh trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng hoặc của các tổ chức khác được phép hoạt động ngân hàng được thiết lập trên cơ sở bình đẳng. Phương thức tác động của pháp luật đối với các quan hệ này là phương thức bình đẳng, thoả thuận.

Căn cứ vào nội dụng điều chỉnh, đối tượng điều chinh của luật ngân hàng gồm các nhóm quan hệ xã hội sau:

– Quan hệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

– Quan hệ tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng;

– Quan hệ kỉnh doanh ngân hàng của các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng nhưng được Nhà nước cho phép thực hiện một số hoạt động kinh doanh ngân hàng.

23 Nguồn điều chỉnh của luật ngân hàng là gì? 

Nguồn của Luật Ngân hàng bao gồm:

–Hiến pháp

– Các đạo luật Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng);

– Bộ luật dấn sự

– Luật doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Đầu tư;

– Luật T ổ chức chính phủ;

– Các nghị định, thông tư của các bộ, cơ quan ngang bộ liên quan đến lĩnh vực ngân hàng.

24 Khái niệm, đặc điểm quan hệ pháp luật ngân hàng? Nhận xét gì về mức độ “tự do ý chí” của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật ngân hàng so với các quan hệ pháp luật khác?

Quan hệ pháp luật về ngân hàng là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước về ngân hàng và những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng được các quy phạm pháp luật ngân hàng điều chỉnh.

Chủ thể trong quan hệ pháp luật ngân hàng:

– Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các Tổ chức tín dụng

– Chủ thể là Pháp nhân

– Chủ thể là cá nhân

Khách thể trong quan hệ pháp luật ngân hàng

– Tiền, hàng, các giấy tờ có giá, vàng và những dịch vụ tiện ích của ngân hàng

Nội dung của quan hệ PLNH:

Bao gồm các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệPLNH cụ thể.

25 Địa vị pháp lí của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định rõ địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngân hàng Nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước. Trên cơ sở địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quy định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ngân hàng Nhà nước.
Luật các Tổ chức tín dụng là khuôn khổ pháp lý cơ bản cho việc thành lập, tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Luật các Tổ chức tín dụng quy định Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các tổ chức tín dụng và xác định các tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Các loại hình tổ chức tín dụng là các tổ chức tín dụng Việt Nam gồm: tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân, tổ chức tín dụng hợp tác; tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, chi nhánh của ngân hàng nước ngoài. Các loại hình tổ chức tín dụng chính là những thành phần kinh tế tham gia trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực hiện các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại.

Câu hỏi lý thuyết luật ngân hàng chương 2

(Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)

  1. Anh (chị) hãy lý giải tại sao Việt Nam lại chọn mô hình ngân hàng trung ương là cơ quan ngang bộ của Chính phủ (không thuộc Quốc hội hay Bộ Tài chính)?

Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xhcn Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ

Từ khái niệm trên có thể nhận thấy:

– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cơ quan quản lý nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ, trực thuộc Chính Phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mang hàm Bộ trưởng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo những quy định tại các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệmThống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam theo các quy định pháp luật hiện hành trong Luật T ổ chức Quốc hội và Luật tổ chức chính phủ

– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng các phương thức và công cụ quản lý khi thực thi nhiệm vụ của mình,

– Ngân hàng nhà nước Việt Nam là Ngân hàng trung ương. Đây là điểm khác biệt giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với các Bộ khác trong Chính Phủ. Ngân hàng nhà nước Việt Nam còn là một Ngân hàng. Ngân hàng này thực hiện một số hoạt động ngân hàng đặc biệt, bao gồm: hoạt động độc quyền phát hành tiền; cung ứng các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho Chính phủ và cho các tổ chức tín dụng.

2 Tại sao pháp luật ngân hàng Việt Nam lại quy định: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một pháp nhân”. Hãy chứng minh?

Về mặt dân sự, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một pháp nhân. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, Thủ tướng Chính phủ quy định mức vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam p hù hợp trong từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động theo nguy ên tắc Chênh lệch thu, chi hàng năm của Ngân hàng Nhà nước được xác định từ nguồn thu về hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các nguồn thu khác, sau khi trừ chi phí hoạt động và khoản dự phòng rủi ro. Ngân hàng Nhà nước trích từ chênh lệch thu, chi để lập quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ; số còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước.

Được thành lập một cách hợp pháp Tiền thân của Ngân hàng nhà nước Việt Nam là Ngân hàng quốc gia Việt Nam, được thành lập theo Sắc lệnh số 15 ngày 06.5.1951 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ Ngân hàng nhà nước Việt Nam được tổ chức thành hệ thống tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chỉ nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các văn phòng đại điện ở trong nước, ở ngoài nước và các đơn vị trực thuộc. Theo Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 26 đơn vị trực thuộc, trong đó 20 đơn vị giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng Ngân hàng trung ương, 6 đơn vị là tổ chức sự nghiệp. Trên cơ sở Nghị định số 16/2017/NĐ-CP, các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước được chia thành các vụ như: vụ chính sách tiền tệ; vụ quản lý ngoại hối; vụ thanh toán; vụ tín dụng; vụ tài chính… Có tài sản riêng và tác bạch với tài sản của thành viên và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình Có vốn pháp định, tiền phát hành vào lưu thông để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, tiền gửi của các Tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, vốn đi vay và vốn khác (theo quy định tại Điều 7 nghị định về chế độ tài chính của Ngân hàng nhà nước Việt Nam) Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật ngân hàng, ngân hàng nhà nước Việt Nam nhân danh chính mình để thực hiện các công việc trên và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.

3 Những khoản vay nước ngoài nào phải thực hiện đăng ký với Ngân hàng Nhà nước?

Trả lời: Khoản vay thuộc đối tượng phải thực hiện đăng ký với Ngân hàng Nhà nước quy định tại Điều 9, Mục 1, Chương III, Thông tư 03/2016/TT-NHNN:

1. Khoản vay trung, dài hạn nước ngoài.

2. Khoản vay ngắn hạn được gia hạn mà tổng thời hạn của khoản vay là trên 01 (một) năm.

3. Khoản vay ngắn hạn không có hợp đồng gia hạn nhưng còn dư nợ gốc tại thời điểm tròn 01 (một) năm kể từ ngày rút vốn đầu tiên, trừ trường hợp Bên đi vay hoàn thành việc trả nợ khoản vay trong thời gian 10 (mười) ngày kể từ thời điểm tròn 01 (một) năm kể từ ngày rút vốn đầu tiên.

4 Chứng minh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định rõ địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngân hàng Nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước. Trên cơ sở địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quy định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ngân hàng Nhà nước.
Luật các Tổ chức tín dụng là khuôn khổ pháp lý cơ bản cho việc thành lập, tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Luật các Tổ chức tín dụng quy định Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các tổ chức tín dụng và xác định các tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Các loại hình tổ chức tín dụng là các tổ chức tín dụng Việt Nam gồm: tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân, tổ chức tín dụng hợp tác; tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, chi nhánh của ngân hàng nước ngoài. Các loại hình tổ chức tín dụng chính là những thành phần kinh tế tham gia trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực hiện các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại.

5 Trình bày cơ cấu tổ chức, lãnh đạo, điều hành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

*Hệ thống tổ chức của Ngân hàng Nhà nước

Do chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng nhà nước vừa mang tính quản lí nhà nước chuyên ngành, vừa mang tính điều hành kinh tế nên hệ thống tổ chức có những khác biệt so với các cơ quan quản lí nhà nước chuyên ngành ở các lĩnh vực khác.

Theo quy định của Điều 7 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng nhà nước được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất gồm bộ máy điều hành và các đơn vị hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn vị trực thuộc khác.

Trụ sở chính của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đặt tại Hà Nội, là trung tâm lãnh đạo, điều hành mọi hoạt động của Ngân hàng nhà nước.

Chi nhánh Ngân hàng nhà nước là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng nhà nước, không có tư cách pháp nhân, chịu sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của thống đốc. Chi nhánh Ngân hàng nhà nước thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo uỷ quyền của Thống đốc.

Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng nhà nước, có nhiệm vụ đại diện theo sự uỷ quyền của Thống đốc. Khác với chi nhánh Ngân hàng nhà nước, văn phòng đại diện không được tiến hành hoạt động nghiệp vụ ngân hàng.

Các đơn vị trực thuộc Ngân hàng nhà nước gồm có các đơn vị sự nghiệp (cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học, cung ứng dịch vụ tin học, thông tin và báo chí chuyên ngành ngân hàng) V.V..

* Lãnh đạo và điều hành Ngân hàng nhà nước

Bộ máy lãnh đạo, điều hành ngân hàng trung ương ở các nước có hình thức tổ chức đa dạng nhưng có thể khái quát thành hai dạng chính là bộ máy lãnh đạo, điều hành tập thể và bộ máy lãnh đạo điều hành theo chế độ một lãnh đạo (thủ trưởng chế).

Với mô hình bộ máy lãnh đạo, điều hành ngân hàng trung ương hoạt động theo chế độ tập thể thì ngoài thống đốc (chủ tịch) là người đại diện của ngân hàng trung ương còn có hội đồng quản trị (hoặc hội đồng chính sách tiền tệ hoặc hội đồng ngân hàng trung ương). Cơ chế hội đồng quản trị thường được áp dụng đối với loại hình ngân hàng trung ương thành lập dưới dạng công ty cổ phần. Ví dụ: Hội đồng quản trị của Hệ thống dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED), Hội đồng quản trị của Ngân hàng quốc gia Hungari… Cơ chế hội đồng chính sách tiền tệ hay hội đồng ngân hàng trung ương thường được áp dụng đối với loại hình ngân hàng trung ương thuộc sở hữu nhà nước. Ví dụ: Hội đồng chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Pháp, Ngân hàng trung ương Hàn Quốc… phổ biến ở các nước, hội đồng quản trị, hội đồng chính sách tiền tệ, hội đồng ngân hàng trung ương là cơ cấu có quyền lực đối với hoạt động của ngân hàng trung ương.

Với mô hình bộ máy lãnh đạo, điều hành ngân hàng trung ương hoạt động theo chế độ một lãnh đạo thì thống đốc hoặc chủ tịch ngân hàng trung ương là người duy nhất chịu trách nhiệm trước nhà nước về toàn bộ hoạt động của ngân hàng trung ương. Chẳng hạn, theo Điều 10 Luật ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, thống đốc là người lãnh đạo và chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với hoạt động của ngân hàng trung ương trước Nhà nước.

Ở Việt Nam trước đây, theo quy định tại Điều 4 và Điều 14 Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1990, việc quản trị Ngân hàng nhà nước do hội đồng quản trị đảm nhiệm còn việc điều hành đặt dưới quyền của Thống đốc.

Điều 11 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997 quy định: Thống đốc Ngân hàng nhà nước là thành viên Chính phủ, chịu trách nhiệm lãnh đạo và điều hành Ngân hàng nhà nước.

Điều 8 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định:

1. Thống đốc Ngân hàng nhà nước là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu và lãnh đạo Ngân hàng nhà nước; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về quản lí nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.

2. Thống đốc Ngân hàng nhà nước có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo thẩm quyền;

b) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng nhà nước theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

c) Đại diện pháp nhân của Ngân hàng nhà nước.

Như vậy, cơ chế lãnh đạo Ngân hàng nhà nước ở Việt Nam theo chế độ thủ trưởng chế. Thống đốc Ngân hàng nhà nước là chức vụ vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan hành pháp (Chính phủ), vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp (Quốc hội).

*Các Chi nhánh Ngân hàng nhà nước Việt Nam tỉnh, thành phố và văn phòng đại diện.

Các Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của NHNN, chịu sự lãnh đạo và và điều hành tập trung của Thống đốc NHNN. Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố không có tư cách pháp nhân. Chi nhánh NHNN thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo ủy quyền của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Pháp luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định các nhiệm vụ và quyền hạn của Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, văn phòng đại diện như sau[2]:

-Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng trên địa bàn được phân công;

-Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng của TCTD và giấy phép hoạt động ngân hàng cuả các tổ chức khác; quyết định giải thể, chia tách, hợp nhất, sáp nhập các TCTD trên địa bàn;

-Thực hiện tái cấp vốn và cho vay thanh toán;

-Cung ứng các dịch vụ thanh toán, ngân qũi và các dịch vụ ngân hàng khác cho TCTD và kho bạc nhà nước; Thực hiện các ủy quyền khác theo qui định cuả pháp luật

-Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không thực hiện giao dịch trực tiếp đối với tổ chức, cá nhân không phải là TCTD.

Đối với các văn phòng đại diện của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong và ngoài nước là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có nhiệm vụ đại diện theo sự uỷ quyền của Thống đốc. Văn phòng đại diện không được phép tiến hành các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng.

Thời điểm hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Văn phòng đại diện tại TP HCM
Văn phòng đại diện tại nước ngoài.

*Lãnh đạo, điều hành Ngân hàng nhà nước Việt Nam:

Đứng đầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là Thống đốc Ngân hàng. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là thành viên Chính phủ, mang hàm bộ trưởng, chịu trách nhiệm lãnh đạo và điều hành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thống đốc có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể:

-Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của NHNN.

-Chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính phủ và Quốc hội về lĩnh vực mình phụ trách.

-Đại diện pháp nhân NHNNVN

Giúp việc cho Thống đốc có các Phó thống đốc.

Đứng đầu các Vụ là vụ trưởng, chịu trách nhiệm hỗ trợ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực chuyên môn được phân công. Đứng đầu cơ quan ngang vụ là các giám đốc. Đối với chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở địa phương, đứng đầu là giám đốc chi nhánh.

Trong lãnh đạo, điều hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chúng ta cũng cần đề cập tới thanh tra ngân hàng và cơ quan tổng kiểm soát trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Thanh tra ngân hàng. Thanh tra ngân hàng là thanh tra nhà nước chuyên ngành về ngân hàng, được tổ chức thành hệ thống thuộc bộ máy thuộc Ngân hàng nhà nước.
Về cơ cấu tổ chức thanh tra ngân hàng gồm có:

-Thanh tra NHNN

-Thanh tra Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phồ trực thuộc TW

Đối tượng thanh tra của thanh tra ngân hàng:

– Tổ chức và hoạt động của TCTD

– Hoạt động ngân hàng của tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được NHNN cấp phép
Việc thực hiện các quy định pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các cơ quan, tổ chức và cá nhân

Mục đích thanh tra ngân hàng:

– Bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD

– Bảo vệ quyền vàlợi ích hợp pháp của người gửi tiền

– Phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia

Nội dung thanh tra:

-Thanh tra việc chấp hành các qui định pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng

– Phát hiện ngăn chặn, xử lý vi phạm (phạt vi phạmhành chánh, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm…)

– Xác minh, kết luận , kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo…

*Cơ quan Tổng kiểm soát của thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Là đơn vị thuộc bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ:

-Kiểm soát hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống NHNNVN.

-Kiểm toán nội bộ với các đơn vị thực hiện nghiệp vụ NHNNVN.

Tổ chức và nhiệm vụ của Tổng kiểm soát do Thống đốc NHNN qui định

6 Hội đồng chính sách tiền tệ quốc gia có phải là một bộ phận thuộc ngân hàng Nhà nước hay không? Chức năng của cơ quan này?

Nhiệm vụ của Hội đồng

Hội đồng thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Điều 2 Quyết định số 1079/QĐ-TTg ngày 17 tháng 6 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Hội đồng. Cụ thể như sau:

1. Căn cứ vào chương trình công tác hàng năm của Chính phủ, Hội đồng chủ động nghiên cứu đề xuất, có ý kiến tư vấn cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về những vấn đề nêu tại Điều 1 Quy chế này.

2. Nghiên cứu, tư vấn một số vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách và kế hoạch tài chính, tiền tệ, quản lý và phát triển thị trường tài chính và một số vấn đề mới phát sinh trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Hội đồng.

3. Nghiên cứu, tham gia ý kiến vào các báo cáo, đề án, chính sách, cơ chế tài chính, tiền tệ theo đề nghị của các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố để báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

4. Tổ chức thảo luận, hội thảo, lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các doanh nhân, các nhà khoa học trong và ngoài nước về những chủ trương, chính sách, giải pháp thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ khi cần thiết.

5. Khảo sát, nghiên cứu thực tiễn trong và ngoài nước để có thêm thông tin nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả tư vấn về các vấn đề thuộc chức năng nhiệm vụ của Hội đồng.

7 Có ý kiến cho rằng: Việc quy định thành lập chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở mỗi tỉnh, thành phố như hiện nay là không cần thiết, làm cho bộ máy quản lý hành chính cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Anh (chị) có đồng ý với quan điểm trên hay không? Giải thích?

Không đồng ý với quan điểm Việc quy định thành lập chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở mỗi tỉnh, thành phố như hiện nay là không cần thiết, làm cho bộ máy quản lý hành chính cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, hoạt động ngân hàng vốn là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, việc thành lập chi nhánh Ngân hàng nhà nước Việt Nam ở mỗi tỉnh, thành phố trước hết sẽ giúp giảm khối lượng công việc quản lí lớn của trụ sở ngân hàng nhà nước, từ đó nâng cao được hiệu quả quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối…Thêm vào đó, việc thành lập các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố sẽ dễ dàng hơn cho công tác bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia vì các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố sẽ nắm bắt được tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng tốt hơn.

8 Anh (chị) có nhận xét gì về vị trí pháp lý và vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay? Có ý kiến cho rằng nên nâng cao hơn nữa vị thế và tính độc lập của ngân hàng Nhà nước trong bộ máy nhà nước ta hiện nay để ngân hàng Nhà nước có thể phát huy tích cực hiệu quả hoạt động của mình. Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ của mình?

Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy, theo quy định này, Ngân hàng nhà nước vừa có vị trí là một bộ trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ, vừa có vị trí là ngân hàng trung ương.

Với vị trí pháp lí là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Chính phủ, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng nhà nước là cơ quan ngang bộ có chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và ngân hàng.

Với vị trí pháp lí của ngân hàng trung ương, Ngân hàng nhà nước là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

Hoạt động vì lợi ích chung của quốc gia là một trong những dấu hiệu thể hiện tính công quyền của ngân hàng trung ương. Chính vì vậy, luật ngân hàng trung ương của các nước thường quy định cụ thể về mục tiêu hoạt động của ngân hàng trung ương. Chẳng hạn, Điều 3 Chương I Luật ngân hàng Cộng hoà liên bang Đức (thông qua ngày 26/7/1957) quy định nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Liên bang Đức như sau: Ngân hàng liên bang Đức có nhiệm vụ điều tiết hoạt động lưu thông tiền tệ và cung ứng tín dụng cho nền kinh tế nhằm mục đích ổn định tiền tệ… Còn Ngân hàng quốc gia Hungari, mặc dù được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần nhưng có mục tiêu hoạt động là nhằm hỗ trợ việc thực hiện các chương trình kinh tế của Chính phủ thông qua chính sách tiền tệ và tín dụng, ổn định và bảo vệ sức mua trong và ngoài nước của đồng tiền quốc gia (Điều 3,4 Luật ngân hàng quốc gia Hungari năm 1991).

9 Thế nào là một NHTW hiện đại?

Câu hỏi tưởng chừng như rất đơn giản này cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả ở các nước trên thế giới cũng chưa có một định nghĩa chính thống nào về NHTW hiện đại.

Đến nay, trên thế giới đã biết đến 3 mô hình NHTW:

(1) NHTW độc lập với Chính phủ;

(2) NHTW là một cơ quan thuộc Chính phủ;

và (3) NHTW thuộc Bộ Tài chính.

Liên quan đến việc lựa chọn mô hình NHTW, nhiều chuyên gia kinh tế nhất trí rằng không có mô hình NHTW nào là lý tưởng cho mọi quốc gia. Sự lựa chọn này không hoàn toàn nằm trong ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế- xã hội và thể chế chính trị của từng nước.

Điều đó có nghĩa rằng mỗi một quốc gia có thể vận dụng một mô hình NHTW khác nhau phù hợp với điều kiện thực tiễn của mình. Ở nước ta, NHNN là cơ quan của Chính phủ và Thống đốc NHNN là thành viên Chính phủ. Thời gian qua, khi bàn đến vấn đề cải cách NHNN, một số ý kiến cho rằng chúng ta nên lựa chọn mô hình NHTW độc lập với lý do cơ bản được đưa ra là NHTW càng độc lập thì mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát thấp càng dễ thực hiện. Về mặt lý thuyết, điều này là đúng, tuy nhiên, tác giả cho rằng trong thời điểm hiện nay và có thể trong nhiều năm tới, mô hình NHNN là một cơ quan của Chính phủ như hiện nay vẫn phù hợp với thể chế chính trị, đặc thù kinh tế- xã hội và hệ thống luật pháp của nước ta. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả hoạt động của NHNN với tư cách là một NHTW trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao tính độc lập của NHNN là hết sức cần thiết. Nâng cao tính độc lập không có nghĩa là phải tách NHNN ra khỏi bộ máy Chính phủ mà cần phải trao thêm quyền cho Thống đốc- người đứng đầu NHNN- trong việc chủ động lựa chọn và điều hành các công cụ chính sách tiền tệ.

10 Chính sách tiền tệ quốc gia là gì? Việc thực hiện chính sách tiền tệ này như thế nào? Bằng hiểu biết của mình, anh (chị) hãy cho ví dụ thực tiễn.

Theo quy định tại khoản 1 điều 3 luật ngân hàng 2010 thì chính sách tiền tệ quốc gia được hiểu như sau:

Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.`

Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ

Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ là quá trình quản lý cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ thường là hướng tới một lãi suất mong để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở cửa quy định mức dự trữ bắt buộc hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.

Thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ, vấn đề này được ghi nhận từ điều 11 đến điều 15 luật ngân hàng 2010

a. Tái cấp vốn

Tái cấp vốn là một hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và công cụ thanh toán cho các ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng theo các hình thức sau đây:

a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;

b) Chiết khấu giấy tờ có giá;

c) Các hình thức tái cấp vốn khác

Đây là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng. Ngân hàng nhà nước quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng theo các hình thức như cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá; chiết khấu giấy tờ có giá; các hình thức tái cấp vốn khác.

Theo quy định tại Điều 9 Thông tư 1/2012/TT-Ngân hàng nhà nước quy định về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tái cấp vốn dưới hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng đối với tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành thì nội dung này được quy định như sau:

Mục đích tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước là hỗ trợ khả năng chi trả tạm thời cho các tổ chức tín dụng.

“Các tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước xem xét tái cấp vốn dưới hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng bao gồm:

1. Ngân hàng thương mại.

2. Ngân hàng hợp tác xã (Quỹ tín dụng nhân dân trung ương trong thời gian chưa chuyển đổi sang mô hình hoạt động của ngân hàng hợp tác xã theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng).

3. Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.”

b. Lãi suất.

Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.

Lãi suất là tỷ lệ % trên khoản tiền người vay phải trả cho người cho vay trên tiền vốn, trong những khoảng thời gian nhất định. Lãi suất được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng như công cụ để tác động lên lượng tiền tệ trong lưu thông, đó không phải là lãi suất kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể ấn định mức lãi suất trần, lãi suất sàn hoặc lãi suất cơ bản tương ứng với từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi. Căn cứ vào quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất, các tổ chức tín dụng sẽ hoạch định lãi suất kinh doanh.

Bảng lãi suất Ngân hàng nhà nước đang áp dụng như sau:

Ngày áp dụng:03/04/2020
Thời hạn Lãi suất BQ liên Ngân hàng (% năm) Doanh số (Tỷ đồng)
Qua đêm 3,53 34.221
1 Tuần 3,40 7.800
2 Tuần 3,52 2.360
1 Tháng 3,93 666
3 Tháng 3,66 2.529
6 Tháng 4,04 548
9 Tháng 5,53(*) 100(*)
Ghi chú       (*) Tham chiếu ngày 20/3/2020

c. Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá hối đoái, quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá.

Tỷ giá hối đoái là  tỷ lệ giá trị giữa đồng bản tệ (VND) với giá trị của đồng tiền nước ngoài. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến mức cung ứng tiền vào lưu thông, đến cán cân thanh toán ngoại thương, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Ví dụ bảng tỷ giá của ngân hàng nhà nước như sau:

Tỷ giá áp dụng cho ngày 06/04/2020
Đơn vị: VND
STT Ngoại tệ Tên ngoại tệ Mua Bán
1 USD Đô la Mỹ 23.175 23.650
2 EUR Đồng Euro 24.374 25.881
3 JPY Yên Nhật 207 220
4 GBP Bảng Anh 27.592 29.299
5 CHF Phơ răng Thuỵ Sĩ 23.056 24.482
6 AUD Đô la Úc 13.608 14.450
7 CAD Đô la Canada 15.862 16.843

d. Dự trữ bắt buộc.

Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng nhà nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi tại tổ chức tín dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng nhà nước quy định việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của từng loại hình tổ chức tín dụng đối với từng loại tiền gửi.

Dự trữ bắt buộc là số tiền được tính bởi tỷ lệ phần trăm trên vốn huy động của các tổ chức tín dụng huy động được dưới hình thức nhận tiền gửi và phát hành các loại giấy tờ có giá, gửi vào tài khoản mở tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Luật 

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam muốn tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể điều chỉnh tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. Quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tương ứng với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi mà các tổ chức tín dụng huy động.

Bảng dự trữ bắt buộc của Ngân hàng nhà nước theo văn bản số 1158/QĐ-NHNN ngày 29/05/2018 áp dụng từ ngày 01/06/2018.

Loại TCTD Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng Kỳ hạn từ 12 tháng trở lên Tiền gửi của tổ chức tín dụng ở nước ngoài Tiền gửi khác không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng Tiền gửi khác có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên
1. Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô 0% 0% 0% 0% 0%
2. Ngân hàng chính sách Theo quy định của Chính phủ Theo quy định của Chính phủ Theo quy định của Chính phủ Theo quy định của Chính phủ Theo quy định của Chính phủ
3. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng hợp tác xã 3% 1% 1% 7% 5%
4. Tổ chức tín dụng khác 3% 1% 1% 8% 6%

đ. Nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá do Ngân hàng Nhà nước thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước quy định loại giấy tờ có giá được phép giao dịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Trong đó, cần phân biệt giữa giấy tờ có giá ngắn hạn và mua bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá.

Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động giao dịch chứng khoá của các Ngân hàng trung ương trên thị trường mở. Các chứng khoán là đối tượng giao dịch của ngân hàng, có thể là chứng khoán chính phủ, các chứng khoán được phát hành bởi các doanh nghiệp hoặc Ngân hàng gồm cả chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Thị trường mở ở các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường so với thị trường chứng khoán và tiền tệ.

Thông qua hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng nhà nước với mục tiêu có thể chủ động điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và kiểm soát lãi suất thông qua việc mua hoặc bán các chứng từ có giá ngắn hạn, nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Luật ngân hàng nhà nước 2010  tại Điều 15 quy định nghiệp cụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá do nggaan hàng nhà nước thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

11 Tái cấp vốn là gì? Cách thức vận hành công cụ này thế nào? Thực tế việc sử dụng công cụ này hiện nay?

Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng bao gồm các hoạt động: chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá. Mục tiêu: + Đáp ứng vốn kịp thời cho các NHTM + Điều tiết lượng tiền trong lưu thông phù hợp với mục tiêu.

Hoạt động tín dụng của Ngân hang Nhà nước cho vay, theo hình thức này, thì Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức dụng là ngân hàng vay ngắn hạn , vay ngắn hạn theo hình thức tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Tại Điều 17 luật ngân Ngan hang Nhà nước 1997 (sửa 2003).hiện luật ngân hàng 2010 và luật tổ chức tín dụng 2010 điều chỉnh vấn đề này.

Theo quy định của pháp luật hiện hành tổ chức tín dụng được vay vốn của NHNN là các tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay ngắn hạn bằng việc tái cấp vốn của NHNN thông qua các hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, cho vay, cầm cố chứng từ có giá.

Ngoài ra TCTD là ngân hàng trong trường hợp đặc biệt tạm thời mất khả năng thanh toán có nguy cơ mất an toàn cho hệ thống các tổ chức dụng thì NHNN sẽ là đứng ra cho vay như cứu cánh cuối cùng.

Tái cấp vốn hình thành trên cơ chế NHNN cho các TCTD là ngân hàng vay trên cơ sở bù đắp thiếu hụt trong thanh toán để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các TCTD để cung ứng vốn cho khách hàng, tạo ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm soát của NHNN.

Khi nhu cầu của khách hàng cần vốn lên cao trong khi các tổ chức tín dụng thiếu tiền ( với vai trò là chủ thể duy nhất được quyền phát hành tiền và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia NHNN không kinh doanh tiền tệ, không trực tiếp giao dich với khách hàng mà phải thông qua ngân hàng trung gian là các tổ chức tín dụng) thì TCTD là ngân hàng sẽ gởi yêu cầu lên NHNN để vay, NHNH dựa vào hồ sơ tín dụng để cho TCTD vay.

NHNN cung ứng tiền cho TCTD khi dựa vào tình hình thực tế của đất nước. Nếu như tình hình đất nước lạm phát lên cao thì NHNN sẽ điều chỉnh tăng lãi suất vay ngắn hạn nhằm mục đích hạn chế lượng tiền lưu thông trên thị trường, Để tránh tình trạng lạm phát khi bơm tiền vào thị trường quá nhiều sẽ dẫn đến lạm phát.Để đảm bảo có thể rút vốn về khi cần thiết tạo tính linh hoạt để các ngân hàng huy động vốn thêm từ bên ngoài, nhanh chóng thu nguồn vốn về để đảm bảo ổn định tỷ giá cho kinh tế thị trường. Ngược lại nếu như tình hình đất nước giảm lạm phát thì NHNN sẽ tiên hành giảm lãi suất vay ngắn hạn nhằm mục đích phân bổ hợp lý số tiền lưu thông trên thị trường, kích thích kích cầu, nâng cao tỷ giá, kích thích sử dụng tiền…, Như vậy TCTD là ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc hoạch định các chính sách của NHNN.

* Thực tế, thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đã đạt được những kết quả đáng khích lệ như: Thứ nhất, công cụ tái cấp vốn mà nòng cốt là việc xây dựng và điều hành khung lãi suất thời gian qua đã dần hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường theo hướng lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu điều chỉnh thành lãi suất sàn. Cặp lãi suất tái cấp vốn được giữ khá ổn định và được điều chỉnh tương ứng với sự biến động của lãi suất thị trường trong từng thời kỳ.

Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng thương mại, góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại trong những năm vừa qua. Thông thường, vào các thời điểm cuối năm và gần Tết Nguyên đán thường xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn vốn thanh toán của các ngân hàng thương mại do nhu cầu rút tiền của khách hàng, có những ngày lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đặc biệt, sự thiếu hụt này thường mang tính hệ thống, do vậy, bất cứ một khâu nào gặp ách tắc sẽ kéo theo hàng loạt các sự cố tiếp theo. Do vậy, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ.

Đồng thời, hoạt động tái cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu vào tháng 10/2003 và NHTMCP nông thôn Ninh Bình (nay là NHTMCP Dầu khí toàn cầu) là ví dụ điển hình. Trước những tin đồn thất thiệt, khách hàng của ngân hàng đã ồ ạt đến rút tiền trước hạn, bất ngờ trước phản ứng mang tính dây chuyền của khách hàng, ngân hàng rơi vào tình trạng bị động trong cân đối nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng.

Tuy nhiên, với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN đã kịp thời hỗ trợ khả năng thanh toán cho 2 ngân hàng dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Thứ ba, so với trước đây, thời gian xử lý đề nghị xin vay cầm cố đã được rút ngắn chỉ còn 2 ngày (trước đây thường 3 đến 4 ngày). Thứ tư, chủng loại giấy tờ có giá chấp thuận sử dụng trong quan hệ vay vốn với NHNN ngày càng được mở rộng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong quan hệ vay vốn với NHNN.

Gần đây Theo Quyết định số 271/QĐ-NHNN của NHNN, lãi suất tái cấp vốn là 11%/năm và tiếp tục Ngày 29/4, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 929/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng.NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn 14%/năm; lãi suất tái chiết khấu 13%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng là 14%/năm. Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/5.

Việc cho vay của NHNN đối với các TCTD là ngân hàng, thông qua cửa sổ tái cấp vốn là một hình thức đòn bẩy tín dụng. Việc để mức lãi suất tái cấp vốn ở mức 11%,12%,13% rồi gần đây là 14% trong thời gian vừa qua cho thấy được chính sách tiền tệ kinh hoạt của NHNN, đảm bảo khả năng thanh toán cho các TCTD mặt khác khi tình hình lạm phát lên cao NHNN muốn nhanh chóng rút tiền khỏi nền kinh tế.Tăng lãi suất vay ngắn hạn đồng nghĩa với việc NHNN thắt chặt tiền tệ là một biện pháp cần thiết để ngăn chặn lạm phát, đông thời nhằm đến mục tiêu khác là ổn định tỷ giá, việc tăng lãi suất đông nghĩa với đồng nội sẽ có gái trị cao hơn đồng ngoại tệ.

* Bên cạnh những ưu điểm như trên, chính sách tái cấp vốn của NHNN cũng còn có những hạn chế như:

Thứ nhất, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phản ánh đúng cung – cầu vốn trên thị trường tiền tệ do lãi suất tái cấp vốn được quy định một cách cứng nhắc và tách xa với lãi suất thị trường, những thay đổi lãi suất tái cấp vốn chỉ nhằm làm cho nó phù hợp với lãi suất thị trường chứ không có tác động điều tiết. Mặc dù NHNN đã có những thành công bước đầu trong việc thiết kế kiểm soát lãi suất thị trường theo mô hình khung lãi suất với lãi suất sàn là lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn là lãi suất trần nhưng NHNN còn chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ, do vậy, khung lãi suất chưa thực hiện được vai trò hướng dẫn sự biến động lãi suất thị trường.

Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung nguồn vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng, các chức năng nhằm điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ, điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế về quy mô và cơ cấu đầu tư dựa trên sự cấp vốn theo thời gian, theo lĩnh vực ngành kinh tế, theo từng vùng lãnh thổ chưa được phát huy.

Thứ ba, quy trình thủ tục tái cấp vốn chưa đồng bộ và còn những hạn chế nhất định khiến cho nghiệp vụ tái cấp vốn chưa phát huy được hiệu quả: + Việc phân bổ hạn mức chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN với các ngân hàng mới chỉ dựa trên các yếu tố như tổng dư nợ bằng đồng Việt Nam, tổng tài sản Có và vốn tự có của ngân hàng mà chưa tính tới khối lượng giấy tờ có giá mà các ngân hàng nắm giữ. Lạm phát hiện nay đã ở mức trầm trọng, mục tiêu về tăng trưởng cung tiền và tín dụng đang ở trong vòng xoáy của lạm phát, tuy tăng lãi suất cấp tái vốn nhưng việc cung tiền và tín dụng vẫn thả chưa thực sự thắt chặt tiền tệ, chặng hạn như quý I năm 2010 cung tiền và tín dụng vẫn được thả ở mức 2% và xáp xỉ lên 4%.

Theo thống kê lạm phát từ năm 2007 – 2010 như sau.

+ Năm 2007 là 12.63%.

+ Năm 2008 mức lạm phat tăng là 18.89%.

+ Năm 2009 giảm xuống,mức lạm phát còn 6.88%.

+ Năm 2010 mức lam phát lại lên cao hơn so với năm 2009, mức lạm phát là 11.75%.

Vậy qua số liệu thống kê mức lạm phát cho thấy mức lạm phát cao nhất là năm 2008 và được gọi là siêu lạm phát qua đó thấy chính sánh tiền tệ của NHHN vẫn chưa đạt hiệu quả, và năm 2009 mưc lạm phát có giảm , cho thấy công cụ thực hiện chính sách tiền tệ trong đó có công cụ tái cấp vốn trong những năm 2009 có hiệu quả minh chứng là mức lạm phát trong năm 2009 có giảm xuống còn 6.88%, nhưng năm 2010 do biến động tình hình chính trị kinh tế trên thế giới và kinh tế trong nước, mức lạm phat có xu hướng tăng trở lại xấp xỉ gần năm 2007 vậy cho thấy các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ trong đó có công cụ tái cấp vốn thực sự chưa có hiệu quả, và với tình hình biến động kinh tế xã hội trên thế giới dự đoán năm 2011 mức lạm phát vẫn chưa thể giảm và có xu hướng tăng cao nếu như NHNN và chính phủ thực hiện chính sách tiện tệ không hiệu quả.

Công cụ chính sách tiền tệ là tái cấp vốn cho các TCTD là ngân hàng chưa thực sự có hiệu quả mặc dù từ năm 2009 NHNN bắt đầu chính sách thắt chặt tiền tệ bằng việc tăng lãi suất tái cấp vốn. Mục tiêu của những đợt điều chỉnh lãi suất gần đây nhằm ngăn chặn lạm phát và ổn định tỷ giá, nhưng việc tăng lãi suất này có thể kích hoạt một đợt nâng lãi suất lên cao, trước đây lãi suất cơ bản được xác định trần lãi suất cho vay của thị trường tuy nhiên, hiện nay điển hình lại là công cụ lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn.

Quyết định nâng lãi suất tái cấp vốn là bước đi đầu tiên để kiềm chế lạm phát, nhưng sẽ tác động bất lợi tới thị trường chứng khoán trong ngắn hạn trước tiên do kỳ vọng về dòng tiền tiêu cực hơn, ngoài ra doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn khi chi phí vốn tăng thêm. Vì vậy, trong ngắn hạn thị trường chứng khoán sẽ vẫn còn khó khăn, tuy nhiên, chúng ta có thể kỳ vọng biện pháp thắt chặt tiền tệ sẽ tác động tích cực tới thị trường trong dài hạn khi môi trường vĩ mô được thiết lập ổn định.

Trong thời kỳ lạm phát, thanh khoản của hệ thong TCTD vẫn đang còn ỷ vào ngồn vốn của NHNN Khi thiếu vốn để lưu thông, nhất là các NHTM luân ỷ lại vốn của NHNN.Nên cần việc thanh khoản của hệ thống TCTD cần phải được cải thiện nhờ thu hút tiền gửi từ công chúng chứ không nên ỷ lại kênh bơm tiền từ NHNN.

12 Tại sao nói ‘Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm’. Chứng minh?

Theo điều 11 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010: Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng Có thể hiểu tái cấp vốn là việc cho vay có bảo đảm bằng giấy tờ có giá ngắn hạn (giao dịch ngắn hạn là giao dịch có kì hạn dưới 12 tháng các giấy tờ có giá).

Ngân hàng Nhà nước có các hình thức tái cấp vốn như sau:

a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;

b) Chiết khấu giấy tờ có giá;

c) Các hình thức tái cấp vốn khác.

Các loại giấy tờ có giá là tín phiếu kho bạc; tín phiếu của ngân hàng nhà nước; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình Trung ương; trái phiếu đầu tư do ngân sách Trung ương thanh toán; trái phiếu ngoại tệ; công trái; các loại giấy tờ khác được Thống đốc ngân hàng Nhà nước quy định.

Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và những điều kiện khác.

Tái cấp vốn theo hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá:

Theo điều 2 Thông tư 17/2011/TT-NHNN quy định: Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là hình thức cho vay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng trên cơ sở cầm cố giấy tờ có giá thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ

– Theo đó, mức cho vay tối đa không vượt quá giá trị giấy tờ có giá làm bảo đảm được quy đổi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

– Lãi suất cho vay cầm cố tái cấp vốn được Ngân hàng Nhà nước công bố trong từng thời kỳ

– Thời hạn cho vay cầm cố là dưới 12 tháng và không vượt quá thời hạn còn lại của giấy tờ có giá được cầm cố.

– Tiêu chuẩn cho giấy tờ có giá được cầm cố:

a) Được phép chuyển nhượng;

b) Thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức tín dụng đề nghị vay;

c) Có thời hạn còn lại tối thiểu bằng thời gian vay;

d) Không phải là giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng đề nghị vay phát hành.

Tái cấp vốn theo hình thức chiết khấu giấy tờ có giá:

Theo điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN: Chiết khấu giấy tờ có giá là nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước mua ngắn hạn (mua với kỳ hạn dưới 1 năm) các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trước khi đến hạn thanh toán

Trong tài chính, chiết khấu là quy trình xác định giá trị của một lượng tiền tệ tại một thời điểm trong tương lai (theo lãi xuất chiết khấu được Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố) và việc thanh toán tiền dựa trên cơ sở các tính toán giá trị thời gian của tiền tệ.

Chiết khấu giấy tờ có giá có 2 trường hợp là:

  1. Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá là hình thức Ngân hàng Nhà nước mua hẳn giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo giá chiết khấu.

Như vậy Ngân hàng Nhà nước sẽ mua lại giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng với giá trị dự tính được của giấy tờ đó thời điểm trong tương lai lúc giấy tờ đó đến cuối thời hạn thanh toán. Tức là mức giá trị có thể cao hơn giá trị hiện tại của giấy tờ.

2. Chiết khấu có kỳ hạn là hình thức Ngân hàng Nhà nước chiết khấu kèm theo yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cam kết mua lại toàn bộ giấy tờ có giá đó sau một thời gian nhất định trước khi đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá. Kỳ hạn chiết khấu tối đa là 91 ngày.

Nhà nước mua chiết khấu giấy tờ có giá cho đến 1 thời điểm trong tương lai; tại thời điểm đó phải trước khi hết hạn thanh toán của giấy tờ có giá và khi đó tổ chức tín dụng sẽ phải mua lại giấy tờ có giá mà Ngân hàng nhà nước đã mua chiết khấu.

13 Khái niệm lãi suất? Hiện nay ngân hàng Nhà nước sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết nền kinh tế như thế nào?

Lãi suất là tỷ lệ phần trăm nhất định sinh ra từ giao dịch cho vay giữa các bên. Số tiền này được gọi là tiền lãi mà người vay tiền cần phải trả thêm cho người cho vay. Cụ thể, lãi suất sẽ được tính theo tỷ lệ phần trăm nhân với số tiền gốc theo một thời gian cụ thể được quy ước giữa 2 bên (thường được tính theo tháng hoặc theo năm).

Ví dụ cụ thể: một người sở hữu một số tiền nhất định và không cần dùng đến, người này có thể cho cá nhân khác đang có nhu cầu vay tiền. Nếu có lãi suất và thời hạn vay tiền kèm theo, người vay tiền phải chi trả thêm một khoản tiền tương ứng kèm theo tiền gốc đã vay khi đến thời gian bắt buộc phải trả.

Lãi suất được tạo ra với mục tiêu là công cụ cần thiết để điều chỉnh các đặc điểm chính sách tiền tệ theo từng thời điểm, cũng như sử dụng khi xử lý các biến số lạm phát, đầu tư, nợ xấu, thất nghiệp… theo sự quản lý của Ngân hàng Trung Ương (Ngân hàng Quốc gia). Do vậy việc lạm dụng lãi suất bên ngoài, theo hình thức kinh doanh tiền tệ khi không có sự cho phép của Nhà nước sẽ được coi là một trong những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến nền kinh tế của đất nước.

Hầu hết lãi suất cho vay thường được quy định tăng lên hoặc giảm xuống theo chính sách của Ngân hàng Trung Ương. Tương tự như việc tăng cao lãi suất, lãi suất được hạ thấp nhiều cũng có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro, như là tình trạng nguồn vốn đổ xô đầu tư vào thị trường bất động sản và chứng khoản sẽ tạo nên hiệu ứng bong bóng kinh tế rất nguy hiểm.

Các loại lãi suất phổ biến

Lãi suất cũng được chia thành nhiều loại khác nhau tương ứng với mục đích và điều kiện sử dụng để tránh tình trạng lạm dụng lãi suất. Những loại lãi suất quen thuộc nhất có thể kể đến như là: lãi suất tiền gửi ngân hàng, lãi suất cho vay cơ bản, lãi suất cho vay ngân hàng, lãi suất tín dụng, lãi suất chiết khấu…. Những loại lãi suất này sẽ được chia ra dựa theo các căn cứ khác nhau.

– Căn cứ vào tính chất khoản vay

Bao gồm những loại lãi suất cơ bản nhất được ngân hàng áp dụng cho khách hàng khi muốn vay tín dụng.

  • Lãi suất cơ bản: được áp dụng chung, làm cơ sở để ấn định các mức lãi suất phát sinh cho các dịch vụ tín dụng khác của ngân hàng.
  •  lãi suất sinh ra mà ngân hàng phải trả cho khách hàng sử dụng dịch vụ tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng.
  • Lãi suất cho vay ngân hàng (lãi suất tín dụng): người vay tiền phải trả cho ngân hàng khi vay. Được chia thành nhiều mức lãi dựa theo hình thức vay là vay kinh doanh, trả góp, vay qua thẻ tín dụng, vay ngắn hạn…
  • Lãi suất chiết khấu ngân hàng: áp dụng khi một cá nhân xin vay  dưới dạng chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ cá giá trị. Được tính với tỷ lệ phần trăm theo mệnh giá thương phiếu, khấu trừ ngay từ ban đầu khi nhận tiền vay.
  • Lãi suất tái chiết khấu: được ngân hàng Trung Ương áp dụng đối với các ngân hàng thương mại khi cho vay tái chiết khấu dưới dạng thương phiếu và giấy tờ có giá trị ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán.
  • Lãi suất liên ngân hàng: áp dụng khi cho vay trên thị trường liên ngân hàng, giữa các ngân hàng với nhau qua quan hệ cung cầu vốn. Lãi suất liên ngân hàng được quy định bởi Ngân hàng Trung Ương, phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường và tỷ trọng sử dụng vốn.

– Căn cứ giá trị thực

Dựa theo giá trị của khoản vay, người ta cũng chia lãi suất thành 2 loại.

  • Lãi suất danh nghĩa: được tính theo giá trị danh nghĩa, chưa bao gồm chỉ số tác động của lạm phát và công bố trên hợp đồng tín dụng.
  • Lãi suất thực tế: được điều chỉnh từ lãi suất danh nghĩa, và những tác động của lạm phát thời điểm đó.

Theo đó: Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát.

– Căn cứ tính linh hoạt của lãi suất

Với 2 loại.

  • Lãi suất cố định: Cố định trước và trong thời gian vay, có thể biết trước để người vay tiền có thể quyết định vay hay không. Tuy vậy lãi suất cố định lại hạn chế khi không được thay đổi trong thời gian mặc cho những biến động của lãi suất thị trường.
  • Lãi suất thả nỗi: Ngược lại với lãi suất cố định, khi có thể thay đổi tùy theo lãi suất thị trường trong thời hạn vay tín dụng. Nhược điểm là có thể nhận rủi ro, nhưng cũng có khi có lợi.

– Căn cứ loại tiền cho vay

  • Lãi suất nội tệ: lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ.
  • Lãi suất ngoại tệ: lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ.

– Căn cứ nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế

  • Lãi suất quốc gia (lãi suất trong nước): tiền đề cho mọi hình thức cho vay tín dụng trong nước.
  • Lãi suất quốc tế: áp dụng với các hợp đồng tín dụng quốc tế.

14 Ảnh hưởng của lãi suất đến nền kinh tế

Chính vì những lợi ích của lãi suất và những đặc điểm vừa có lợi và có hại cho nền kinh tế, việc sử dụng lãi suất một cách thông minh là rất cần thiết và quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế của một quốc gia.

– Những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất, có thể kể đến:

  • Cung – cầu quỹ cho vay.
  • Mức lạm phát dự tính.
  • Mức rủi ro.
  • Kỳ hạn lãi suất.
  • Các chính sách vi mô và vĩ mô được đề xuất và thực hiện bởi Chính phủ.
  • Chính sách tiền tệ từ Ngân hàng Trung Ương.
  • Sự phát triển nền kinh tế.

– Ảnh hưởng đến hình thức cho vay

Theo đó, ảnh hưởng lãi suất còn thường thể hiện thông qua những biểu hiện cho hình thức vay nợ, giao dịch tín dụng. Nếu lãi suất tăng, khả năng vay nợ xuống thấp, tăng nhu cầu gửi tiết kiệm, giảm tiêu dùng, ảnh hưởng đến bên “cầu” trong dòng chảy lưu thông tiền tệ. Ngược lại lãi suất giảm, nhu cầu vay tăng cao, hạn chế gửi tiết kiệm, “cung” tăng cao có thể sinh lạm phát.

– Tác động đến tỷ giá hối đoái

Ngoài ra mức lãi suất cũng ảnh hưởng không nhỏ đến mức tỷ giá hối đoái. Nếu mức lãi suất trong nước tăng cao hơn nước ngoài, dòng vốn nước ngoài sẽ xuất hiện nhiều hơn, làm tỷ giá nội tệ và ngoại tệ giảm xuống, giảm giá trị đồng nội tệ, kèm theo sản lượng xuất khẩu ròng bị tác động đi xuống, tổng cầu giảm theo, sinh lạm phát.

Có thể thấy một mức lãi suất đưa ra sẽ kéo theo những phát sinh khác nhau có thể là tiêu cực hoặc tích cực. Do đó kiểm soát mức lãi suất theo định kì luôn là một trong những việc làm cần thiết mà mỗi Ngân hàng Quốc gia lưu tâm.

15 Lãi suất cơ bản là gì? Ý nghĩa của lãi suất cơ bản?

là lãi suất thấp được các ngân hàng thương mại áp dụng cho những khoản vay dành riêng cho doanh nghiệp. Lãi suất được chính Cục dự trữ Liên bang quyết định tăng hay giảm lãi suất hiện hành cho những khoản vay có thời gian ngắn hạn.

Những rủi ro vỡ nợ là một trong những yếu tố quyết định lãi suất của ngân hàng tính cho bên vay. Bởi vì khách hàng tốt đối với ngân hàng ít có khả năng vỡ nợ nên ngân hàng sẽ tính lãi suất thấp cho họ hơn so với những khách hàng có tỷ lệ khả năng vỡ nợ cao hơn khi vay tiền.

Lãi suất nắm vai trò như những khoản bồi thường cho những rủi ro mà bên cho vay phải chịu dựa trên những thông tin lịch sử tín dụng người đi vay và những khoản giao dịch tài chính khác cũng được cung cấp, khai thác đến những vấn đề liên quan trong quá trình cho vay cần phải nắm rõ.

Lãi suất cơ bản được xem như lãi suất chính bởi các khoản vay dành cho khách hàng sẽ nhỏ hơn dựa trên các loại lãi suất. Với nhiều khoản vay cho nhiều mục đích khác nhau và những khoản vay đó sẽ luôn bị phụ thuộc vào chính lãi suất cơ bản.

Ý nghĩa của lãi suất cơ bản

Là cơ sở để các tổ chức tín dụng khác ấn định lãi suất kinh doanh:

Ý nghĩa của lãi suất cơ bản đầu tiên mang tính xuyên suốt và không bao giờ được quên đó chính là cơ sở để các tổ chức tín dụng khác làm căn cứ ấn định lãi suất kinh doanh. Bởi lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất của thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra còn có sự tham gia của lãi suất nghiệp vụ của thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước và lãi suất huy động đầu vào của các tổ chức tín dụng cũng như xu hướng biến động cung cầu vốn trên thị trường.

Quy định bắt buộc là các cổ chức tín dụng phải lấy lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước làm thước đo, không được phép cho vay với mức lãi suất vượt quá 1,5 lần. Theo mức lãi suất cơ bản mới nhất năm 2008 là 14% thì lãi suất ở các tổ chức tín dụng khác không được cho vay quá 21%/năm.

Là cơ sở hoặc tham chiếu, cơ sở bồi thường rủi ro

Ý nghĩa của lãi suất cơ bản tiếp theo đó chính là cơ sở tham chiếu, bồi thường các rủi ro. Theo nghiên cứu, rủi ro vỡ nợ được coi như yếu tố quyết định chính của lãi suất cơ bản mà ngân hàng đã tính trước cho người đi vay. Ngân hàng sẽ dựa vào mục đích vay, khả năng vỡ nợ của từng khách hàng để tính lãi suất cơ bản cụ thể.

Mặc dù yếu tố này không được liệt kê cụ thể nhưng đó là khoản tự hiểu giữa ngân hàng và người vay, đã bao gồm đầy đủ trong các thành phần tỷ lệ lãi suất được tính. Lãi suất cơ bản cũng được coi như một khoản bồi thường cho các rủi ro mà người vay phải chịu. Cơ sở tin cậy nhất để Ngân hàng xác định chính là lịch sử tín dụng của người đi vay cùng những chi tiết tài chính khác để trang trải, hỗ trợ các chi phí liên quan đến việc cho vay.

Là yếu tố quyết định sự biến động của giá cả chứng khoán

Bên cạnh đó, ý nghĩa của lãi suất cơ bản còn là một yếu tố quyết định sự biến động của giá cả chứng khoán. Khi lãi suất cơ bản tăng, kéo theo giá cả chứng khoán cũng xê dịch theo chiều hướng bất lợi. Điều này có ảnh hưởng khá nghiêm trọng và trực tiếp với từng nhà đầu tư, không riêng gì các doanh nghiệp lớn. Lãi suất cơ bản sẽ quyết định mức lãi mà các nhà đầu tư phải trả nếu họ mua chứng khoán bằng tiền đi vay theo hình thức tài khoản bảo chứng ký quỹ. Lúc lãi suất cơ bản tăng, lãi suất áp dụng của nguồn tiền huy động cũng sẽ tăng theo. Dẫn đến chi phí mua giữ chứng khoán hoặc duy trì một vị thế đầu tư cũng sẽ cao trên thị trường chứng khoán. Người đầu tư rất dễ gặp phải nhiều rủi ro, bất lợi.

Ngược lại nếu lãi suất cơ bản bị cắt giảm sẽ khiến chi phí mua giữa chứng khoán đối với các khoản tiền huy động cũng giảm theo. Đây là tín hiệu mừng khiến người mua ưa chuộng và đầu tư chứng khoán nhiều hơn. Lượng cầu tăng chắc chắn cũng khiến giá chứng khoán tăng theo.

Cả 3 ý nghĩa của lãi suất cơ bản kể trên đều được nhận định dựa trên lịch sử và các tác động vào nền kinh tế từ khi ra đời cho đến nay. Vì thế, tính xác thực và thời sự luôn được đảm bảo, bạn hoàn toàn có thể an tâm áp dụng.

16 Có ý kiến cho rằng nên bỏ quy định về lãi suất cơ bản vì nó hạn chế quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín dụng và tổ chức khác thưc hiện hoạt động ngân hàng. Anh (chị) có suy nghĩ gì về vấn đề này?

Không  bỏ quy định về lãi suất cơ bản vì nó hạn chế quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín dụng và tổ chức khác thưc hiện hoạt động ngân hàng

Lãi suất cơ bản là công cụ quan trọng để Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh chính sách tiền tệ, tác động chung lên thị trường tài chính trong nước theo từng giai đoạn. Khi lãi suất cơ bản giảm cũng sẽ kéo theo lãi suất huy động và lãi suất cho vay giảm và ngược lại, việc áp dụng quy định về lãi suất cơ bản sẽ tạo ra một mức lãi suất “xương sống” đảm bảo cho nền kinh tế không rơi vào tình trạng lạm phát, hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng, tổ chức khác thực hiện hđ ngân hàng, đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng, đồng thời bảo đảm lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền, tránh trường hợp tăng hoặc giảm lãi suất quá mức

=> làm giảm rủi ro cho hđ ngân hàng, ko những thế mức lãi suất này là mức sàn tức ở mức thấp, là cơ sở để các tc tín dụng, tổ chức khác th hđ ngân hàng dựa vào để đưa ra mức lãi suất của mình chứ ko phải mức lãi suất bắt buộc các tctdung, tc th hđ ngân hàng khác phải đề ra bằng mức trên.

17 Dự trữ bắt buộc là gì? Tại sao ngân hàng Nhà nước lại quy định các tổ chức tín dụng phải dự trữ bắt buộc? 

Dự trữ bắt buộc (reserve requirements) là tỷ lệ phần trăm tiền gửi mà các ngân hàng thương mại buộc phải giữ làm dự trữ theo yêu cầu của ngân hàng trung ương. Thông thường, các ngân hàng thương mại phải gửi số tiền này vào một tài khoản đặc biệt ở ngân hàng trung ương. Ngoài ra, cũng cần chú ý rằng ngân hàng trung ương thường quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn khác nhau.

Vai trò của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lạm phát

Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại.

Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng (cung tiền tăng) và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng dẫn tới lãi suất giảm, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng).

Như vậy công cụ dự trữ bắt buộc mang tính áp đặt trực tiếp, đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để điều khiển lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế.Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát triển , có nền kinh tế ổn định).

18 Việc quy định dự trữ bắt buộc như thế nào? Cách thức vận hành công cụ này? Thực tế việc sử dụng công cụ này?

Nội dung chế độ dự trữ bắt buộc đối với các Tổ chức tín dụng được pháp luật quy định :

Căn cứ pháp luật :

Ngày 17 tháng 12 năm 2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Văn bản hợp nhất – Quyết định số 10/VBHN-NHNN về Quy chế dự trữ bắt buộc đối với các TCTD; áp dụng đối với các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD

Nội dung chế độ dự trữ bắt buộc :

+ Dự trữ bắt buộc được tính toán trên cơ sở số dư tiền gửi huy động bình quân của từng loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc tại Hội sở chính và các chi nhánh của TCTD  trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc và tỷ lệ dự trữ bắt buộc tương ứng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.

+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình TCTD và từng loại tiền gửi do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

+ Đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt ( kiểm soát thông qua hoạt động kiểm soát hàng ngày của TCTD ) , Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho TCTD đến mức tối thiểu 0%. Đối với TCTD đang thực hiện phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt, TCTD tham gia cơ cấu lại TCTD yếu kém theo chỉ định, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể cho từng TCTD

Các nguyên tắc :

Các tổ chức tín dụng phải duy trì đầy đủ dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc theo nguyên tắc sau:

  1. Số dư bình quân tài khoản thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước không thấp hơn tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ.
  2. Số dư tài khoản thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước hàng ngày trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc có thể thấp hơn hoặc cao hơn tiền dự trữ bắt buộc của kỳ đó.

Hình thức xử lý các Tổ chức tín dụng vi phạm chế độ dự trữ bắt buộc :

Ngân hàng Nhà nước áp dụng các hình thức, biện pháp xử lý đối với Tổ chức tín dụng thiếu dự trữ bắt buộc theo quy định pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng và quy định pháp luật khác có liên quan.

Trong vòng 3 ngày làm việc đầu tháng, Hội sở chính TCTD có trách nhiệm báo cáo cho Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi TCTD đặt trụ sở chính về số dư tiền gửi huy động bình quân phải dự trữ bắt buộc của tổ TCTD trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc làm cơ sở tính toán dự trữ bắt buộc của kỳ duy trì dự trữ bắt buộc (Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc  là khoảng thời gian của tháng hiện hành kể từ ngày 01 đầu tháng đến hết ngày cuối cùng của tháng).

19 Hiểu thế nào là tỷ giá hối đoái? Tỷ giá được hình thành như thế nào?

Tỷ giá hối đoái hay còn gọi là tỷ giá trao đổi ngoại tệ. Được hiểu là tỷ giá của một đồng tiền này có thể được quy đổi cho một đồng tiền khác, tỷ giá giữa 2 loại tiền tệ, là số lượng đơn vị tiền tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (năm 1997), tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giá trị của đồng Việt Nam với giá trị đồng tiền nước ngoài. Tỷ giá này được hình thành dựa trên cơ sở cung cầu ngoại tệ, dưới sự điều tiết của Nhà Nước, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định.

Trong ngành tài chính ngân hàng, tỷ giá hối đoái phản ánh mối quan hệ giá trị đồng tiền của hai nước với nhau. Ví dụ tỷ giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày 21/11/2019 1 USD = 23.260VNĐ. Đây chính là tỷ giá hối đoái.

Tỷ giá hối đoái được xem là một loại giá cả đặc biệt, là giá trị của tiền chứ không phải giá trị của hàng hóa.

Cách đọc tỷ giá hối đoái: Đồng tiền đứng trước được hiểu là đồng tiền yết giá, đồng tiền đứng thứ hai gọi là đồng tiền định giá. Trong ví dụ về tỷ giá hối đoái trên thì USD là đồng tiền yết giá còn VNĐ là đồng tiền định giá.

Tỷ giá hối đoái còn được xem là  quan hệ so sánh tiền tệ của các nước theo tiêu chuẩn nào đó.  Trong chế độ bản vị vàng thì tiền tệ trong lưu thông hoạt động kinh doanh là tiền đúc bằng vàng và giấy và nó được đổi ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng. Vì thế, tỷ giá hối đoái có thể hiểu là mối quan hệ so sánh giữa tiền vàng của hai nước.

Còn trong chế độ tiền giấy thì tiền đúc không còn được sử dụng nên ngang giá vàng không còn là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái. Theo đó thì việc so sánh các đồng tiền khác nhau được thực hiện bằng hình thức so sánh mức mua của hai tiền tệ với nhau.

Cách phân loại tỷ giá hối đoái

Căn cứ vào giá trị tỷ giá

Dựa vào giá trị tỷ giá có thể chia thành 2 loại:

  • Tỷ giá hối đoái thực: Là tỷ giá có tác động của lạm phát và sức mua trong một cặp tiền tệ phản ánh giá cả hàng hóa tương quan có thể bán ra nước ngoài và hàng tiêu thụ trong nước. Tỷ giá này đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế của nước đó.
  • Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: Là tỷ giá của một loại tiền tệ theo giá hiện tại, không tính đến ảnh hưởng của lạm phát.

Căn cứ vào phương thức chuyển ngoại hối

Dựa vào khái niệm Tỷ giá hối đoái là gì và căn cứ vào phương thức chuyển ngoại hối, chúng ta có thể chia làm 2 loại:

  • Tỷ giá thư hối: Là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. Tỷ giá điện hối thường cao hơn tỷ giá thư hối.
  • Tỷ giá điện hối: Là tỷ giá thường được niêm yết tại ngân hàng. Đó là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá khác

Căn cứ vào thời điểm giao dịch ngoại hối

Có thể chia ra thành 2 loại như sau:

  • Tỷ giá mua: Là tỷ giá mua ngoại hối vào của ngân hàng
  • Tỷ giá bán: Là tỷ giá bán ngoại hối ra của ngân hàng

Căn cứ vào kỳ hạn thanh toán

Dựa trên kỳ hạn thanh toán, phân chia tỷ giá hối đoái thành:

  • Tỷ giá giao dịch kỳ hạn (FORWARDS): Là tỷ giá do tổ chức tín dụng tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đảm bảo trong biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng.
  • Tỷ giá giao ngay (SPOT):  Là tỷ giá do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận trong đó phải đảm bảo biểu độ do ngân hàng nhà nước quy định. Việc thanh toán giữa các bên phải được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo, sau ngày cam kết mua hoặc bán.

Căn cứ vào đối tượng xác định tỷ giá

Dựa trên đối tượng xác định tỷ giá và những thông tin khái niệm “Tỷ giá hối đoái là gì” chúng ta có thể phân chia thành”

  • Tỷ giá thị trường: Tỷ giá được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường hối đoái.
  • Tỷ giá chính thức:  Là tỷ giá do Ngân hàng trung ương của nước đó xác định. Trên cơ sở của tỷ giá này các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ hạn, hoán đổi.

Bên cạnh đó, còn có 2 loại tỷ giá mà bạn nên quan tâm bao gồm:

Tỷ giá hối đoái song phương

Tỷ giá hối đoái song phương hay còn có tên là Bilateral Exchange Rate: Được hiểu là giá của một đồng tiền nước này so với đồng tiền khác và không đề cập đến vấn đề lạm phát giữa hai nước. Nếu NEER > 1 thì đồng tiền đó mất giá (giảm giá) đối với tất cả đồng tiền còn lại , nếu NEER < 1 thì đồng tiền đó lên giá (được giá) đối với tất cả đồng tiền còn lại.

Tỷ giá hối đoái hiệu dụng

Tỷ giá hối đoái hiệu dụng (NEER–Nominal Efective Exchange rate) hay còn gọi có tên là tỷ giá danh nghĩa đa phương / tỷ giá danh nghĩa hiệu dụng. Biết được tỷ giá hối đoái là gì chúng ta có thể hiểu tỷ giá hối đoái hiệu dụng là chỉ số trung bình của một đồng tiền so với đồng tiền còn lại.

20 Vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái

Trong nền kinh tế hiện nay, đặc biệt là nền kinh tế Việt Nam, tỷ giá hối đoái giữ rất nhiều vai trò quan trọng:

  • Ảnh hưởng đến các hoạt động của xuất nhập khẩu: hàng hóa sẽ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế nếu tỷ giá trong nước đó tăng cao, hàng hóa rẻ hơn và ngược lại.
  • Có thể so sánh sức mua của các loại đồng tiền khác nhau: là phương tiện quan trọng để tính toán các giá trị ảnh hưởng đến hoạt động với các khách hàng nước ngoài, giao dịch ngoại thương,.. như tính giá trị nội tệ, hàng hóa, năng suất lao động trong nước với nước ngoài
  • Ảnh hưởng đến lạm phát: lạm phát sẽ xảy ra khi hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn vì tỷ giá hối đoái tăng
  • Ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế: nếu lạm phát được kiềm chế nhờ tỷ giá hối đoái giảm thì sẽ làm giảm phạm vi sản xuất, từ đó nền kinh tế tăng trưởng thấp

Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái

Có rất nhiều yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái:

Cán cân thanh toán

Đồng nội tệ giảm và ngoại tệ tăng trong trường hợp cán cân thanh toán quốc tế cao, đó là nguyên nhân làm cho tỷ giá hối đoái tăng và ngược lại

Thương mại

Tỷ giá hối đoái tăng do ảnh hưởng từ việc tốc độ tăng xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng nhập khẩu, dẫn đến cán cân thương mại giảm, nằm ở 2 khía cạnh sau đây:

  • Tình hình tăng trưởng kinh tế: Khi tốc độ tăng giá của sản phẩm xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng giá sản phẩm nhập khẩu thì tỷ lệ trao đổi thương mại tăng kéo theo giá trị đồng nội tệ tăng và tỷ giá giảm. Ngược lại tốc độ tăng nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu thì cán cân thương mại giảm khiến cho tỷ giá hối đoái tăng.
  • Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế cao thì đồng ngoại tệ tăng và nội tệ giảm khiến tỷ giá hối đoái tăng.

Lạm phát

Khi lạm phát trong nước có sự thay đổi sẽ làm cho các hoạt động thương ngoại bên ngoài nước cũng như ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ làm tỷ giá thay đổi

Lãi suất

Lãi suất ảnh hưởng đến đầu tư chứng khoán ở thị trường nước ngoài, từ đó ảnh hưởng đến ngoại tệ.

Ví dụ dễ hiểu như sau: Khi lãi suất tiền gửi ngân hàng tại Việt Nam thấp hơn ở Mỹ thì các nhà đầu tư sẽ có khuynh hướng gửi tiền tại các ngân hàng Mỹ. Khi đó sẽ làm giảm tỷ giá hối đoái USD và còn tỷ giá hối đoái VND sẽ tăng. Điều này làm đồng nội tệ bị mất giá.

Thu nhập

  • Tác động trực tiếp: nếu thu nhập của quốc gia đó tăng thì người dân sẽ có xu hướng muốn dùng hàng nhập khẩu nhiều hơn từ đó làm cầu ngoại tệ tăng làm tỷ giá tăng
  • Tác động gián tiếp: thu nhập cao thì người dân sẽ tăng mức chi tiêu trong nước làm cho tỷ lệ lạm phát cao làm tỷ giá tăng

21 Nêu hiểu biết của anh chị về chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay?

Trong bối cảnh thời cơ, thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen, kế thừa những thành tựu quan trọng và toàn diện đã đạt được trong năm 2020 và các năm trước đó, công tác điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng năm 2021 sẽ bám sát diễn biến trong, ngoài nước để cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021 được Quốc hội, Chính phủ đề ra. Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục chủ động, linh hoạt, nỗ lực chung tay cùng các bộ, ngành hỗ trợ nền kinh tế kiên cường vượt qua đại dịch, ổn định kinh tế vĩ mô và lạm phát, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh. Trong đó, tập trung vào các giải pháp trọng tâm sau đây:
Một là, tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 mà trọng tâm là sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2020/TT-NHNN; hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; hỗ trợ và tạo điều kiện để NHCSXH thực hiện tốt các chương trình, chính sách tín dụng ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế tín dụng đen.
Hai là, theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, tình hình dịch bệnh trong nước và quốc tế để chủ động điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu năm 2021 bình quân khoảng 4%, hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần phục hồi tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối. Điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường và mục tiêu CSTT, tạo điều kiện giảm chi phí vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế. Điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong và ngoài nước, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT; tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi.
Ba là, tiếp tục nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng góp phần thúc đẩy hiệu quả chu chuyển vốn trong nền kinh tế: (1) Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng gắn với xử lý nợ xấu; (2) Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành triển khai hiệu quả các mô hình thanh toán tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với triển khai mạnh mẽ Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, thực hiện chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau” của Chính phủ; (3) Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, xây dựng hạ tầng công nghệ, nâng cao chất lượng thanh toán, đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán, mở rộng thanh toán điện tử khu vực Chính phủ, dịch vụ công, đẩy nhanh chuyển đổi số hoạt động ngân hàng.

22 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở (theo luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung)? 

Sau cuộc suy thoáI kinh tế  năm 1920-1921, cục dự trữ liên bang Mĩ-NHTW (viết tắt là FED) thiếu vốn nghiêm trọng, nguồn thu nhập trước đó của FED chủ yếu thu từ nghiệp vụ chiết khấu, nhưng do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm lượng tiền vay chiết khấu giảm sút, dẫn tới giảm nguồn thu. FED bí tiền đành buôn bán chứng khoán kiếm lãi để tiếp tục hoạt động của mình. Trong khi thực hiện mua chứng khoán, bỗng nhiên các nhà điều hành thị trường  tiền tệ phát hiện thấy dự trữ trong các ngân hàng tăng lên còn các khoản cho vay và tiền gửi tăng lên gấp bội. Kết quả này được FED rút ra một bài học bổ ích từ thực tế vô tình là việc mua bán chứng khoán sinh lãi có thể làm thay đổi cơ số tiền tệ nhạy bén nhất. Thuật ngữ “thị trường mở” lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào những năm 20 của thế kỷ XX khi nghiệp vụ này bắt đầu được thi hành. Các nghiệp vụ của ngân hàng trung ương Mỹ về thị trường mở so với các công cụ khác có phạm vi rộng nhất vì nước này  có thị trường giấy tờ có giá  lớn nhất . Ở Anh nghiệp vụ TTM đóng vai trò quan trọng từ những năm 30. Ngân hàng Raykh Đức bắt đầu thi hành chính sách tiền tệ từ năm 1933.
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là gì ? Mặc dù khái niệm TTM đã được chúng ta tiếp cận từ thời kỳ đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay, song để trả lưòi câu hỏi này vẫn không ít người mơ hồ. Để trả lời câu hỏi trên hãy tiếp cận với một số quan điểm vể NVTTM như sau:
Theo quan điểm của nước Anh: “NVTTM là việc NHTW mua bán trái phiếu dài hạn của Chính phủ trên thị trường  trái phiếu có bảo đảm để làm tăng hoặc giảm mức cho vay của ngân hàng. Khi mua trên thị trường  mở, NHTW sẽ thanh toán cho các cá nhân và tổ chức đã bán trái phiếu cho nó. NVTTM về chứng khoán ngắn hạn cũng được thực hiện trên thị trường  tín phiếu. Nơi mà NHTW bán và mua trái phiếu chính phủ và kỳ phiếu thương mại để tác động đến lãi suất và duy trì sự ổn định của thị trường”.
Theo quan điểm của Mỹ: “ NVTTM là việc mua và bán các loại chứng khoán trên thị trường  tài chính được thực hiện bởi FED “
Theo tài liệu ở trường đại học VICTORIA NEWREALAND: “ Một NVTTM xảy ra khi NHTW thay đổi cơ số tiền tệ bằng việc mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường  mở”
Theo các quan điểm trên thì TTM là thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Tuỳ vào mỗi nước mà các loại chứng khoán được giao dịch là khác nhau về loại hình và thời hạn đồng thời việc quyết định chủ thể tham gia rộng hơn gồm các tổ chức tín dụng, tổ chức phi tín dụng, doanh nghiệp và cả cá nhân… Còn ở các nước NVTTM còn chưa phát triển thì mới chỉ có các NVTTM và các tổ chức tín dụng khác tham gia ( ví dụ ở Việt Nam). Tuỳ thuộc vào điều kiện hiện tại của mỗi nước mà chính phủ sẽ quy định khác nhau về hàng hoá, chủ thể tham gia, quy chế hoạt động của TTM. Chính sự khác nhau này sẽ quyết định khái niệm NVTTM ở mỗi nước.
Ví dụ: Đối với điều kiện hiện tại của Việt Nam
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành CSTT, TTM ở Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12/07/2000, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của NHTW theo phương pháp gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển nền kinh tế  đất nước. Do vậy đây là công cụ rất mới cả về khái niệm và nội dung hoạt động. Trong điều kiện của Việt Nam , NVTTM được hiểu như sau:
“NVTTM là nghiệp vụ NHTW thực hiện mua và bán ra các loại giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất ngắn hạn” ( “Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ưng – Đại học KTQD” )
Theo điều 8, quyết định số 85/200/QĐ -NHNN14 ngày 9/3/2000 của Thống Đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về ban hành quy chế NVTTM, có quy định giấy tờ có giá  được giao dịch gồm:
+ Tín phiếu kho Bạc
+ Tín phiếu NHTW
+ Các loại giấy tờ có giá  ngắn hạn khác do Thống Đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kỳ
Quy định trên cho thấy trong từng thời kỳ cụ thể, các loại giấy tờ có giá  được sử dụng trong NVTTM ở nước ta có thể tăng thêm ngoài tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhưng vẫn là giấy tờ có giá  ngắn hạn.
Tóm lại thì “ NVTTM là nghiệp vụ được thực hiện bởi NHTW mà nội dung cụ thể của nó là mua vào và bán ra các loại chứng khoán – các loại chứng khoán này không bị giới hạn về thời hạn trên TTM, thông qua đó NHTW tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng và gián tiếp tới lãi suất thị trường”
Do tính chất thời hạn của công cụ sử dụng trong NVTTM nên NVTTM không chỉ được thực hiện trên thị trường  tiền tệ ( thị trường  của các công cụ tài chính ngắn hạn) mà còn được thực hiện trên cả thị trường vốn (thị trường  của các công cụ tài chính dài hạn) hay nói cách khác là được thực hiện thị trường tài chính.
Trong khái niệm này cũng không có thời hạn về chủ thể tham gia TTM là cá nhân hay tổ chức. Vì bất kỳ đối tượng mà NHTW mua hoặc bán là ai thì NHTW vẫn thực hiện được chính sách tiền tệ (CSTT) tác động đến cơ số tiền tệ làm tăng giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế , mà cụ thể hoạt động của nó được hình trình bày ở phần tiếp theo.

23 Cách thức vận hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở như thế nào?

Phương thức mua bán giấy tờ có giá

– Phương thức mua hoặc bán giấy tờ có giá bao gồm:

  • Mua có kỳ hạn: là việc Ngân hàng Nhà nước mua giấy tờ có giá và nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá từ thành viên, đồng thời thành viên cam kết sẽ mua lại giấy tờ có giá đó sau một thời gian nhất định.
  • Bán có kỳ hạn: là việc Ngân hàng Nhà nước bán giấy tờ có giá và chuyển quyền sở hữu giấy tờ có giá cho thành viên, đồng thời cam kết sẽ mua lại giấy tờ có giá đó sau một thời gian nhất định.
  • Mua hẳn: là việc Ngân hàng Nhà nước mua giấy tờ có giá và nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá từ thành viên, không kèm theo cam kết bán lại giấy tờ có giá.
  • Bán hẳn: là việc Ngân hàng Nhà nước bán giấy tờ có giá và chuyển quyền sở hữu giấy tờ có giá cho thành viên, không kèm theo cam kết mua lại giấy tờ có giá.

Phương thức đấu thầu giấy tờ có giá

Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Trong đó:

Đấu thầu khối lượng

Là việc xét thầu trên cơ sở khối lượng giấy tờ có giá dự thầu của các thành viên, khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán của Ngân hàng Nhà nước và lãi suất do Ngân hàng Nhà nước thông báo.Theo đó:

– Ngân hàng Nhà nước sẽ:

Thông báo cho các thành viên mức lãi suất mua hoặc bán giấy tờ có giá
Thông báo hoặc không thông báo khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán của Ngân hàng Nhà nước trong thông báo đấu thầu của từng phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở

– Thành viên đăng ký dự thầu khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc bán theo mức lãi suất Ngân hàng Nhà nước thông báo

Có 3 trường hợp xảy ra:

Trường hợp 1: Tổng khối lượng dự thầu của các thành viên bằng hoặc thấp hơn khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán của Ngân hàng Nhà nước thì:

Khối lượng trúng thầu bằng tổng khối lượng dự thầu của các thành viên và khối lượng trúng thầu của từng thành viên là khối lượng dự thầu của thành viên đó

Trường hợp 2: Tổng khối lượng dự thầu của các thành viên vượt quá khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán của Ngân hàng Nhà nước thì:

Khối lượng trúng thầu của từng thành viên được phân bổ theo tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của từng thành viên và tương ứng với khối lượng giấy tờ có giá tính theo mệnh giá được làm tròn xuống theo bội số của mệnh giá giấy tờ có giá.

Khối lượng trúng thầu bằng tổng khối lượng trúng thầu của các thành viên và không vượt khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán của Ngân hàng Nhà nước.

Trường hợp 3: Tại đơn dự thầu của thành viên trúng thầu đăng ký nhiều loại giấy tờ có giá cần mua hoặc bán:

– Nếu không bao gồm các loại giấy tờ có giá mà Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ giao dịch tại mỗi phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước xét thầu xác định thứ tự ưu tiên từng loại giấy tờ có giá như sau:

  • Thời hạn còn lại của các giấy tờ có giá ngắn hơn
  • Giấy tờ có giá đăng ký bán hoặc mua có khối lượng lớn hơn

– Nếu bao gồm các loại giấy tờ có giá có quy định tỷ lệ giao dịch và các loại giấy tờ có giá không quy định tỷ lệ giao dịch, Ngân hàng Nhà nước xét thầu theo nguyên tắc tỷ lệ các loại giấy tờ có giá trúng thầu tương ứng với tỷ lệ giao dịch của các giấy tờ có giá đăng ký tại đơn dự thầu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Việc xác định thứ tự ưu tiên xét thầu trong số giấy tờ có giá không quy định tỷ lệ giao dịch và giấy tờ có giá có quy định trên.

Lưu ý:

– Căn cứ Mục tiêu Điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước lựa chọn phương thức đấu thầu phù hợp.

– Tại mỗi phiên đấu thầu, Ngân hàng Nhà nước chỉ áp dụng một trong 2 phương thức đấu thầu trên.

24 Ưu và nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở, từ đó rút ra nhận xét về công cụ này so với các công cụ thực hiện CSTT khác.

Sử dụng công cụ này sẽ đảm bảo độ linh hoạt và chính xác cao. Trong thị trường mở, tác động vào cung ứng tiền có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào để thay đổi dự trữ hoặc cơ số tiền lớn hay nhỏ. Ngân hàng trung ương có thể thực hiện bằng cách mua, bán khối lượng lớn hay nhỏ chứng khoán. Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó.

Ví dụ:

Nếu Ngân hàng trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở

Việc tác động đến khối lượng tiền tệ có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.

NHTW luôn có thể chủ động số lượng tiền “bơm” vào hay “hút” ra khỏi lưu thông bằng cách khống chế lượng mua và bán. Mặt khác tính linh hoạt còn thể hiện ở chỗ Ngân hàng trung ương vừa thực hiện mua ngay sau đó lại bán ngược lại.

Khi sử dụng công cụ này, Ngân hàng trung ương vẫn đảm bảo được tính cạnh tranh của Ngân hàng thương mại đặc biệt là trong đấu thầu lãi suất. Các ngân hàng tham gia nghiệp vụ thị trường mở một cách tự nguyện theo các nguyên tắc của thị trường, không mang tính chất bắt buộc và không phải chịu một “khoản thuế” như công cụ dự trữ bắt buộc.

– Nghiệp vụ thị trường mở có vai trò quan trọng trong việc phát triển thị trường tiền tệ tại Việt Nam. Sau khi các quy định của pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở chính thức có hiệu lực, thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá trở nên sôi động hơn với sự tham gia các ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

– Thị trường mở cũng tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sử dụng nguồn nhàn rỗi hiệu quả hơn đồng thời giúp các tổ chức tín dụng đa dạng các nghiệp vụ kinh doanh của mình. Nhờ đó mà các tổ chức tín dụng không chỉ đơn thuần thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống như cho vay, thẻ, bảo lãnh… mà còn sử dụng vốn để mua bán các giấy tờ có giá.

– Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở giúp ngân hàng Nhà nước chủ động điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc điều tiết cung cầu về vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng.

– Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở còn giúp ngân hàng Nhà nước phát tín hiệu ra ngoài thị trường về điều hành chính sách tiền tệ trong tương lai đồng thời đưa ra định hướng về lãi suất thị trường để hạn chế những biến động của lãi suất.

– Thông qua hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng Nhà nước có thể là chủ động điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và kiểm soát lãi suất thông qua việc mua hoặc bán các chứng từ có giá ngắn hạn, nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

– Hiện nay, thị trường tiền tệ của Việt Nam đang ở giai đoạn đầu, vì vậy, cần sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như chính sách lãi suất, dự trữ bắt buộc, tỷ giá, tái cấp vốn để bổ trợ lẫn nhau. Trước mắt, công cụ nghiệp vụ thị trường mở sẽ hỗ trợ các công cụ này, sau này có thể sẽ thay thế dần công cụ tái cấp vốn vào thời kỳ thích hợp.

Nhược điểm của công cụ thị trường mở

Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận được, nghiệp vụ thị trường mở còn có những hạn chế nhất định như sau:

– Thị trường mở là một bộ phận của thị trường tài chính. Do vậy, công cụ này sẽ chỉ phát huy tối đa hiệu quả khi có một thị trường tài chính phát triển. Hàng hoá của thị trường phải phong phú, có khả năng đáp ứng các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Về bản thân mình, NHTW phải có khả năng dự báo tốt vốn khả dụng của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

– Ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở tới cơ số tiền tệ có thể bị triệt tiêu bởi các tác động ngược chiều nên dự trữ của ngân hàng không tăng – giảm tương ứng sau các hoạt động mua – bán chứng khoán của NHTW. Các tác động ngược chiều này gồm có dòng chảy ngược chiều của vốn do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc do số dư tiền gửi của ngân sách tại NHTW tăng lên làm cho các hoạt động mua hoặc bán chứng khoán của NHTW bị triệt tiêu một phần hoặc toàn bộ.

– Khi lãi suất thị trường giảm như là một kết quả do tiền trung ương MB tăng lên, không phải lúc nào khối lượng tín dụng của nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng. Điều này còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức độ rủi ro và ổn định của môi trường đầu tư.

25 Trình bày hoạt động phát hành tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Khi nào ngân hàng Nhà nước phát hành tiền? Nguyên tắc phát hành tiền?

Căn cứ Điều 17 Luật ngân hàng nhà nước 2010 quy định:

“Điều 17. Phát hành tiền giấy, tiền kim loại

1. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, tiền kim loại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3. Ngân hàng Nhà nước bảo đảm cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền giấy, tiền kim loại cho nền kinh tế.

4. Tiền giấy, tiền kim loại phát hành vào lưu thông là tài sản “Nợ” đối với nền kinh tế và được cân đối bằng tài sản “Có” của Ngân hàng Nhà nước.”

Như vậy, Ngân hàng nhà nước Việt Nam trực thuộc chính phủ, chính phủ ủy quyền cho ngân hàng nhà nước thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan duy nhất được phát hành tiền tệ. Những loại tiền Việt Nam đồng khác không phải do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành đều không pháp và không có giá trị trong lưu thông hàng hóa. Việc phát hành tiền của Ngân hàng Nhà nước có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Ngân hàng Nhà nước không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ, mà còn quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện chính sách tiền tệ, bảo đảm ổn định giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng bản tệ.

* Nguyên tắc phát hành tiền tệ

Nguyên tắc khối lượng tiền phát hành ra phải đảm bảo bằng kim loại quý hiện có trong kho dự trữ của ngân hàng:

Tránh tình trạng đồng tiền mất giá trị, in tiền bừa bãi và lạm phát tăng cao, nguyên tắc này quy định khối lượng giấy bạc ngân hàng phát hành vào lưu thông phải được đảm bảo bằng dự trữ kim loại quý hiện có trong kho dự trữ của ngân hàng. Việc đảm bảo này phải được duy trì theo một trong các hình thức sau:

– Nhà nước quy định một hạn mức phát hành giấy bạc ngân hàng, khối lượng giấy bạc ngân hàng phát hành nằm trong hạn mức thì không cần phải có kim loại quý (vàng) làm đảm bảo, nhưng nếu vượt quá hạn mức đó thì khối lượng vượt quá hạn mức đòi hỏi phải có 100% vàng làm đảm bảo.

– Nhà nước sẽ quy định mức tối đa lượng giấy bạc trong lưu thông mà không quy định mức dự trữ vàng đảm bảo cho lượng giấy bạc đó. Nhưng nếu phát hành giấy bạc vượt quá mức quy định đó thì phải có vàng làm đảm bảo.

– Nhà nước quy định mức dự trữ vang tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành, phần còn lại phải được đảm bảo bằng các chứng từ có giá như thương phiếu, chứng khoán chính phủ và các tài sản có kháccủa ngân hàng trung ương.

Nguyên tắc phát hành tiền phải được đảm bảo bằng hàng hóa thể hiện trên mệnh giá kỳ phiếu thương mại:

Cùng với sự phát triển sản xuất hàng hóa, khối lượng hàng hóa lưu thông ngày càng tăng, đòi hỏi phải có nhiều tiền để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Mặt khác do yêu cầu đáp ứng chi tiêu của chính phủ. Sau chiến tranh thế giới II, nguyên tắc khối lượng tiền phát hành ra phải đảm bảo bằng kim loại quí hiện có trong kho dự trữ của ngân hàng gần như được chấm dứt. Thay vào đó là sự đảm bảo bằng hàng hóa cho việc phát hành tiền. Mặt khác quá trình lưu thông xuất hiện mới nhận thức về tiền, thế giới đã phi tiền tệ hóa vai trò của vàng, các loại tiền dấu hiệu ra đời và thay thế cho tiền kim loại vàng trong lưu thông. Để lưu thông tiền tệ ổn định, ngân hàng trung ương đặt ra nguyên tắc phát hành tiền được đảm bảo bằng giá trị hàng hóa.

Theo nguyên tắc này, đảm bảo duy nhất cho khối lượng tiền trong lưu thông giờ đây là hàng hóa, thông qua các chứng khoán của chính phủ hoặc các giấy nhận nợ được phát hành từ các doanh nghiệp. Yêu cầu phát hành tiền dựa vào cơ sở hàng hóa nhằm duy trì vừa đủ cho nhu cầu của nền kinh tế, trên cơ sở phương trình trao đổi của Fisher với nội dung như sau:

M.V = P.Y

Trong phương trình này, khối lượng tiền cần được tạo ra cho nền kinh tế (M), trong đó tiền mặt là bộ phận hạt nhân, phụ thuộc vào ba biến số: P (mức giá cả bình quân của hàng hóa), Y (tổng sản lượng), V (vòng quay tiền tệ).

Dựa vào nguyên tắc trên ngân hàng trung ương cần phải dự tính khối lượng tiền phát hành, tức là dự kiến mức cầu tiền. Nhu cầu tiền được quyết định bởi tổng sản phẩm quốc dân thực tế, sự biến động của giá cả dự tính và tốc độ lưu thông tiền tệ, ta có thể tính theo công thức:

M = P.Q – V

Trong đó:

M: Tốc độ tăng trưởng của tiền cung ứng.

P: Mức biến động giá dự tính.

Q: Tỷ lệ tăng trưởng thực tế dự tính.

V: Sự biến động tốc độ lưu thông tiền tệ dự tính.

Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, căn cứ vao lượng tiền cung ứng tăng thêm trong năm kế hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn: Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá và các loại cho vay khác.

Trong quá trình hoạt động thu chi của ngân sách, thông thường thu có tính chất thời vụ mà chi thì diễn ra thường xuyên, do đó tại một thời điểm ngân sách có thể bị thiếu vốn ngắn hạn. Để đáp ứng nhu cầu chi, được sự đồng ý của chính phủ, Quốc hội, Ngân hàng trung ương tạm ứng cho ngân sách theo quy định của chính phủ bằng nhiều hình thức đẻ xử lý thiếu hụt. Như vậy Ngân hàng trung ương đã cung ứng một khối lượng tiền cho ngân sách chi tiêu. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng trung ương đã phát hành tiền thông qua kênh ngân sách.

Nguyên tắc đảm bảo thực hiện đúng quy định pháp luật:

Giấy bạc do Ngân hàng Nhà nước phát hành phải đảm bảo tiêu chí cho mỗi loại tiền. Mỗi mệnh giá tiền phải có một bản thiết kế khác nhau, kích thước, trọng lượng khác nhau. Những chi tiết, hình vẽ, hoa văn, đặc điểm trên tờ tiền phải rõ ràng, thuần khiết, trong sáng, phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam và đều phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngân hàng Nhà nước trực tiếp thực hiện việc in ấn, đúc, bảo quản, vận chuyển và phát hành tiền theo quy định của pháp luật:

Điều 18. Thiết kế, in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành tiền vào lưu thông, tiêu hủy tiền

1. Ngân hàng Nhà nước thiết kế mệnh giá, kích thước, trọng lượng, hình vẽ, hoa văn và các đặc điểm khác của tiền trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

2. Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành tiền vào lưu thông, tiêu hủy tiền.

Điều 19. Xử lý tiền rách nát, hư hỏng

Ngân hàng Nhà nước quy định tiêu chuẩn phân loại tiền rách nát, hư hỏng; đổi, thu hồi các loại tiền rách nát, hư hỏng do quá trình lưu thông; không đổi những đồng tiền rách nát, hư hỏng do hành vi hủy hoại.

Điều 20. Thu hồi, thay thế tiền

Ngân hàng Nhà nước thu hồi và rút khỏi lưu thông các loại tiền không còn thích hợp và phát hành các loại tiền khác thay thế. Các loại tiền thu hồi được đổi lấy các loại tiền khác với giá trị tương đương trong thời hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định. Sau thời hạn thu hồi, các loại tiền thuộc diện thu hồi không còn giá trị lưu hành.

Điều 21. Tiền mẫu, tiền lưu niệm

Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc thiết kế, in, đúc, bán ở trong nước và nước ngoài các loại tiền mẫu, tiền lưu niệm phục vụ cho mục đích sưu tập hoặc mục đích khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

Điều 22. Ban hành, kiểm tra nghiệp vụ phát hành tiền

1. Chính phủ ban hành quy định về nghiệp vụ phát hành tiền, bao gồm việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành, thu hồi, thay thế, tiêu hủy tiền, chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ phát hành tiền.

2. Bộ Tài chính kiểm tra việc thực hiện nghiệp vụ in, đúc và tiêu hủy tiền.”

Điều 23. Các hành vi bị cấm

1. Làm tiền giả; vận chuyển, tàng trữ, lưu hành tiền giả

2. hủy hoại đồng tiền trái pháp luật.

3. Từ chối nhận, lưu hành đồng tiền đủ tiêu chuẩn lưu thông do Ngân hàng Nhà nước phát hành.

4. Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật.”

26 Trình bày lí do giải thích tại sao  Ngân hàng nhà nước là cơ quan độc quyền phát hành tiền?

NHNN là cơ quan duy nhất được phép phát hành tiền theo các quy định trong Luật hoặc được Chính phủ phê duyệt (mệnh giá tiền, lọai tiền, mức phát hành…) nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của Quốc gia. Chức năng quan trọng này được thể hiện rõ ở các Điều 18, 19, 20, 21 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010:

  • Thiết kế, in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành tiền vào lưu thông: Ngân hàng nhà nước thiết kế mệnh giá, kích thước, trọng lượng, hình vẽ, hoa văn và các đặc điểm khác của tiền (trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). Tổ chức thực hiện việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành tiền vào lưu thông, tiêu hủy tiền;
  • Xử lý tiền rách nát, hư hỏng: Ngân hàng nhà nước quy định tiêu chuẩn phân loại tiền rách nát, hư hỏng, đổi, thu hồi các loại tiền rách nát, hư hỏng do quá trình lưu thông, không đổi những đồng tiền rách nát hư hỏng do hành vi hủy hoại;
  • Thu hồi, thay thế tiền: Ngân hàng Nhà nước thu hồi và rút khỏi lưu thông các loại tiền không còn thích hợp và phát hành tiền khác thay thế;
  • Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc thiết kế, in, đúc, bán ở trong nước và nước ngoài các loại tiền mẫu, tiền lưu niệm phục vụ cho mục đích sư tập hoặc mục đích khác theo quy định của Thủ tướng chính phủ.

Hoạt động phát hành tiền tập trung vào NHNN vì các lí do sau:

  • Lượng tiền trong lưu thông giờ đây bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi ở ngân hàng. Sự mở rộng các hoạt động tín dụng sẽ làm tăng nhu cầu tiêu tiền mặt. Vì thế, khi nắm vai trò độc quyền phát hành,ngân hàng trung ương có cơ hội để kiểm soát khả năng mở rộng tín dụng và do đó điều chỉnh lượng tiền cần phát hành;
  • Giấy bạc do NHNN phát hành- một ngân hàng nhận được sư ưu đãi tối ưu từ Chính phủ – sẽ có uy tín cao trong lưu thông;
  • Việc phát hành tiền mang lại lợi nhuận, vì thế tốt nhất nên được tập trung vào một ngân hàng để tiện cho việc phân phối và sử dụng nguồn lợi đó một cách thích hợp;
  • Chính phủ muốn kiểm soát sự biến động của lượng tiền trong lưu thông trong phạm vi toàn quốc.

27 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành tiền qua những phương thức nào? Ưu và nhược điểm từng phương thức phát hành?

Thông qua nghiệp vụ tín dụng giữa NHTW và các ngân hàng thương mại

Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, căn cứ vao lượng tiền cung ứng tăng thêm trong năm kế hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn: Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá và các loại cho vay khác.

Khi Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay làm tăng bộ phận tiền mặt trong lưu thông hoặc làm tăng số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng trung ương. Kết quả làm tăng tiền trung ương (MB). Nư vậy, qua việc Ngân hàng trung ương cho các Ngân hàng thương mại vay, Ngân hàng trung ương đã phát hành một lượng tiền vào lưu thông còn ngân hàng thương mại nhận được một khoản tín dụng từ ngân hàng trung ương là một nguồn vốn giúp ngân hàng thương mại mơ rộng hoạt động kinh doanh.

Nghiệp vụ thị trường mở

Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng thương mại mua các giấy tờ có giá trên thị trường, nghĩa là đã đưa một khối lượng tiền vào lưu thông, hàng hoá mà Ngân hàng trung ương mua là các tín phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn. Khi Ngân hàng trung ương mua các chứng từ có giá trên thị trường thì tiền từ Ngân hàng trung ương ra lưu thông, kết quả là tiền cung ứng sẽ tăng lên bằng đúng giá trị của chứng từ có giá đó. Các chứng từ có giá được Ngân hàng trung ương nắm giữ trở thành tài sản có của Ngân hàng trung ương tương ứng với nó là một sự tăng lên của bên tài sản nợ hoặc tiền mặt hoặc tiền dự trữ. Kênh này đang được sử dụng phổ biến, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển vì đây là kênh rất linh hoạt.

Kênh phát hành thông qua ngân sách nhà nước

Trong quá trình hoạt động thu chi của ngân sách, thông thường thu có tính chất thời vụ mà chi thì diễn ra thường xuyên, do đó tại một thời điểm ngân sách có thể bị thiếu vốn ngắn hạn. Để đáp ứng nhu cầu chi, được sự đồng ý của chính phủ, Quốc hội, Ngân hàng trung ương tạm ứng cho ngân sách theo quy định của chính phủ bằng nhiều hình thức đẻ xử lý thiếu hụt. Như vậy Ngân hàng trung ương đã cung ứng một khối lượng tiền cho ngân sách chi tiêu. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng trung ương đã phát hành tiền thông qua kênh ngân sách.

Kênh phát hành tiền thông qua mua ngoại hối

Khi Ngân hàng trung ương thực hiện mua ngoại hối trên thị trường hối đoái, đây cũng là một kênh phát hành tiền. Khi ngân hàng trung ương mua ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương tăng, đồng thời một lượng tiền cũng được đưa vào lưu thông qua việc thanh toán tiền cho các tổ chức cá nhân bán ngoại tệ cho ngân hàng trung ương . Ngược lại khi ngân hàng trung ương bán ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương giảm, tiền trung ương cũng giảm.

Như vậy, tuy theo từng điều kiện nhất định mà các kênh cung ứng tiền của mỗi quốc gia được ngân hàng trung ương sử dụng phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Song dù tiền được cung ứng theo kênh nào cũng phải đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

28 Hoạt động tín dụng của ngân hàng Nhà nước khác gì với hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng? Lý do dẫn đến sự khác biệt đó?

Khái niệm

– Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh với nhau dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa

– Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các chủ thể khác trong xã hội ( Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian vì thế nó đóng vai trò vừa là người đi vay và cho vay)

Điểm giống nhau 

– Đều là quan hệ tín dụng, là quá trình sử dụng vốn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả có lợi tức, theo hình thức một bên ( người cấp) cấp tín dụng cho bên kia (người hưởng)

– Đều nhằm phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, qua đó thu lợi nhuận

– Đều có công cụ lưu thông , các công cụ này được trao đổi, mua bán trên thị trường tài chính.

Điểm khác nhau

Bản chất

– Tín dụng thương mại

+ Là hình thức tín dụng giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa ( việc đặt tiền trước cho người cung cấp mà chưa lấy hàng cũng là hình thức tín dụng thương mại vì người mua cho người bán tạm thời sử dụng vốn của mình)

– Tín dụng ngân hàng

+ Là quan hệ vay mượn ngân hàng của các doanh nghiệp dưới dạng hợp đồng tín dụng

Mục đích

– Tín dụng thương mại

+ Phục vụ cho nhu cầu sản xuất, thúc đẩy lưu thông tiêu thụ hàng hóa vì mục đích mục tiêu lợi nhuận, tạo điều kiện mở rộng mối quan hệ đối tác lâu bền giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

– Tín dụng ngân hàng

+ Hướng tới lợi nhuận từ tiền lãi cho vay vốn

Chủ thể tham gia

– Tín dụng thương mại

+ Các doanh nghiệp có quan hệ trao đổi hàng hóa dịch vụ ( thông thường không có khâu trung gian đứng giữa người sử dụng vốn và người có vốn)

– Tín dụng ngân hàng

+ Ngân hàng ( trung gian giữa người có vốn và người cần vốn) và các chủ thể khác trong xã hội ( các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế, các cá nhân,..)

Đối tượng

– Tín dụng thương mại

+ Hàng hóa bị mua bán chịu

– Tín dụng ngân hàng

+ Chủ yếu là tiền, có thể là cả hàng hóa

Tính chất tín dụng

– Tín dụng thương mại

+ Trực tiếp giữa các doanh nghiệp với nhau

– Tín dụng ngân hàng

+ Gián tiếp qua ngân hàng

Thời hạn

– Tín dụng thương mại

+ Ngắn hạn

– Tín dụng ngân hàng

+ Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn

Quy mô

– Tín dụng thương mại

+ Quy mô bị hạn chế ( tín dụng thương mại phát triển và vận động theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và rút ngắn chu kỳ, giảm chi phí nên góp phần làm phát triển sản xuất kinh doanh)

– Tín dụng ngân hàng

+ Quy mô lớn, thường độc lập với chu kỳ sản xuất kinh doanh

Chi phí sử dụng vốn

– Tín dụng thương mại

+ Thường không mất chi phí sử dụng vốn ( do hoạt động cấp tín dụng không có lãi trong một khoảng thời gian nhất định, một số trường hợp bên nợ còn được hưởng lãi chiết khấu trả sớm)

– Tín dụng ngân hàng

+ Chi phí sử dụng vốn là lãi vay ( lãi suất vay vốn của ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ)

Hình thức thể hiện

– Tín dụng thương mại

+ Hợp đồng trả chậm; thương phiếu gồm hối phiếu ( giấy đòi tiền vô điều kiện do người bán phát hành) và lệnh phiếu ( giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người mua phát hành)

– Tín dụng ngân hàng

+ Đa dạng và phong phú hơn bao gồm: hợp đồng tín dụng từng lần, cho vay theo thời hạn  mức tín dụng , thỏa thuận tín dụng tuần hoàn, cho vay đầu tư dài hạn,…

Ưu điểm

– Tín dụng thương mại

+ Đây được xem là phương thức tài trợ tiện dụng và rất linh hoạt trong kinh doanh

+ Thủ tục nhanh gọn, đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu thụ hàng hóa, đẩy nhanh vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh

– Tín dụng ngân hàng

+ Không bị hạn chế chủ thể tham gia, số lượng tín dụng, thời gian cho vay, phương thức, phương hướng,…

+ Thu nhập từ lãi tiền gửi tại ngân hàng, tổ chức tín dụng là những khoản thu nhập được miễn thuế thu nhập cá nhân

+ Ngân hàng đòi hỏi có hình thức bảo đảm nên hạn chế được rủi ro. Các giao ước cho vay của ngân hàng giúp cho các ngân hàng đảm bảo an toàn cho mình và góp phần tích cực đảm bảo cho người cho vay

Nhược điểm

– Tín dụng thương mại

+ Chỉ giữa các doanh nghiệp nên cần có sự quen biết đối với chủ thể tham gia và có sự tín nhiệm lẫn nhau

+ Thời hạn bị phụ thuộc vào khả năng và chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Số lượng vốn bị hạn chế, phụ thuộc vào hàng hóa mà doanh nghiệp hiện có

+ Dễ xảy ra rủi ro cao

– Tín dụng ngân hàng

+ Thủ tục rườm rà, mất nhiều thời gian, đòi hỏi tài sản cầm cố

+ Áp đặt giao ước lên khách hàng

29 Trình bày các phương thức hoạt động tín dụng của ngân hàng Nhà nước? So sánh phương thức tái cấp vốn với phương thức cho vay cứu cánh (cho vay nhằm phục hồi khả năng thanh toán).

Tiêu chí Cho vay tái cấp vốn Cho vay đặc biệt
Đối tượng – Các tổ chức tín dụng  đang hoạt động bình thường.

– Kể từ ngày Ngân hàng Nhà nước đặt tổ chức tín dụng vào kiểm soát đặc biệt, khoản cho vay tái cấp vốn đối với tổ chức tín dụng đó được chuyển thành khoản cho vay đặc biệt

– Tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đe doạ sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng;

–  Tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả do sự cố nghiêm trọng khác.

à Các TCTD rơi vào trường hợp kiểm soát đặc biệt.

Mục đích Nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng. Mục đích cuối cùng là nhằm cung ứng vốn cho nền kinh tế và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia Nhằm phục hồi khả năng thanh toán của các TCTD khi các TCTD này lâm và tình trạng mất khả năng thanh toán để tránh trường hợp các TCTD này đi đến phá sản; từ đó gây ảnh hưởng đến và làm mất uy tín cũng như hoạt động bình thường của hệ thống ngân hàng. Hoạt động này không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà nghiêng về mục đích thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ.
Hình thức – Cho vay theo hồ sơ tín dụng;

-Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá;

-Cho vay có cầm cố bảo lãnh thương phiếu và các giấy tờ có giá.

Cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi đến mức 0%.
Thời hạn Ngắn hạn: dưới 12 tháng Tối đa không quá 2 năm đối hoặc theo phương án phục hồi đã được phê duyệt

 

30 Giải thích tại sao mục tiêu hoạt động của ngân hàng Nhà nước là không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng khi thực hiện hoạt động tín dụng (ví dụ cho vay) ngân hàng Nhà nước lại quy định lãi suất?

Mục tiêu hoạt động của NHNN là ổn định giá trị của đồng tiền, đảm bảo hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng hiệu quả, an toàn, thúc đẩy phát triển kt. Mục tiêu của các NHTM mới là lợi nhuận và an toàn. NHNN cho NH khác, TCTD vay tiền khi mà các NH, TCTD đó đang trong tình trạng ko có khả năng chi trả nên mục tiêu lợi nhuận là ko thể đạt được, vì là đảm bảo ổn định đồng tiền và lạm phát nên nhà nc sẽ vẫn áp quy định lãi suất.

31 Tại sao ngân hàng Nhà nước lại không bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân thông thường vay vốn trừ khi có chỉ định của Chính Phủ?

Không phải TCTD nào NHNN cũng đứng ra cho vay, chỉ có nhưng TCTD lớn hoặc NH nào có nguy cơ phá sản mà ảnh hưởng đến nền kinh tế thì NHNN mới ra tay cứu cánh.

32 Việc quy định ngân hàng Nhà nước chỉ bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ nhưng lại không bảo lãnh cho các tổ chức thông thường vay vốn nước ngoài phải chăng đã tạo nên sự phân biệt đối xử giữa các tổ chức này? (đều là doanh nghiệp).

NHNN bảo lãnh cho TCTD vay vốn nc ngoài vì quy mô của TCTD nó to hơn TC khác, biến động trong TCTD đấy ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của đồng tiền nhiều hơn là các TC khác. Các NHTM thì mới là người có thể bảo lãnh cho các doanh nghiệp, tổ chức khác vay vốn nc ngoài. Vì những cái này quy mô bé, sức ảnh hưởng ko lớn nên chỉ cần NHTM bảo lãnh là đc rồi.

33 Tại sao ngân hàng Nhà nước lại phải quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối? Việc quản lý được thực hiện như thế nào?

Hồi những năm 1990-2000 là vẫn có thể mua bán ngoại tệ ( đô la) được. Quy định chỉ NHNN quản lý ngoại hối ms dc áp dụng. Vì nhiều lý do. VD sau cái thời 1975  tầm 1990 trở đi là VN bắt đầu công cuộc hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp từ nc ngoài đổ về VN bắt đầu tăng lên nên họ toàn trả USD, lượng kiểu hối từ nước ngoài đổ về VN thời đó cũng rất nhiều chủ yếu là USD, người dân cx chuộng tiền đô hơn, thích tích trừ tiền đô hơn tiền Việt nên dẫn đến hiện tượng đô la hoá. Để can thiệp sớm và tránh ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và giá trị tiền việt nên chỉ có NHNH quản lý ngoại hối để tránh việc đó

Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện việc quản lý ngoại hối dưới các hình thức:

Thứ nhất, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối. Một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của ngân hàng nhà nước là ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, điều hành hoạt động ngoại hối của đất nước. Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, NHNN là cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối.

Thứ hai, cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối. Hoạt động trong lĩnh vực ngoại hối đều phải xin phép và được cấp phép, nghĩa là để được hoạt động ngoại hối,các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác phải xin giấy phép hoạt động ngoại hối.

Thứ ba, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về ngoại hối. Hoạt động thanh tra ngân hàng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của NHNN. Thanh tra ngân hàng là một công cụ sắc bén không thể thiếu của NHNN để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nói chung và chức năng QLNH nói riêng

Thứ tư, hoạt động quản lý ngoại hối khác. NHNN còn tiến hành QLNH thông qua các hoạt động: Điều hành tỷ giá, thực hiện chính sách can thiệp thị trường ngoại hối và vàng; Công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ; Tổ chức, điều hành và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước.

Câu hỏi lý thuyết luật ngân hàng chương 3

(Địa vị pháp lý của các tổ chức tín dụng)

  1. Thế nào là kiểm soát đặc biệt. Việc đặt các tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt có ý nghĩa gì?

Trong Thông tư này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Kiểm soát đặc biệt là việc một tổ chức tín dụng bị đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán hoặc vi phạm nghiêm trọng pháp luật dẫn đến nguy cơ mất an toàn hoạt động.”

2 Kiểm soát đặc biệt áp dụng với những chủ thể nào và các hình thức kiểm soát ra sao?

*Các trường hợp tổ chức tín dụng bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt

– Có nguy cơ mất khả năng chi trả;

– Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng thanh toán.

– Khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất.

– Hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

– Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% hoặc tỷ lệ cao hơn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ; trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 06 tháng liên tục.

Các hình thức kiểm soát đặc biệt

Theo Thông tư 07/2013/TT-NHNN quy định, Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt căn cứ vào thực trạng tài chính, mức độ rủi ro và vi phạm pháp luật của tổ chức tín dụng, dưới 1 trong 2 hình thức:

– Giám sát đặc biệt là hình thức kiểm soát đặc biệt được thực hiện thông qua việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp giám sát hoạt động hàng ngày của tổ chức tín dụng.

– Kiểm soát toàn diện là hình thức kiểm soát đặc biệt được thực hiện thông qua việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp kiểm soát trực tiếp, toàn diện hoạt động hàng ngày của tổ chức tín dụng.

3 Bằng những quy định của pháp luật ngân hàng Việt Nam, hãy chứng minh một trong các mục tiêu của pháp luật ngân hàng là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.

Tại Việt Nam, cơ sở pháp lý đầu tiên điều chỉnh hoạt động Bảo hiêm tiền gửi( BHTG)  là Nghị định 89 về BHTG, tiếp đến là Nghị định 109 và hiện nay là Luật BHTG. Luật BHTG có hiệu lực từ ngày 01/01/2013, theo đó, quyền lợi của người gửi tiền, sự an toàn lành mạnh của TCTD được đảm bảo tốt hơn khi pháp luật về BHTG được nâng lên ở mức cao nhất là luật.

Với việc ra đời của Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 và hệ thống các văn bản hướng dẫn cùng với Luật BHTG đã tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động BHTG, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, sự ổn định, lành mạnh của hệ thống các TCTD. Đây là lần đầu tiên hoạt động BHTG tại Việt Nam có được  hành lang pháp lý quy định và hướng dẫn đầy đủ nhất. Điều này thể hiện sự quan tâm ngày càng lớn của Đảng, Nhà nước ta đối với chính sách bảo vệ người gửi tiền.

Theo Luật BHTG, BHTG là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được BHTG trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.

BHTG Việt Nam là tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Tổ chức này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Hiện nay, BHTGVN đang bảo vệ cho hơn 4 triệu tỷ đồng tiền gửi bằng Việt Nam đồng của cá nhân tại gần 1.300 tổ chức tham gia BHTG trên toàn quốc, bao gồm: ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô. Người gửi tiền không phải nộp phí BHTG mà phí này do tổ chức nhận tiền gửi đóng cho BHTGVN theo quy định của pháp luật.

Khi tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, phá sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền luôn được bảo đảm. BHTGVN thay mặt Chính phủ, NHNN thực hiện chi trả cho người gửi tiền trong hạn mức BHTG. Hạn mức BHTG được xác định trên cơ sở: năng lực tài chính của tổ chức BHTG, thực trạng tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, quy mô tiền gửi và thông lệ, chuẩn mực quốc tế.

Theo thông lệ quốc tế và khuyến nghị của Hiệp hội BHTG quốc tế, hạn mức trả tiền bảo hiểm nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm được cho phần lớn người gửi tiền, nhưng phải đảm bảo có một tỷ lệ đáng kể giá trị tiền gửi tuân theo kỷ luật thị trường (nghĩa là chịu rủi ro theo biến động thị trường). Với hạn mức BHTG theo quy định hiện hành là 75 triệu đồng, BHTGVN có khả năng bảo vệ phần lớn người gửi tiền, khá gần với khuyến nghị của Hiệp hội BHTG quốc tế. Phần vượt hạn mức BHTG, người gửi tiền sẽ được nhận trong quá trình xử lý tổ chức tham gia BHTG.

Từ khi được thành lập, BHTGVN đã chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền kịp thời, đúng quy định, góp phần nâng cao niềm tin công chúng đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. Người gửi tiền còn được BHTGVN bảo vệ gián tiếp gắn với “vòng đời” của tổ chức tham gia BHTG từ khi được thành lập cho đến khi rút khỏi thị trường thông qua các nghiệp vụ BHTG khác nhằm góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng như: Cấp và thu hồi chứng nhận tham gia BHTG, giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ, tham gia kiểm soát đặc biệt…

Bên cạnh triển khai các hoạt động nghiệp vụ, BHTGVN cũng tích cực tuyên truyền chính sách BHTG đến người gửi tiền và đây được coi là một trong những mục tiêu hàng đầu của BHTGVN. Khi người dân hiểu rõ chính sách BHTG, niềm tin của họ vào hệ thống ngân hàng sẽ cao hơn. Rủi ro đột biến rút tiền gửi sẽ ít có khả năng xảy ra, hệ thống ngân hàng vì thế sẽ hoạt động an toàn hơn.

Chính phủ và NHNN đang quyết liệt tái cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu giai đoạn 2. Một trong những nguyên tắc quan trọng được quán triệt trong quá trình này là ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD có hiệu lực từ ngày 15/1/2018 đã trao cho BHTGVN trách nhiệm lớn hơn nhằm tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các TCTD, cụ thể: BHTGVN được mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ trong quá trình cơ cấu lại TCTD được kiểm soát đặc biệt. BHTGVN cũng trực tiếp hỗ trợ tài chính và hỗ trợ thanh khoản cho TCTD trong diện kiểm soát đặc biệt thông qua khoản vay đặc biệt theo phương án phục hồi đã được phê duyệt, theo chỉ định của NHNN.

Bên cạnh đó, BHTGVN phối hợp cùng Ban Kiểm soát đặc biệt và các cơ quan có liên quan để đánh giá tính khả thi đối với phương án phục hồi QTDND, tổ chức TCVM và công ty tài chính. Đối với TCTD không thể khôi phục hoạt động bình thường mà buộc phải cho phá sản, trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Chính phủ quyết định chủ trương phá sản, BHTGVN phối hợp cùng Ban kiểm soát đặc biệt, các cơ quan có liên quan và TCTD đó xây dựng phương án phá sản trình NHNN.

Mặt khác, để nâng cao hiệu quả giám sát tổ chức tham gia BHTG, BHTGVN đã ban hành Quy chế thông tin báo cáo về tiền gửi được bảo hiểm (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018). Đây văn bản đầu tiên tại Việt Nam quy định về cách thức thu thập thông tin về tiền gửi được bảo hiểm từ tổ chức tham gia BHTG để xây dựng hệ thống dữ liệu đáp ứng yêu cầu hoạt động nghiệp vụ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của BHTGVN quy định tại Luật BHTG.

Có thể nói, BHTGVN đã và đang góp phần quan trọng vào công cuộc tái cấu trúc hệ thống các TCTD, ngày càng khẳng định vị thế là công cụ đắc lực của Chính phủ, NHNN trong sứ mệnh bảo vệ người gửi tiền. Để sử dụng nguồn lực của BHTGVN tốt hơn trong các nhiệm vụ được giao và khẳng định được vai trò của BHTGVN trong quá trình tái cơ cấu các TCTD, BHTGVN cần nỗ lực hơn nữa, nâng cao chất lượng trong các hoạt động nghiệp vụ, xây dựng chiến lược, định hướng phát triển trong tương lai nhằm thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng Việt Nam.

4 Hiểu thế nào là tổ chức tín dụng? So sánh tổ chức tín dụng với các tổ chức kinh doanh khác. 

Hoạt động tín dụng là hoạt động mang tính nghề nghiệp của tổ chức tín dụng. Ngoài ra, đối với tổ chức tín dụng kinh doanh đa năng tổng hợp ngoài các hoạt động nghiệp vụ truyền thống còn thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh không truyền thống khác như kinh doanh chứng khoán, lĩnh vực bảo hiểm,….. ở nước ta. Căn cứ theo quy đinh tại Khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng 2010 sđbs 2017 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 16/6/2010 quy định cụ thể như sau:

Điều 4. Giải thích từ ngữ

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tỉn dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vỉ mô và quỹ tín dụng nhân dân”.

Xét về mặt bản chất thì tổ chức tín dụng là doanh nghiệp. Tuy vậy, tổ chức tín dụng có những đặc điểm riêng mà dựa vào đó có thể nhận biết, phân biệt chúng với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực, ngành nghề khác trong nền kinh tế.

Thứ nhất, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.

Thứ hai, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt doanh nghiệp là tổ chức tín dụng với các loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Nội dung kinh doanh chủ yếu của tổ chức tín dụng là kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ: Nhận tiền gửi; cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

Đặc điểm này có ý nghĩa quyết định đến cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với việc tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng. Bởi vì, hoạt động ngân hàng do các tổ chức tín dụng thực hiện phần lớn là hoạt động kinh doanh tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao do tính kéo dài của các quan hệ kinh doanh. Những tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng thường có tính phản ứng dây chuyền. Chẳng hạn, một tổ chức tín dụng cho vay không thu hồi được vốn có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Những người gửi tiền khác có thể do tâm lí hoang mang mà đồng loạt đến các tổ chức tín dụng rút tiền gửi, đẩy các tổ chức tín dụng vào tình trạng thiếu khả năng chi trả…

Thứ ba, tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lí nhà nước của Ngân hàng nhà nước Việt Nam và thuộc phạm vi áp dụng pháp luật ngân hàng

5 Hiểu thế nào là tổ chức tín dụng nước ngoài? tổ chức tín dụng nước ngoài muốn thực hiện hoạt động ngân hàng tại Việt Nam có thể được thành lập dưới hình thức nào?

Điều 2.8 và Điều 2.9 VBHN 48/VBHN-NHNN định nghĩa như sau:

  • Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập ở nước ngoài theo quy định của pháp luật nước ngoài.
  • Tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng là tổ chức được thành lập ở nước ngoài theo quy định của pháp luật nước ngoài và được kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

Điều kiện cấp Giấy phép hoạt động

Điều 20.4 Luật các tổ chức tín dụng quy định văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng được cấp Giấy phép khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng là pháp nhân được phép hoạt động ngân hàng ở nước ngoài;

b) Quy định của pháp luật của nước nơi tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng đặt trụ sở chính cho phép tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng được phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam.

6 So sánh tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng? Lý giải sự khác biệt đó.

Tiêu chí Ngân hàng Phi ngân hàng
Các hoạt động 1. Nhận tiền gửi: nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

2. Cấp tín dụng: cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

3. Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.

1. Nhận tiền gửi: nhận tiền của tổ chức dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

2. Cấp tín dụng: cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

Loại hình 1. Ngân hàng thương mại;

2. Ngân hàng chính sách;

3. Ngân hàng hợp tác xã

1. Công ty tài chính;

2. Công ty cho thuê tài chính

3. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.

 

7 Trình bày các điều kiện để được thành lập tổ chức tín dụng phi ngân hàng?

Điều kiện 

– Có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định;

– Người quản lý; người điều hành; thành viên Ban kiểm soát có đủ các tiêu chuẩn; điều kiện theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;

– Có Điều lệ phù hợp với quy định của pháp luật;

– Có Đề án thành lập; phương án kinh doanh khả thi; không gây ảnh hưởng đến sự an toàn; ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng; không tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh; hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ chức tín dụng.

– Điều kiện đối với cổ đông sáng lập:

+ Không phải là cổ đông chiến lược; cổ đông sáng lập; chủ sở hữu; thành viên sáng lập của tổ chức tín dụng khác được thành lập và hoạt động tại Việt Nam;

+ Không được dùng vốn huy động; vốn vay của tổ chức; cá nhân khác để góp vốn;

+ Ngoài các điều kiện trên, nếu cổ đông sáng lập là cá nhân phải đáp ứng điều kiện sau đây: Mang quốc tịch Việt Nam; Không thuộc những đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp theo quy định củaLuật doanh nghiệp, Luật Cán bộ, công chức. Nếu cổ đông sáng lập là tổ chức phải đáp ứng điều kiện sau đây: Được thành lập theo pháp luật Việt Nam; Kinh doanh có lãi trong 03 năm tài chính liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm nộp hồ sơ bổ sung để được xem xét cấp Giấy phép; Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế và bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật đến thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép.

– Đối với tổ chức là doanh nghiệp Việt Nam (trừ ngân hàng thương mại Việt Nam):

Có vốn chủ sở hữu tối thiểu 500 tỷ đồng, tổng tài sản tối thiểu 1.000 tỷ đồng trong 03 năm tài chính liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề kinh doanh có yêu cầu mức vốn pháp định, phải đảm bảo vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm liền kề trước thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép trừ đi vốn pháp định tối thiểu bằng số vốn cam kết góp;

Trường hợp doanh nghiệp được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, phải tuân thủ việc góp vốn theo các quy định của pháp luật có liên quan;

– Đối với ngân hàng thương mại Việt Nam:

+ Có tổng tài sản tối thiểu 100.000 tỷ đồng, tuân thủ đầy đủ các quy định về quản trị rủi ro và trích lập dự phòng đầy đủ theo quy định tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm nộp hồ sơ bổ sung để được xem xét cấp Giấy phép;

+ Không vi phạm các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm nộp hồ sơ bổ sung để được xem xét cấp Giấy phép;

– Đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sau khi góp vốn thành lập;

– Không bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong 02 năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép.

– Tổ chức tín dụng nước ngoài phải có hoạt động lành mạnh; đáp ứng các điều kiện về tổng tài sản có; tình hình tài chính; các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;

– Tổ chức tín dụng nước ngoài phải có văn bản cam kết hỗ trợ về tài chính; công nghệ; quản trị; điều hành; hoạt động cho tổ chức tín dụng liên doanh; tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài; bảo đảm tổ chức duy trì giá trị thực của vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định; thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn của pháp luật;

– Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã ký kết thỏa thuận với Ngân hàng Nhà nước về thanh tra; giám sát hoạt động ngân hàng; trao đổi thông tin giám sát an toàn ngân hàng; và có văn bản cam kết giám sát hợp nhất theo thông lệ quốc tế đối với hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài.

8 Đối tượng nào bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt? Tổ chức tín dụng nước ngoài khi lâm vào tình trạng kiểm soát đặc biệt có được đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt hay không?

Để đảm bảo an toàn của hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng của mình, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng việc kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán.

Luật tổ chức tín dụng 2010 quy định:

Điều 145. Báo cáo khó khăn về khả năng chi trả

Khi có nguy cơ mất khả năng chi trả, tổ chức tín dụng phải kịp thời báo cáo với Ngân hàng Nhà nước về thực trạng tài chính, nguyên nhân và các biện pháp đã áp dụng, dự kiến áp dụng để khắc phục

Điều 146. Áp dụng kiểm soát đặc biệt

1. Kiểm soát đặc biệt là việc một tổ chức tín dụng bị đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán.

2. Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện kịp thời những trường hợp có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán.

*Các trường hợp tổ chức tín dụng bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt

– Có nguy cơ mất khả năng chi trả;

– Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng thanh toán.

– Khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất.

– Hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

– Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% hoặc tỷ lệ cao hơn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ; trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 06 tháng liên tục.

9 Trình bày trình tự tiến hành kiểm soát đặc biệt. Kết thúc thời hạn kiểm soát đặc biệt mà tổ chức tín dụng được áp dụng thủ tục không khôi phục lại tình trạng hoạt động bình thường thì tổ chức tín dụng sẽ được xử lý như thế nào?

Khi một tổ chức tín dụng phải đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt thì Thống đốc Ngân hàng nhà nước ra quyết định đặt tổ chức tín dụng đó vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Quyết định này ghi rõ tên tổ chức tín dụng, lí do, thời hạn kiểm soát đặc hiệt, họ tên những thành viên được Thống đốc Ngân hàng nhà nước cử làm nhiệm vụ kiểm soát và nhiệm vụ cụ thể của ban kiểm soát đặc biệt. Quyết định này được Ngân hàng nhà nước thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các cơ quan hữu quan trên địa bàn để phối họp thực hiện. Ngân hàng nhà nước quy định cụ thể việc cụng bố thông tin kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng.

Ban kiểm soát đặc biệt được thành lập sẽ thực hiện nhiệm vụ trong khi tiến hành kiểm soát, ban kiểm soát có thẩm quyền sau:

– Chỉ đạo hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc) tổ chức tín dụng được đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt xây dựng phương án củng cố tổ chức và hoạt động;

– Chỉ đạo và giám sát việc triển khai các giải pháp được nêu trong phương án củng cố đã được ban kiểm sát đặc biệt thông qua;

– Báo cáo Ngân hàng nhà nước về tình hình hoạt động, kết quả thực hiện phương án củng cố tổ chức tín dụng;

– Được quyền đình chỉ những hoạt động không phù hợp với phương án củng cố đã được thông qua các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng có thể gây phương hại đến lợi ích của người gửi tiền;

– Có quyền tạm đình chỉ quyền quản trị, điều hành, kiểm soát tổ chức tín dụng của các thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) nếu xét thấy cần thiết;

– Có quyền yêu cầu người quản trị, người điều hành miễn nhiệm, đình chỉ công tác đối với những người có hành vi vi phạm, không chấp hành phương án củng cố đã được thông qua;

– Kiến nghị Ngần hàng nhà nước quyết định gia hạn hoặc chấm dứt thời hạn kiểm soát đặc biệt, cho vay đặc biệt hoặc chẩm dứt cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng, mua cổ phần của tổ chức tín dụng, thanh lí, thu hồi giấy phép hoạt động của tổ chức tín dụng, tiếp quản, sáp nhập, hợp nhất, mua lại bắt buộc tổ chức tín dụng;

– Yêu cầu tổ chức tín dụng nộp đơn yêu cầu toà án mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.

Ban kiểm soát đặc biệt chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trong quá trình thực hiện kiểm soát đặc biệt.

Đối với tổ chức tín dụng khi đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt thì hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc) tổ chức tín dụng đó có trách nhiệm sau đây:

– Xây dựng phương án củng cổ tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng trình ban kiểm soát đặc biệt thông qua và tổ chức triển khai thực hiện phương án đó;

– Tiếp tục quản trị, kiểm soát, điều hành hoạt động và bảo đảm an toàn tài sản cùa tổ chức tín dụng, trừ trường hợp bị ban kiểm soát đặc biệt đình chỉ, tạm đình chỉ quyền quản trị, điều hành, kiểm soát tổ chức tín dụng;

– Chấp hành yêu cầu của ban kiểm soát đặc biệt liên quan đến tổ chức, quản trị, kiểm soát, điều hành tổ chức tín dụng trong phạm vi quyền hạn của ban kiểm soát đặc biệt;

– Thực hiện yêu cầu của Ngân hàng nhà nước trong phạm vỉ thẩm quyền của Ngân hàng nhà nước đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.

Trường hợp chấm dứt kiểm soát đặc biệt

Điều 152 Luật các tổ chức tín dụng 2010 và Thông tư 07/2013/TT-NHNN quy định:

Ngân hàng Nhà nước quyết định chấm dứt kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng trong các trường hợp sau đây:

– Hoạt động của tổ chức tín dụng trở lại bình thường,

– Trong quá trình kiểm soát đặc biệt, tổ chức tín dụng được sáp nhập, hợp nhất vào một tổ chức tín dụng khác;

– Tổ chức tín dụng không khôi phục được khả năng thanh toán. Khi tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước chấm dứt kiểm soát đặc biệt do không khôi phục được khả năng thanh toán, Ngân hàng Nhà nước gửi văn bản tới Tòa án về việc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi thanh toán và yêu cầu tổ chức tín dụng đó làm đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.

Theo Thông tư 07/2013/TT-NHNN: Quyết định chấm dứt kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng được thông báo tới các cơ quan và tổ chức sau:

+ Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt;

+ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong trường hợp tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt là quỹ tín dụng nhân dân;

+ Ngân hàng Nhà nước chi nhánh;

+ Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam;

+ Ngân hàng hợp tác xã trong trường hợp tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt là quỹ tín dụng nhân dân;

+ Bộ Tài chính trong trường hợp tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt là công ty niêm yết, tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt có công ty con hoặc công ty kiểm soát hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm;

+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tổ chức tín dụng đặt trụ sở chính; Ủy ban nhân dân các cấp xã, cấp huyện (đối với quỹ tín dụng nhân dân);

+ Các cơ quan và tổ chức khác có liên quan do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định.

10 Khi nào thì tổ chức tín dụng được coi là lâm vào tình trạng phá sản? So sánh dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản của tổ chức tín dụng với doanh nghiệp. Giải thích vì sao lại có sự khác biệt đó?

Căn cứ theo quy định tại Điều 155 Luật các tổ chức tín dụng 2010 như sau:

1. Sau khi Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng vẫn lâm vào tình trạng phá sản, thì tổ chức tín dụng đó phải làm đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.

2. Khi nhận được yêu cầu mở thủ tục phá sản tổ chức tín dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật về phá sản.

Tình trạng phá sản của các doanh doanh nghiệp thông thường có thể được xác định theo các tiêu chí khác nhau như tiêu chí định lượng, tiêu chí kế toán hoặc tiêu chí định tính. Luật phá sản hiện đại thường sử dụng tiêu chí định tính (có nợ đến hạn mà không thanh toán) hoặc kèm theo các điều kiện như nợ một khoản tiền nhất định, nợ trong thời hạn nhất định mà không trả…
Tuy nhiên, đối với một TCTD, do tính đặc thù của các khoản nợ và quyền đòi nợ của các chủ nợ mà việc xác định tình trạng phá sản của các TCTD không giống như các doanh nghiệp kinh doanh thông thường. Nợ của các TCTD chủ yếu là các khoản nợ từ người gửi tiền, các chủ nợ này được luật pháp trao cho họ quyền được đòi nợ bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp nợ đó chưa đến hạn. Chính vì vậy, ta không thể sử dụng tiêu chí “có nợ đến hạn, chủ nợ có yêu cầu mà không được thanh toán” để xác định tình trạng phá sản của các TCTD. Nên xác định tình trạng mất khả năng thanh toán của TCTD là tình trạng TCTD không chi trả được các khoản nợ khi có yêu cầu, “ở thời điểm bất kỳ, khi khoản nợ đến hạn ngân hàng không có tiền để chi trả tức là mất khả năng thanh toán”
Với các doanh nghiệp thông thường, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu sẽ là cơ sở cho việc khởi phát một quá trình phá sản doanh nghiệp, thông qua việc phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và tòa án tiến hành thủ tục phá sản. Trái lại, với các TCTD, tình trạng mất khả năng thanh toán chưa đủ để khởi phát một quá trình giải quyết phá sản tại tòa án. Do tính “dễ tổn thương” và khả năng ảnh hưởng dây chuyền của ngân hàng, các giải pháp phục hồi ngân hàng trước thủ tục phá sản được sử dụng trước tiên và được tiến hành bởi cơ quan giám sát ngân hàng là ngân hàng trung ương. Hoạt động phục hồi khả năng thanh toán của các TCTD bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, mất khả năng chi trả được tiến hành bởi ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát có thẩm quyền của Nhà nước chính là giai đoạn kiểm soát đặc biệt đối với các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, mất khả năng chi trả.
Như vậy, xác định tình trạng mất khả năng thanh toán đối với một TCTD không thể xác định theo thời hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng.

11 Có ý kiến cho rằng hiện nay ngân hàng Nhà nước còn bao đỡ cho các ngân hàng quá nhiều (bằng chứng là đến hiện nay chưa có ngân hàng nào phá sản). mặt khác khi chúng ta đã gia nhập WTO do đó cần phải tạo ra một thị trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, trong đó các ngân hàng nước cũng như ngân hàng Việt Nam cần được đối xử bình đẳng với nhau. Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.

Với tư cách là cơ quan của Chính phủ, ngân hàng nhà nước có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, khác với các Bộ khác thì

+ Quản lý nhà nước không chỉ bằng các biện pháp hành chính mà chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế thông qua hoạt động của mình

+ Ngân hàng nhà nước đem về cho ngân sách nhà nước nguồn thu.

– Với tư cách là ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương còn có các chức năng sau:

+ Là ngân hàng duy nhất phát hành tiền của Việt Nam

+ Là ngân hàng của tổ chức tín dụng thể hiện mở tài khoản nhận tiền gửi cho vay, thực hiện các giao dịch thanh toán cho các tổ chức tín dụng hoặc cho hệ thống kho bạc.

+ Làm đại lý cho kho bạc trong việc bán, trả gốc và lãi cho trái phiếu Chính Phủ.

=>> phần lớn ngân hàng hiện nay toàn là dnghiep nhà  nước, và dù nó kphai dnnc thì nó vẫn chịu sự giám sát của ngân hàng nnc Việt Nam

Các tctd, ngân hàng liên kết vs nhau thành hệ thống ngân hàng, khi một trong số ngân hàng phá sản đồng nghĩa các ngân hàng khác cũng ko yên ổn, nên để đảm bảo hệ thống ngân hàng ổn định, ko rơi vào tình trạng khủng hoảng khi có trg hợp phá sản hoặc lâm vào vào tình trạng phá sản xảy ra thì ngân hàng nnc phải ngăn chặn ngay. Ngân hàng nhà nước sẽ mua lại ngay cái ngân hàng đang lâm vào tình trạng phá sản ấy và  thực hiện một số nghiệp vụ để khôi phục lại tránh cả hệ thống bị gián đoạn. Còn bọn ngân hàng nc ngoài khi tham gia tại  Việt Nam thì ngoài luật Việt Nam nó còn phải theo luật tại nước đặt trụ sở chính nữa. Do đó, tuỳ loại ngân hàng, tổ chức tín dụng mà ngân hàng nnc có những csach quản lí khác nhau, việc tránh để cho các ngân hàng nội địa ko bị phá sản là để bảo vệ hệ thống ngân hàng quốc dân, tránh việc bị các ngân hàng nước ngoài kia mua lại, sở hữu.

12 Anh(chị) hiểu thế nào về sự tham gia của NHNN vào việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tín dụng.

Theo quy định của Luật NHNN Việt Nam năm 2010, NHNN là Ngân hàng Trung ương của Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam[1], thực hiện chức năng quản lý nhà nước (QLNN) về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ[2]. Nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN trong việc thực hiện chức năng QLNN về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, chức năng Ngân hàng Trung ương được quy định cụ thể tại Điều 4, Luật NHNN và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam[3].
Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN là thực hiện một số hoạt động liên quan đến hoạt động sáp nhập TCTD như: tổ chức, điều hành và phát triển thị trường tiền tệ[4]; chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập[5]; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể TCTD[6]. Với các quy định này, NHNN được tham gia vào hoạt động sáp nhập TCTD. Nội dung tham gia của NHNN trong hoạt động sáp nhập TCTD được thể hiện ở các hoạt động:
Một là, xây dựng cơ sở pháp lý cho việc sáp nhập TCTD được thể hiện qua hoạt động xây dựng văn bản pháp luật (VBPL) quy định cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại TCTD. Có thể khẳng định, hoạt động xây dựng VBPL quy định cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại TCTD đã được NHNN quan tâm ngay từ khi xây dựng và vận hành mô hình ngân hàng hai cấp, nhưng có sự khác nhau đáng kể trong quan niệm về sáp nhập TCTD trong các giai đoạn khác nhau. Một trong những điểm đáng chú ý trong quá trình xây dựng VBPL về sáp nhập TCTD của NHNN chủ yếu là để thực hiện nhiệm vụ củng cố, sắp xếp, “tái cơ cấu” TCTD trong những thời điểm nhất định. Điều đó cũng có nghĩa là, hoạt động ban hành VBPL về sáp nhập TCTD của NHNN dường như đặt trọng tâm vào nhiệm vụ sắp xếp lại trật tự thị trường sau một quá trình phát triển như một “nhiệm vụ” không thể chối bỏ. Chẳng hạn, Pháp lệnh Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng quan niệm sáp nhập ngân hàng là một trong những nội dung thay đổi phải được NHNN chấp thuận bằng văn bản[7]. Hay Luật các TCTD năm 1997 (sửa đổi năm 2004) quy định về vấn đề sáp nhập TCTD là một trong những trường hợp bị thu hồi giấy phép[8].
Trong thực tiễn thực hiện QLNN đối với TCTD, NHNN đã ban hành Quyết định số 241/1998/QĐ-NHNN5 ngày 15/7/1998 ban hành Quy chế sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD cổ phần Việt Nam của Thống đốc NHNN, nhưng vấn đề sáp nhập chỉ áp dụng đối với TCTD cổ phần Việt Nam và hoạt động sáp nhập TCTD cổ phần được xác định là “nhằm tạo cơ sở pháp lý để các TCTD cổ phần thực hiện trong quá trình củng cố, sắp xếp lại”[9]. Điều này được minh chứng bởi một trong những căn cứ để xây dựng Quyết định số 241/1998/QĐ-NHNN5 là Quyết định số 96/1998/QĐ-TTg ngày 19/5/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc củng cố sắp xếp lại các Ngân hàng thương mại cổ phần tại TP. Hồ Chí Minh và tình hình thực tế hiện nay của các TCTD cổ phần.
Hoạt động xây dựng pháp luật về sáp nhập TCTD của NHNN thực sự theo hướng thị trường, là quyền của TCTD khi thực hiện việc tổ chức lại TCTD chỉ được khẳng định rõ tại Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11/2/2010 của NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD, thay thế Quyết định số 241/1998/QĐ-NHNN5 ngày 15/7/1998 ban hành Quy chế sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD cổ phần Việt Nam của Thống đốc NHNN.
Vấn đề sáp nhập TCTD được quan niệm theo Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11/2/2010 của NHNN là một hình thức tổ chức lại TCTD và mở rộng đối tượng được thực hiện hoạt động sáp nhập[10]. Các tiếp cận của Thông tư số 04/2010/TT-NHNN liên quan đến sáp nhập TCTD không chỉ trong trường hợp cần phải xử lý “TCTD có vấn đề” mà vấn đề sáp nhập TCTD được xây dựng như là quyền của TCTD nhưng phải tuân thủ pháp luật khi thực hiện thủ tục sáp nhập, trong đó đáng chú ý là quy định về sáp nhập TCTD nhưng không vi phạm quy định về tập trung kinh tế theo quy định của Luật Cạnh tranh[11]. Với quy định này, hoạt động sáp nhập TCTD đã được nhìn nhận đúng bản chất là hình thức tập trung kinh tế, giúp cho TCTD có thể có được lợi thế về quy mô, nhưng cũng có quy định để kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh thông qua hoạt động sáp nhập TCTD[12].
Luật các TCTD năm 2010 chính thức luật hóa vấn đề sáp nhập TCTD là một trong những hình thức tổ chức lại TCTD sau khi được NHNN chấp thuận bằng văn bản[13] và giao cho NHNN quy định cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại TCTD[14]. Từ quy định của Luật các Tổ chức tín dụng 2010, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 36/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 quy định việc tổ chức lại tổ chức tín dụng. Theo Thông tư này, sáp nhập là một hình thức tổ chức lại TCTD, bao gồm hai trường hợp: i) Ngân hàng thương mại, công ty tài chính sáp nhập vào một ngân hàng thương mại; ii) Công ty tài chính sáp nhập vào một công ty tài chính.
Thực tiễn xây dựng pháp luật về sáp nhập TCTD của NHNN cho thấy, quá trình thay đổi nhận thức về sáp nhập TCTD xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn QLNN đối với hoạt động ngân hàng cũng như yêu cầu bảo đảm thống nhất với pháp luật doanh nghiệp, pháp luật cạnh tranh liên quan đến hoạt động sáp nhập TCTD. Sự thay đổi trong nhận thức của NHNN đối với hoạt động sáp nhập TCTD giúp cho những quy định của pháp luật sáp nhập TCTD phản ánh được nhu cầu của thực tiễn cũng như nhu cầu của các bên tham gia sáp nhập, của các cổ đông hiện hữu, nhà đầu tư và khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Hai , sự tham gia của NHNN trong giai đoạn thực hiện thủ tục hoạt động sáp nhập TCTD liên quan đến quyền ra quyết định cho phép hay không cho phép TCTD được thực hiện hoạt động sáp nhập và thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến Giấy phép của các TCTD tham gia sáp nhập. Cụ thể:
 Thứ nhất, ở giai đoạn chấp thuận cho phép thực hiện hoạt động sáp nhập TCTD. Pháp luật hiện hành chia việc chấp thuận của NHNN thành hai bước chấp thuận nguyên tắc và chấp thuận cho phép thực hiện hoạt động sáp nhập TCTD. Trong bước chấp thuận nguyên tắc sáp nhập[15] TCTD, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ nêu trên, NHNN có văn bản gửi TCTD xác nhận đã nhận đủ hồ sơ hợp lệ hoặc yêu cầu bổ sung, hoàn thiện hồ sơ. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, NHNN có văn bản gửi lấy ý kiến:
(i) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi các TCTD tham gia sáp nhập đặt trụ sở chính về ảnh hưởng của việc sáp nhập TCTD đối với sự ổn định kinh tế – xã hội trên địa bàn và quan điểm về việc sáp nhập;
(ii) NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi TCTD tham gia sáp nhập đặt trụ sở chính đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động của TCTD tham gia sáp nhập và quan điểm về việc sáp nhập.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, NHNN có văn bản chấp thuận nguyên tắc sáp nhập TCTD. Trường hợp không chấp thuận, NHNN có văn bản nêu rõ lý do.
Trong bước chấp thuận sáp nhập[16], trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, NHNN có văn bản chấp thuận sáp nhập, sửa đổi Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD nhận sáp nhập, xác nhận đăng ký Điều lệ và chấp thuận các nội dung khác (nếu có). Trường hợp không chấp thuận, NHNN có văn bản nêu rõ lý do.
Thứ hai, sự tham gia của NHNN trong việc thực hiện thủ tục rút giấy phép thành lập và hoạt động. Nội dung thủ tục rút giấy phép thành lập và hoạt động được quy định cụ thể tại Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 của Thống đốc NHNN quy định về việc cấp Giấy phép và tổ chức, hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam và Thông tư số 08/2015/TT-NHNN ngày 30/06/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 của Thống đốc NHNN quy định về việc cấp Giấy phép và tổ chức, hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
Thứ ba, sự tham gia trong hoạt động sáp nhập TCTD khi thực hiện trách nhiệm của các cơ quan trực thuộc NHNN, Thông tư số 36/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 quy định việc tổ chức lại TCTD quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan trực thuộc trong việc giải quyết các thủ tục cho việc hợp nhất TCTD. Cụ thể:
– Thống đốc NHNN thực hiện thẩm quyền chấp thuận việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD[17].
– NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố có ý kiến bằng văn bản về việc tổ chức lại TCTD gửi NHNN và tiến hành thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với các TCTD trên địa bàn trong việc thực hiện tổ chức lại theo quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương[18].
– Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng chủ trì, phối hợp với các Vụ, Cục liên quan của NHNN, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Thống đốc NHNN xem xét hồ sơ đề nghị sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức pháp lý của TCTD; thừa lệnh Thống đốc NHNN ký văn bản gửi TCTD xác nhận đã nhận đầy đủ hồ sơ hoặc yêu cầu bổ sung, hoàn thiện hồ sơ theo quy định của pháp luật; trình Thống đốc NHNN: văn bản gửi TCTD về việc chấp thuận nguyên tắc hoặc không chấp thuận nguyên tắc (trong đó nêu rõ lý do) tổ chức lại TCTD; văn bản chấp thuận tổ chức lại TCTD; sửa đổi, bổ sung Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD sau sáp nhập; cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD hợp nhất; cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD chuyển đổi hình thức pháp lý; xác nhận đăng ký Điều lệ, nội dung sửa đổi, bổ sung Điều lệ của TCTD sau tổ chức lại; quyết định chấp thuận các nội dung thay đổi theo quy định của pháp luật và tiến hành thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm của tổ chức tín dụng trong việc chấp hành các quy định tại của pháp luật về sáp nhập TCTD theo thẩm quyền[19].
– Thực hiện trách nhiệm của các Vụ, Cục khác thuộc NHNN như Vụ Tài chính – Kế toán, Vụ Pháp chế…[20].
Các quy định này cho thấy, NHNN đóng vai trò quan trọng trong việc ra quyết định thực hiện thủ tục sáp nhập cho các TCTD. Khi các TCTD, nhất là các ngân hàng thương mại, gặp khó khăn, NHNN sẽ chủ động lên kế hoạch, tổ chức việc sáp nhập giữa các TCTD không gây ra những biến động lớn trên thị trường.

13 Trình bày cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành của một tổ chức tín dụng.

1. Cơ cấu tổ chức
Tùy thuộc vào các loại hình tổ chức tín dụng qui mô, phạm vi hoạt động, tổ chức tín dụng có những hình thức tổ chức quản lý, điều hành khác nhau.
Thông thường cơ cấu tổ chức tín dụng bao gồm: hội sở chính, các đơn vị phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp và các đơn vị thành viên độc lập.
-Hội sở chính: Là cơ quan quản lý và chỉ đạo chung toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng, đồng thời trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh.
-Các đơn vị phụ thuộc là các sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện được lập ở các khu vực, địa phương có nhu cầu. Các đơn vị trực thuộc có con dấu riêng, trực tiếp giao dịch với khách hàng, hạch toán kinh tế nội bộ.

TCTD có thể mở chi nhánh, sở giao dịch,văn phòng đại diện khi hội đủ các điều kiện qui định tại Điều 33 Luật các Tổ chức tín dụng về tình hình tài chính, thời gian hoạt động tối thiểu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bộ máy quản lý điều hành giám sát, hệ thống thông tin nội bộ và tình hình tuân thủ pháp luật.
-Các đơn vị sự nghiệp là các trung tâm đào tạo, trung tâm thông tin, trung tâm in ấn các chứng từ giao dịch các đơn vị hỗ trợ khác. Các đơn vị sự nghiệp này không có tư cách pháp nhân.

Các đơn vị thành viên trực thuộc: là các công ty trực thuộc có tư cách pháp nhân, vốn điều lệ các công ty trực thuộc từ vốn điều lệ và các quỹ của Tổ chức tín dụng, kinh doanh và hạch toán độc lập. Các công ty độc lập này hoạt động trong các lĩnh vực tài chính chứng khoán, bảo hiểm…

2. Cơ cấu quản trị, điều hành Tổ chức tín dụng
Phụ thuộc vào sự đa dạng về hình thức tổ chức của tổ chức tín dụng mà các tổ chức tín dụng  có bộ máy quản trị, điều hành khác nhau. Thông thường, bộ máy quản trị điều hành của tổ chức tín dụng bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc.

Hội đồng quản trị tổ chức tín dụng: giư vai trò quản trị. Số thành viên tối thiểu tham gia Hội đồng quản trị là 3 người. Chủ tịch của Hội đồng quản trị không được đồng thời tham gia hội đồng quản trị hoặc quản lý điều hành tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp đó là công ty con của chính tổ chức tín dụng đó. Các thành viên hội đồng quản trị chỉ có thể uỷ quyền nhiệm vụ của mình cho những thành viên cùng thuộc hội đồng quản trị, không được phép ủy quyền việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cho những chủ thể khác bên ngoài hội đồng quản trị.

Đối với tổ chức tín dụng nhà nước, Quản trị ngân hàng thương mại nhà nước là Hội đồng quản trị. Các chức danh Hội đồng quản trị do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi có thoả thuận với Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ. Hội đồng quản trị có 5 hoặc 7 thành viên, bao gồm thành viên chuyên trách và thành viên kiêm nhiệm. Thành viên kiêm nhiệm không phải là người đang giữ các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước. Số lượng thành viên Hội đồng quản trị, thành viên chuyên trách, thành viên kiêm nhiệm của từng ngân hàng thương mại do Điều lệ của ngân hàng quy định. Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị kiêm Trưởng Ban kiểm soát và là thành viên chuyên trách.
Chủ tịch và các thành viên khác trong Hội đồng quản trị không được ủy quyền cho những người không phải là thành viên Hội đồng quản trị thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Chủ tịch Hội đồng quản trị không được tham gia Hội đồng quản trị hoặc tham gia điều hành tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là công ty trực thuộc.
Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị là 5 năm. Các thành viên của Hội đồng quản trị có thể được bổ nhiệm lại.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc theo đề nghị của Hội đồng quản trị; bổ nhiệm, miễn nhiệm Kế toán trưởng theo đề nghị của Hội đồng quản trị và sau khi có thoả thuận của Bộ Tài chính.

Ban kiểm soát: giữ vai trò kiểm tra hoạt động tài chính, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, đảm bảo sự an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Ban kiểm soát còn thực hiện nhiệm vụ kiểm toán nội bộ. Số thành viên trong ban kiểm soát tối thiểu là 3 người, đồng thời số thành viên của ban kiểm soát tối thiểu ½ là thành viên chuyên trách. Trong đó, 1 người làm trưởng ban hoạt động theo chế độ chuyên trách.

Tổng giám đốc: giữ vai trò là người quản lý, điều hành tổ chức tín dụng một cách trực tiếp, chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị. Tổng giám đốc phải là những người có trình độ chuyên môn, năng lực điều hành một tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và phải cư trú tại Việt Nam trong thời gian đương nhiệm. Giúp việc cho tổng giám đốc là phó tổng giám đốc.

Pháp luật ngân hàng quy định các trường hợp không được là thành viên của hội đồng quản trị, ban kiểm soát, người quản lý điều hành tổ chức tín dụng như sau:

-Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự

-Đã bị kết án

-Từng là thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc của công ty đã bị phá sản

-Từng là đại diện pháp luật của công ty đã bị đình chỉ hoạt động do vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

-Bố mẹ vợ chồng con anh chị em ruột của thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc không được đồng thời là thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng của cùng 1 tổ chức tín dụng.

14 Tổ chức tín dụng có thể huy động vốn thông qua những cách thức nào? Trình bày từng cách thức đó.

*Nguồn tiền gửi

Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại . Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động , nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp , các tổ chức và của dân cư.

Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng , chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng . Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh  và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao , các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau .

Phân loại theo thời hạn

  • Tiền gửi không kỳ hạn
  • Tiền gửi có kỳ hạn

Phân loại theo đối tượng

  • Tiền gửi của dân cư
  • Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội

Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong thanh toán.

Phân loại theo mục đích

  • Tiền gửi tiết kiệm
  • Tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán
  • Tiền gửi “ lai ” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch )

*Nguồn đi vay

Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên khi cần các ngân hàng thường vay mượn thêm.

Vay Ngân hàng nhà nước

Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các ngân hàng thương mại.Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ).

Vay các tổ chức tín dụng khác

Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng . Các ngân hàng đang có lượng dự trữ vượt yêu cầu sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản.

Vay trên thị trường vốn

Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc ngân hàng thiếu vốn là điều không thể tránh khỏi.

*Nguồn khác

Ngoài các nguồn trên, ngân hàng còn thực hiện huy động vốn thông qua nguồn uỷ thác , nguồn trong thanh toán , các nguồn khác.

Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay , uỷ thác đầu tư , uỷ thác cấp phát , uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng . Ngoài ra , các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả , tiền ký quỹ để mở L/C…).

15 Vì sao tổ chức tín dụng phi ngân hàng lại không được huy động tiền gửi của cá nhân?

Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, trong đó có các công ty tài chính không nhận tiền gửi cá nhân mà chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức và phải tuân thủ các quy định an toàn của ngân hàng bởi có thể dẫn đến các rủi ro sau: Thứ nhất, các tổ chức này rất dễ bị tổn thương khi khách hàng yêu cầu được thanh toán trước khi đến hạn rút tiền hoặc rút tiền trong một khoảng thời gian ngắn. Điều này không chỉ dẫn tới rủi ro thanh khoản cho tổ chức tín dụng phi ngân hàng mà còn đe dọa đến an toàn hệ thống trong trường hợp người gửi tiền mất niềm tin và rút tiền ồ ạt trong cả hệ thống tài chính.
Thứ hai, do các tổ chức tín dụng phi ngân hàng không phải tuân thủ các quy định an toàn chặt chẽ như của ngân hàng, các tổ chức này có thể phối hợp với các ngân hàng thương mại để “lách luật”, phá vỡ các quy định. Ví dụ, ngân hàng có thể cho vay các công ty tài chính và công ty tài chính lại cho vay khách hàng mà ngân hàng không được phép cho vay trực tiếp theo các quy định về an toàn của ngành. Trên thực tế, lịch sử đã ghi nhận trường hợp các công ty tài chính nhận tiền gửi ở New Zealand đã tăng trưởng nhanh chóng và sau đó sụp đổ, tạo ra rủi ro hệ thống nghiêm trọng, vào các năm 2007-2011.

16 Sự khác nhau giữa tiền gửi có kì hạn, không kì hạn và tiền gửi tiết kiệm là gì? Vì sao phải phân ra làm nhiều loại tiền gửi như vậy?

Tiêu chí

Tiền gửi có kỳ hạn

 

Tiền gửi không kỳ hạn

 

Khác nhau

Một là, khả năng tất toán tài khoản của tiền gửi có kỳ hạn sẽ bị hạn chế nhiều trong khoản thời gian bạn đang gửi tiết kiệm.

Trường hợp bạn muốn tất toán sớm thì sẽ phải chịu một khoản phí phạt và chỉ được hưởng lãi suất trở về mức không kỳ hạn.

Một là, khả năng tất toán tài khoản linh động hơn. Có thể rút tiền bất cứ lúc nào khi có nhu cầu đột xuất phát sinh.

Tất nhiên, bạn sẽ không phải chịu khoản phí nào khi rút tiền trước hạn cả.

Hai là, vì bạn đã gửi vào ngân hàng khoản tiết kiệm bị ràng buộc nên lãi suất theo kỳ hạn sẽ cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Hai là, lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn sẽ thấp hơn có kỳ hạn và sẽ được tính theo số dư mỗi cuối ngày.
Ba là, bạn sẽ thường xuyên nhận được các chương trình ưu đãi từ ngân hàng như mở thẻ tín dụng không cần chứng minh thu nhập, ưu đãi lãi suất khi vay v.v. Ba là, vì đã có tính linh hoạt cao nên bạn sẽ không nhận được nhiều ưu đãi khác từ ngân hàng.

Giống nhau

  • Cả hai đều là hình thức gửi tiết kiệm chủ yếu dành cho khách hàng cá nhân muốn sử dụng khoản tiền dành dụm để,
    • Thứ nhất, có một nơi an toàn cất giữ khoản tiền lớn
    • Thứ hai, sử dụng chính khoản tiền “nhàn rỗi” đó sinh lời thêm
  • Về mặt lãi suất, đa phần sẽ được quy định một mức trần bởi ngân hàng Nhà Nước và các ngân hàng sẽ có sự điều chỉnh phù hợp với từng sản phẩm khác nhau. Con số này thường sẽ thay đổi chứ không cố định trong thời gian dài.
  • Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn nhiều so với tài khoản thanh toán hay tài khoản giao dịch thông thường.

17 Bảo hiểm tiền gửi là gì? Pháp luật ngân hàng quy định ra sao về vấn đề này.(đối tượng phải tham gia bảo hiểm, đối tượng được hưởng bảo hiểm, điều kiện hưởng bảo hiểm, mức hưởng…).

Khi mà có một khoản tiền dư thì ngoài đầu tư, kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi thì cá nhân có thể gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập theo quy định của pháp luật.

Và để đảm bảo hơn cho người gửi tiền, pháp luật đặt ra bảo hiểm tiền gửi nhằm đảm bảo cho khoản tiền gửi của khách hàng không xảy ra rủi ro khi mà tổ chức nhận tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả nắng chi trả hoặc bị phá sản. Hoạt động này chính là bảo hiểm tiền gửi.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật bảo hiểm tiền gửi thì bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.

Một số đặc trung cơ bản của bảo hiểm tiền gửi

Căn cứ từ khái niệm được đưa ra ở trên, chúng ta có thể rút ra một vài đặc trưng cơ bản của bảo hiểm tiền gửi như sau:

Về chủ thể tham gia

Bảo hiểm tiền gửi có sự tham gia của người được bảo hiểm tiền gửi và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Trong đó:

– Người được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

– Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.

– Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Về nguyên tắc bảo hiểm tiền gửi

Bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi 2012.

Khi tiến hành hoạt động bảo hiểm tiền gửi phải công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi.

Về tham gia bảo hiểm tiền gửi

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi và niêm yết công khai bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính, chi nhánh và các điểm giao dịch có nhận tiền gửi của cá nhân.

Tuy nhiên, đối với ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Các hành vi bị cấm

Căn cứ theo quy định tại Điều 10 Luật bảo hiểm tiền gửi 2012, các hành vi bị nghiêm cấm trong bảo hiểm tiền gửi bao gồm:

1. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không nộp phí bảo hiểm tiền gửi.

2. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi không chi trả hoặc chi trả không đầy đủ tiền bảo hiểm.

3. Gian lận, giả mạo hồ sơ, tài liệu, giấy tờ về bảo hiểm tiền gửi.

4. Cản trở, gây khó khăn, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, người được bảo hiểm tiền gửi và cơ quan, tổ chức có liên quan đến bảo hiểm tiền gửi.

5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.

18 Mục đích của bảo hiểm tiền gửi ?

Khi gửi tiền tiết kiệm vào các tổ chức tín dụng, người gửi tiền luôn có những lo lắng bất an là có căn cứ. Chính vì vậy, chính sách của bảo hiểm tiền gửi sẽ là biện pháp hữu hiệu bảo vệ người gửi tiền. Và sau đây sẽ là những mục đích của bảo hiểm tiền gửi:

Thứ nhất: Bảo vệ lợi ích của người gửi tiền tại các ngân hàng và tổ chức tài chính

Thứ hai: Việc thiết lập các chính sách bảo hiểm tiền gửi sẽ là công cụ hữu hiệu bảo đảm cho hệ thống tài chính quốc gia ổn định và không bị ảnh hưởng. Đồng thời giúp cho thị trường tài chính ngày càng an toàn có tính cạnh tranh công bằng hơn

Thứ ba: Luật bảo hiểm tiền gửi năm 2012 ra đời phần nào quy định các vấn đề liên quan đến bảo hiểm tiền gửi. Như vậy một mục đích nữa là quy định rõ quyền hạn cũng như trách nhiệm của các đối tượng tham gia vào quan hệ tiền gửi tại ngân hàng và các tổ chức có chức năng.

19 Có ý kiến nên đưa ngoại tệ vào danh mục tiền gửi được chi trả bảo hiểm nhằm tránh sự phân biệt đối xử, thế nhưng hiện nay các nhà làm luật vẫn không đồng ý với ý kiến này. Anh (chị) suy nghĩ thế nào về vấn đề này.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước là không bảo hiểm đô la và vàng. Pháp lệnh về ngoại hối quy định người Việt Nam dùng đồng Việt Nam trên đất nước Việt Nam, cũng giống như các nước trên thế giới đều có quy định phải sử dụng đồng bản địa. Hiện nay, nền kinh tế của chúng ta đang bị đô la hóa và vàng hóa. Luật chỉ quy định bảo hiểm tiền đồng là góp phần cùng với các văn bản pháp quy khác để củng cố lại việc trong nước Việt Nam dùng tiền Việt Nam.

Nếu anh có tiền USD thì anh phải chuyển đổi, nếu không phải gửi ở các dịch vụ gia tăng của ngân hàng. Tôi thấy ngân hàng các nước trên thế giới họ có dịch vụ gửi quỹ bảo hiểm, mỗi người có một mã, người dân có ngoại tệ, vàng, kim cương cứ mang đến két gửi ở ngân hàng, hàng tháng phải trả phí.

Chúng ta phải phân biệt, cho phép gửi và việc bảo hiểm là hai việc khác nhau. Cho phép gửi là chúng ta tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người dân và Nhà nước có các dịch vụ đáp ứng các yêu cầu bảo đảm tài sản hợp pháp của người dân. Trong Pháp lệnh Ngoại hối cũng quy định rõ: Nhà nước nghiêm cấm việc dùng đồng ngoại tệ để thực hiện các giao dịch và thanh toán kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam.

Mọi người phải hiểu, một mặt Nhà nước cấm là để bảo vệ tiền đồng Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của số đông. Còn những người gửi bằng ngoại tệ thì ta nên tôn trọng quyền bảo vệ hợp pháp về tài sản của họ. Tuy nhiên họ cũng phải thực hiện theo đúng luật, còn họ muốn tiêu thì phải đổi ra đồng Việt Nam để tiêu.

20 So sánh hai phương thức huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá. Theo anh (chị) phương thức huy động phát hành giấy tờ có giá có những ưu, nhược điểm gì 

*Huy động vốn từ các khoản tiền gửi

Hình thức huy động vốn này ngân hàng sẽ huy động được từ các cá nhân hay tổ chức kinh tế,… trong xã hội bằng việc tiếp nhận tiền gửi tiết kiệm, thanh toán hộ, khoản cho vay tạo tiền gửi hay các nghiệp vụ kinh doanh khác,… Trong đó tùy thuộc vào các tiêu thức khác nhau, chúng sẽ được chia ra thành từng loại khác nhau như:

Tiền gửi không kỳ hạn

Đây là loại tiền gửi vào ngân hàng mà khách hàng không thỏa thuận một mốc thời gian cụ thể rút tiền về. Do đó ngân hàng sẽ trả một mức lãi suất thấp hoặc là không trả bất kỳ một số lãi nào cho khoản tiền này. Vì khoản tiền không kỳ hạn có khá nhiều biến động, họ có thể rút bất cứ lúc nào. Ngân hàng sẽ không thể chủ động trong sử dụng số vốn này mà cần dự trữ một số tiền đảm bảo có thể thanh toán bất cứ khi nào khách hàng có nhu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn gần 2 dạng chính:

  • Tiền gửi thanh toán: Tiền để thực hiện những khoản thanh toán về mua bán hàng hóa, dịch vụ, khoản thanh toán phát sinh trong hoạt động kinh doanh của họ.
  • Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: Đây là loại tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng để đảm bảo an toàn cho chúng. Đây có thể là tài sản của người ký thác, có thể rút bất cứ lúc nào. Trong đó lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thuần túy sẽ cao hơn lãi suất của tiền gửi thanh toán.

Tiền gửi có kỳ hạn

Đây sẽ là loại tiền gửi vào ngân hàng khi đã có sự thỏa thuận chính xác về thời gian rút tiền. Chúng có sự ổn định tương đối vì ngân hàng đã xác định được chính xác thời điểm khách hàng sẽ rút tiền để chuẩn bị thanh toán cho đúng thời hạn. Đối với loại tiền này, ngân hàng sẽ đưa ra mức thời gian lựa chọn là từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm,…. Mục đích là để tạo cho khách hàng nhiều kỳ hạn phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền của họ.

Tiền gửi tiết kiệm

Tiền tiết kiệm là tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng để hưởng lãi. Khi gửi, ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một cuốn sổ, khách hàng phải bảo quản và mang chúng đến ngân hàng mỗi khi muốn thực hiện giao dịch. Về bản chất thì đây chính là một phần thu nhập cá nhân của khách hàng khi họ chưa tiêu dùng đến, một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ thay cho việc cất trữ vàng, hàng hóa. Tiền gửi tiết kiệm cũng gồm 3 dạng chính:

  • Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
  • Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
  • Tiền gửi dài hạn

*Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá

Giấy tờ có giá mà ngân hàng dùng để huy động vốn bản chất là các giấy nhận nợ mà ngân hàng sẽ trao đổi cho người cho ngân hàng vay tiền, xác nhận quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng ở mốc thời gian, lãi suất nhất định. Do vậy ngân hàng sẽ thường một số loại giấy tờ có giá bằng một số hình thức như:

Phát hành trái phiếu

Đây sẽ là một dạng cam kết xác nhận nghĩa vụ trả cả gốc lẫn lãi của ngân hàng đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của việc phát hành này chính là để huy động vốn trung hạn và dài hạn. Đặc biệt việc phát hành này sẽ chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung Ương, các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán hoặc còn chi phối bởi sự uy tín của cả ngân hàng nữa.

Chứng chỉ tiền gửi

Chứng chỉ tiền gửi là những loại giấy tờ để xác nhận tiền gửi định kỳ của một ngân hàng. Theo đó người sở hữu chứng chỉ này sẽ được thanh toán phần tiền lãi định kỳ khi nhận được đầy đủ số vốn lúc đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành sẽ được tự do lưu thông trên thị trường tiền tệ.

Phát hành kỳ phiếu

Kỳ phiếu là một loại giấy tờ có giá trị ngắn hạn, thời gian không vượt quá 1 năm. Nó cũng có các đặc điểm tương tự như trái phiếu nhưng ngắn hạn hơn trái phiếu nên nó sử dụng trong mục mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.

Phát hành một số giấy tờ khác

Điển hình nhất là phát hành EURO DOLLAR. Hình thức phát hành phiếu nợ này với mục đích thu hồi vốn ở nước ngoài. Nó sẽ có đặc điểm là chỉ dùng để huy động vốn bằng đô la, khi trả cả gốc lẫn lãi cũng bằng đô la. Loại này ngân hàng sẽ sử dụng để thu hồi vốn huy động ngắn hạn trong 3 tháng. Hinh thức huy động này sẽ có lãi suất cao hơn tiền gửi. Các ngân hàng cần phải căn cứ vào đầu ra để quyết định khối lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn và phương pháp huy động.

1. Ưu điểm

Thứ nhất, các văn bản pháp luật đã được ban hành một cách kịp thời để điều chỉnh vấn đề về huy động vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD.

Phát hành giấy tờ có giá là loại hình giao dịch huy động vốn khá thông dụng của các TCTD và thường được quy định rõ rang, cụ thể trong pháp luật nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD ( cụ thể hơn là trái phiếu ngân hàng ) được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính.

Thứ hai, các quy định trong văn bản mới ban hành đã có những sửa đổi rất đúng hướng, kịp thời điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này.

Các văn bản mới trên đây đã từng bước thiết lập sự đồng bộ giữa các quy định về phát hành giấy tờ có giá của TCTD với các quy định của Luật chứng khoán năm 2006 về phát hành chứng khoán ra công chúng. Đặc biệt đã quy định thêm một số vấn đề mới mà các văn bản bị thay thế chưa quy định hoặc quy định chưa rõ, ví dụ như: quyền phát hành trái phiếu chuyển đổi và chứng quyền của TCTD cổ phần; việc áp dụng cơ chế phát hành thông qua phương thức đấu thầu, thông qua tổ chức làm đại lý hoặc tổ chức trung gian bảo lãnh phát hành chứng khoán.

2. Nhược điểm

Song song và luôn tồn tại với những ưu điểm trên còn rất nhiều hạn chế, bất cập .

Thứ nhât, về bản chất pháp lý của quan hệ phát hành giấy tờ có giá. Trên nguyên tắc, việc phát hành các giấy tờ có giá của TCTD chính là những thỏa thuận vay nợ giữa TCTD với khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi vì, thực chất các giấy tờ có giá được phát hành theo Quy chế này đều là những phiếu nợ do các TCTD phát hành để cam kết hoàn trả một số tiền nhất định ghi trên giấy tờ có giá đó cho người sở hữu vào một ngày nhất định trong tương lai. Điều này có nghĩa rằng: khi phát hành giấy tờ có giá cho người đầu tư là các tổ chức, cá nhân, TCTD không phải là người bán giấy tờ đó mà chỉ là người tiếp nhận vốn đầu tư, còn khách hàng là các tổ chức, cá nhân cũng không phải người mua giấy tờ có giá theo đúng nghĩa mà chỉ là người đầu tư gián tiếp vào TCTD bằng cách cho vay đối với chủ thể này để được nhận một khoản lãi cho vay theo thỏa thuận. Tuy nhiên, các quy định hiện hành trong TT 34/2013/TT-NHNN lại thể hiện quan điểm coi giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD như là một giao dịch “mua bán” giấy tờ có giá, chứ không khẳng định và thừa nhận bản chất là giao dịch cho vay của quan hệ phát hành giấy tờ có giá của TCTD.

Thứ hai , pháp luật quy định về giấy tờ có giá đã đặt nền móng cho việc nhất thể hóa các quy chế về phát hành các loại giấy tờ có giá của TCTD, nhưng nét nổi bật dễ nhận thấy trong văn bản pháp quy này là nhà làm luật vẫn chủ trương tách bạch giữa hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD với hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức khác không phải là TCTD. Điều này thể hiện ở chỗ, hiện tại việc phát hành giấy tờ có giá của chủ thể không phải là TCTD đang được thực hiện theo quy định của Luật chứng khoán năm 2006, còn việc phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD để huy động vốn ( chủ là các trái phiếu ngân hàng ) thì vẫn được thực hiện theo quy định riêng tại Quy chế ban hành kèm theo Quyết định này. Theo quan điểm cá nhân, quy định này như vậy là chưa hợp lý, bởi lẽ trái phiếu ngân hàng thực chất cũng là một loại chứng khoán dài hạn nền về nguyên tắc cần phải được phát hành và lưu thông trên thị trường chứng khoán, giống như cổ phiếu và trái phiếu công ty hay trái phiếu phiếu chính phủ. Đặc biệt việc phát hành Hối phiếu nhận nợ của các TCTD do khách hàng ( người cho vay ), với ý nghĩa là một loại giấy tờ có giá ngắn hạn để huy động vốn, đồng thời tạo thêm “”hàng hóa” cho thị trường tiền tệ, cũng chưa được đề cập đến trong Quy chế này, dù chỉ là một quy định mang tính dẫn chiếu đến Luật các công cụ chuyển nhượng. Ngày nay, để đáp ứng như cầu huy động vốn ngày càng đa dạng, các TCTD đã phát hành nhiều loại giấy tờ có giá trên thị trường với thời hạn, mệnh giá, lãi suất và khả năng chuyển nhượng khác nhau.

Thứ ba, Quy trình thực hiện phát hành giấy tờ có giá còn phức tạp, gây khó khăn cho các TCTD thực hiện hợp đồng vốn đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Chúng ta thấy rõ mặc dù pháp luật đã cho phép các TCTD được huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá. Tuy nhiên, do quy trình thực hiện hoạt động này còn gặp một số vướng mắc nên trên thực tế hoạt động này của các TCTD không mang lại hiệu quả.

21 Thế nào là hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng? Trình bày các phương thức cấp tín dụng?

Theo quy định tại Khoản 11 Điều 3 Thông tư 22/2019/TT-NHNN (có hiệu lực ngày 01/01/2020) thì:

Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, mua, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, phát hành thẻ tín dụng, bảo lãnh ngân hàng, cam kết phát hành dưới hình thức thư tín dụng chứng từ (L/C) và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, bao gồm cả việc cấp tín dụng từ nguồn vốn của pháp nhân khác mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chịu rủi ro theo quy định của pháp luật.

Các hình thức cấp tín dụng hiện nay gồm có:

– Nghiệp vụ cho vay: 

Đây nghiệp vụ đặc trưng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.

Dựa vào mục đích, nghiệp vụ cho vay được phân chia thành: Cho vay bất động sản, cho vay nông nghiệp, cho vay công nghiệp và bất động sản,… Còn nếu căn cứ vào thừoi hạn cho vay có thể chia thành: Cho vay ngắn hạn, dài hạn và trung hạn,…

– Nghiệp vụ chiết khấu: 

Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của các ngân hàng là nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước mua ngắn hạn các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán, mà các giấy tờ có giá này đã được các ngân hàng giao dịch trên trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp.

Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Căn cứ định hướng phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định lĩnh vực Ngân hàng Nhà nước ưu tiên chiết khấu, tái chiết khấu cho các ngân hàng.

– Nghiệp vụ cho thuê tài chính:

Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiên vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa Bên cho thuê là các công ty Cho thuê tài chính và Bên thuê là kháchhàng.

Bên cho thuê là các công ty tài chính cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của Bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản thuê trong suốt quá trình thuê.

Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, Bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận

– Nghiệp vụ bảo lãnh:

Bảo lãnh ngân hàng chính là việc ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên thụ hưởng của hợp đồng khoản đền bụ trong phạm vi của số tiền được nêu rõ trong giấy bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình trong hợp đồng.Ngân hàng không bảo lãnh việc bên đối tác có thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của mình cho bên thụ hưởng hay không mà chỉ đảm bảo sự thanh toán trong phạm vi số tiền trong giấy bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng là sự đảm bảo cho bên thụ hưởng trong trường hợp nếu những hoạt động được chỉ rõ trong hợp đồng không được thực hiện vì bất kỳ lí do nào thì bên thụ hưởng sẽ được quyền hưởng tiền đền bù.

22 Tại sao pháp luật ngân hàng lại quy định tổ chức tín dụng không được kinh doanh bất động sản?

Thứ nhất, nguồn vốn của tổ chức tín dụng phần lớn là vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân không phải là vốn riêng của tổ chức tín dụng nên việc đưa vốn vào đầu tư bất động sản là rủi ro cao đối với cá nhân, tổ chức cho tổ chức tín dụng vay tiền.

Thứ hai, vốn huy động của tổ chức tín dụng phải được đưa vào lưu thông, nhằm mục đích lưu thông trong thị trường để phục vụ nhu cầu của những người có nhu cầu vay tiền chứ không phải để tổ chức tín dụng đầu tư vào bất động sản nhằm thu lợi nhuận. Đây là vi phạm về cơ chế hoạt động của tổ chức tín dụng.

Thứ ba, hoạt động kinh doanh bất động sản phát triển rầm rộ nhưng cũng là một hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nguy cơ dẫn đến nguồn vốn bị chết trong bất động sản, không thu hồi được.

Tổ chức tín dụng với vai trò quan trọng của mình trong thị trường, giúp tiền tệ được lưu thông đáp ứng nhu cầu của người có tiền và người cần tiền. Pháp luật không cho phép tổ chức tín dụng tiến hành các hoạt động mang tính rủi ro là nhằm bảo vệ các chủ thể liên quan cũng như đảm bảo sự ổn định, an toàn cho nền kinh tế.

23 Tại sao TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính tổ chức tín dụng đó? 

Về bảo đảm an toàn vốn, Nghị định quy định, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn, tài sản, phân phối lợi nhuận, thực hiện chế độ quản lý tài chính và chế độ kế toán theo quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật có liên quan.

Đồng thời thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy đinh của Luật các TCTD và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Trường hợp không đạt hoặc có khả năng không đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Luật các TCTD và hướng dẫn của NHNN Việt Nam, trong thời gian tối đa là 01 tháng, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải báo cáo NHNN Việt Nam các giải pháp khắc phục để bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định bao gồm: Giải pháp chuyển nhượng vốn đầu tư ra bên ngoài; Giải pháp tăng vốn điều lệ, vốn được cấp; Các giải pháp khác.

Bên cạnh đó, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải mua bảo hiếm tài sản đối với các tài sản quy định phải mua bảo hiểm; Tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Luật các TCTD, Luật bảo hiểm tiền gửi, các quy định pháp luật khác có liên quan và công khai việc tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiếm tiền gửi tại trụ sở và chi nhánh…

Ngoài ra, Nghị định cũng cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được mua bán, chuyển nhượng tài sản để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn.
Việc mua bán, chuyển nhượng tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, các quy định của pháp luật khác có liên quan và Điều lệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đối với tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ còn phải tuân thủ quy định của pháp luật về nhượng bán tài sản đối với doanh nghiệp nhà nước.

Câu hỏi lý thuyết luật ngân hàng chương 4

1 Trình bày cách hiểu về khái niệm về ngoại hối?

Có thể hiểu: “Ngoại hối là danh từ dùng để chỉ các phương tiện dùng trong thanh toán quốc tế như ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế và các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ”. Theo khoản 1 điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005  thì ngoại hối được định nghĩa bằng cách liệt kê các tài sản được coi là ngoại hối:

– Ngoại tệ: Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực

– Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;

–  Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;

– Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của NCT; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ VN;

– Tiền Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.”

Quan điểm về khái niệm ngoại hối có thể được hiểu không hoàn toàn thống nhất trong hệ thống pháp luật của mỗi nước. Do vậy mà quan điểm về hoạt động ngoại hối cũng có sự khác biệt, trong đó có sự khác biệt về hoạt động ngoại hối của NCT và NKCT.

2 Các hoạt động ngoại hối hiện nay? Theo anh chị hoạt động ngoại hối có những đặc điểm gì về chủ thể ? 

Theo góc độ khoa học pháp lí: “Hoạt động ngoại hối là tổng hợp các hành vi pháp lí do các chủ thể khác nhau thực hiện trong quá trình chiếm hữu sử dụng và định đoạt các tài sản coi được coi là ngoại hối.” Các hành vi pháp lí này có thể là hành vi pháp lí hoặc hành vi thương mại phụ thuộc vào việc người sử dụng chúng vì nhu cầu dân sự hay thương mại.

Theo pháp luật: “Hoạt động ngoại hối là hoạt động của NCT, NKCT trong giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối.”  (Khoản 8 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005)

Hoạt động ngoại hối có đối tượng là chính là các ngoại hối đã được pháp luật Việt Nam qui định và cho phép lưu thông và các dịch vụ ngoại hối.

Nội dung của hoạt động ngoại hối bao gồm các giao dich vãng lai, giao dịch vốn, các hành vi sử dụng ngoại hối hay cung ứng dịch vụ về ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.

Chủ thể của hoạt động ngoại hối ( hay còn gọi là đối tượng chịu sự quản lí của nhà nước về ngoại hối)  là NCT và NKCT trực tiếp tham gia vào các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối. Có 2 dấu hiệu để xác định tổ chức hay cá nhân nào đó là đối tượng chịu sự quản lí nhà nước về ngoại hối:

– Tổ chức, cá nhân phải là NCT, NKCT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

– Có hoạt động ngoại hối tại Việt Nam

3 Trình bày hiểu biết của anh chị về thị trường ngoại hối hiện nay tại Việt Nam

Tính tới ngày 30/6/2014, tỷ giá trung bình của 23 ngân hàng thương mại đạt 21.251 VND/USD, tăng 0,8% so với mức tỷ giá của đầu tháng 01/2014 và tăng 1,04% so với cùng thời điểm năm 2013; tỷ giá tự do ngày 30/6/2014 là 21.305 VND/USD, tăng 0,6% so với tỷ giá tự do thời điểm đầu năm và tăng 0,1% so với cùng thời điểm năm 2013, xác lập mức tỷ giá tăng cao nhất trong tháng 6.

Có thể nói, trong 6 tháng đầu năm, thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, do được sự hỗ trợ của các yếu tố sau:

– Thứ nhất, chính sách tỷ giá ổn định. Ngay từ đầu năm, NHNN đã đặt định hướng năm 2014 sẽ điều hành tỷ giá linh hoạt nhưng vẫn phải ổn định, mức điều chỉnh không quá 2%. Thực hiện định hướng đã đề ra, NHNN đã duy trì tỷ giá liên ngân hàng ở mức 21.036 VND/USD trong gần 1 năm (từ 28/6/2013 đến hết ngày 18/6/2014);

– Thứ hai, cán cân thương mại tiếp tục thặng dư. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, cán cân thương mại hàng hóa của cả nước (tính đến hết ngày 15/6/2014) thặng dư hơn 1,45 tỷ USD. Cụ thể: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt hơn 127,63 tỷ USD, tăng 12,9% (tương ứng tăng hơn 14,57 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt hơn 64,54 tỷ USD, tăng 15,4% (tương ứng tăng hơn 8,61 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2013; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt hơn 63,09 tỷ USD, tăng 10,4% (tương ứng tăng hơn 5,96 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2013;

 Thứ ba, các dòng vốn khác như FDI, ODA, kiều hối tương đối ổn định. Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 6 tháng đầu năm 2014, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước tính đã giải ngân được tỷ 5,75 tỷ USD, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2013. Nguồn vốn ODA vào Việt Nam ổn định.

Trong năm tài khóa 2014 (bắt đầu từ 1/4/2014 đến hết tháng 3/2015), Nhật Bản cam kết sẽ duy trì ổn định nguồn vốn ODA cho Việt Nam ít nhất bằng năm 2013 (khoảng 3,5 tỷ USD); Liên minh châu Âu (EU) cam kết sẽ tiếp tục tài trợ 542 triệu euro cho Việt Nam trong năm 2014. Kiều hối cũng là một nguồn cung ngoại tệ ổn định và có xu hướng tăng từng năm. Năm 2013, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam đạt mức cao 11 tỷ USD, dự báo sẽ tăng 20% trong năm 2014.

– Thứ tư, dự trữ ngoại hối tăng cao. Trong 6 tháng đầu năm 2014, NHNN đã mua trên 10 tỷ USD tăng dự trữ ngoại hối lên hơn 35 tỷ USD – mức cao nhất từ trước đến nay.

Có thể thấy, các yếu tố vĩ mô hiện tại vẫn chưa có dấu hiệu gây sức ép lên tỷ giá. Xu hướng tăng xác lập từ tháng 5/2014 chủ yếu do tác động của yếu tố tâm lý. Thị trường đã chuyển từ trạng thái “ổn định” sang “thận trọng” và có phần lo ngại trước diễn biến tình hình phức tạp trên Biển Đông. Theo đó, nguồn cung ngoại hối sụt giảm do cá nhân và doanh nghiệp hạn chế bán ngoại hối, chờ đợi thêm thông tin rõ ràng.

Trong khi nguồn cầu ngoại hối tăng lên do các ngân hàng thương mại có xu hướng mua ngoại hối thu hẹp trạng thái âm đang nắm giữ; một bộ phận người dân có xu hướng chuyển sang các tài sản có độ an toàn cao như ngoại hối, vàng. Giá vàng mua vào và bán ra cuối tháng 6/2014 tăng cao, lần lượt là 36,70 triệu đồng/lượng (tăng 5,76% so với cuối năm 2013) và 36,82 triệu đồng/lượng (tăng 5,87% so với cuối năm 2013).

Dự báo trong thời gian sắp tới, tỷ giá có khả năng tăng giá theo xu hướng từ tháng 5, nhưng tỷ giá từ nay đến cuối năm có thể sẽ không vượt quá mức 1% mà Thống đốc NHNN đã đưa ra. Theo dự báo của Reuters, tỷ giá VND/USD trên thị trường chính thức sẽ đạt mức tỷ giá bình quân 21.700 VND/USD vào cuối năm 2014, tăng 3,34% so với tỷ giá bình quân năm 2013.

4 Các quy định hiện hành về  quản lý ngoại hối của ngân hàng hiện nay? 

Quy định pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối được quy định tại Pháp lệnh ngoại hối 2005.  Pháp lệnh Ngoại hối có ưu điểm là một bước tiến mới trong cải cách cơ chế hoạt động quản lý ngoại hối, mặt khác nó là một nhân tố đặc biệt trong sự hội nhập của nền kinh tế.

Pháp lệnh Ngoại hối 2005 được ban hành nhằm:

Thứ nhất, để giải quyết các vấn đề trong hệ thống các quy định về quản lý ngoại hối

Thứ hai, nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nhất thể hóa các quy định trong quản lý ngoại hối và đảm bảo  hiệu lực trong các quy định về quản lý ngoại hối.

Pháp lệnh Ngoại hối 2005 đã xây dựng một hệ thống quản lý chặt chẽ nhằm đổi mới đáng kể. Mặt khác, chính phủ và ngân hàng nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản dưới luật đẻ nhằm đảm bảo về việc quản lý ngoại hối. Kể từ khi Pháp lệnh Ngoại hối được ban hành, những quy định về tự do hóa trong quản lý ngoại hối đã được thể chế hóa. Bên cạnh những quy định thông thoáng, cởi mở, chính sách QLNH cũng quy định một số biện pháp hạn chế, hoặc bắt buộc về ngoại hối được áp dụng tạm thời trong những điều kiện khẩn cấp nhằm đảm bảo an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia.

Câu hỏi lý thuyết luật ngân hàng chương 5

(Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng)

1 Hiểu thế nào là tín dụng? Quan hệ mua bán, bảo lãnh ngân hàng có phải là quan hệ tín dụng không? Vì sao?

Trong đó, người đi vay là các cá nhân, đơn vị, tổ chức… còn người cho vay chính là ngân hàng hay các tổ chức tài chính. Sản phẩm dùng để vay và cho vay thường là tiền mặt hoặc các loại hàng hóa.

Mối quan hệ vay và cho vay ấy có các quy định cũng như những ràng buộc riêng, ví dụ như hình thức vay thế chấp, vay tín chấp

Ngoài ra, nhắc đến tín dụng thì ai cũng biết rằng nó gắn liền với lãi suất. Các khoản vay tín dụng đều có mức lãi suất cụ thể, theo đúng như quy định của phía cho vay. Người đi vay có trách nhiệm chấp nhận và trả lãi suất đúng hạn.

2 Đặc điểm cơ bản của bảo lãnh ngân hàng

Ngoài bản chất là giao dịch bảo đảm, hợp đồng BLNH mang những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, chủ thể thực hiện BLNH bao giờ cũng có sự xuất hiện của ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính khác đóng vai trò là bên bảo lãnh.Quan hệ BLNH là một quan hệ hợp đồng bao gồm hai chủ thể bắt buộc: bên bảo lãnh là ngân hàng, tổ chức tài chính được phép thực hiện nghiệp vụ BLNH và bên nhận bảo lãnh (hay bên thụ hưởng bảo lãnh) là người nhận cam kết bảo lãnh. Đây là đặc điểm để phân biệt BLNH với bảo lãnh truyền thống.
Như vậy, nếu như trong bảo lãnh nói chung bên bảo lãnh có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự thì trong BLNH, bên bảo lãnh phải là một chủ thể có uy tín và năng lực tài chính, có khả năng thực hiện các cam kết bảo lãnh của mình.
Hai là, BLNH mang tính độc lập. Một đặc tính hết sức quan trọng của BLNH là tính độc lập với hợp đồng gốc. Mặc dù, mục đích của một BLNH là bồi thường cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng gốc nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện được quy định trong bảo lãnh và ngân hàng không thể dựa vào quyền khởi kiện có được từ quan hệ hợp đồng. Một khi những điều kiện và điều khoản bảo lãnh được đáp ứng thì về mặt pháp lý, người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán tiền mà không cần thiết phải chứng minh việc vi phạm của người yêu cầu bảo lãnh mà chỉ cần lập chứng từ như yêu cầu của bảo lãnh.
Tuy nhiên, tính độc lập của bảo lãnh phụ thuộc vào chính các điều kiện của bảo lãnh. Chẳng hạn, nếu bảo lãnh quy định việc thanh toán là theo văn bản yêu cầu của người thụ hưởng thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán mà không cần một điều kiện nào khác ngoài việc lập văn bản yêu cầu. Ngược lại, nếu như bảo lãnh yêu cầu một chứng từ như: phán quyết của tòa án, quyết định của trọng tài, văn bản của một bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người được bảo lãnh hay văn bản của người được bảo lãnh thừa nhận vi phạm của mình thì tính độc lập của bảo lãnh ít nhiều bị giảm sút. Tính độc lập của bảo lãnh mang lại nhiều thuận lợi cho chính các ngân hàng. Một khi có yêu cầu thanh toán thì ngân hàng phát hành chỉ cần xem xét các chứng từ được xuất trình có phù hợp với những điều khoản và điều kiện của bảo lãnh hay không. Những điều khoản và điều kiện của bảo lãnh được cụ thể hóa bằng chứng từ. Ví dụ như: hối phiếu, yêu cầu thanh toán, chứng nhận vi phạm. Ngân hàng chỉ việc xem xét các chứng từ này với miêu tả trong bảo lãnh.
Tính độc lập còn thể hiện trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành. Trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành hoàn toàn độc lập với quan hệ giữa ngân hàng phát hành với người được bảo lãnh. Ngân hàng phát hành không thể viện dẫn những lý do thuộc về quan hệ giữa họ với người được bảo lãnh để trì hoãn thanh toán nếu như chứng từ hoàn toàn phù hợp. Chẳng hạn, ràng buộc giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành không chặt chẽ, người được bảo lãnh bị phá sản, người được bảo lãnh vẫn còn nợ ngân hàng phát hành…
Ba là, BLNH mang tính chứng từ. Bằng việc chấp thuận phát hành bảo lãnh, ngân hàng phát hành đã mang một nghĩa vụ thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình chứng từ phù hợp. Ngân hàng phát hành, do vậy, đã chịu một rủi ro tín dụng. Khi người thụ hưởng xuất trình chứng từ phù hợp với các điều khoản của bảo lãnh thì ngân hàng phải có trách nhiệm thanh toán. Nếu chứng từ xuất trình không phù hợp với những điều khoản của bảo lãnh thì ngân hàng phát hành được miễn trừ trách nhiệm thanh toán. Như vậy, hoạt động BLNH mang tính chứng từ rất chặt chẽ.
Bốn là, BLNH luôn vì mục tiêu lợi nhuận. Khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng thông qua việc phát hành cam kết bảo lãnh, ngân hàng phát hành có quyền thu phí bảo lãnh theo thoả thuận mà không phụ thuộc vào việc có phải thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng hay không. Trong nhiều trường hợp, mức phí bảo lãnh chính là cơ sở để ngân hàng phát hành xem xét, quyết định việc đáp ứng nhu cầu được phát hành bảo lãnh của khách hàng.
Đặc điểm nêu trên của BLNH cũng thể hiện sự khác biệt so với bảo lãnh trong dân sự, là loại bảo lãnh mà bên bảo lãnh có thể hưởng thù lao hoặc không có thù lao tùy theo thỏa thuận của bên bảo lãnh với bên được bảo lãnh.

3 Tại sao trong các loại hình tín dụng thì tín dụng ngân hàng là hình thức phổ biến và quan trọng nhất hiện nay?

Tín dụng ngân hàng có một số ưu điểm nổi bật so với các hình thức khác là:

  • Tín dụng ngân hàng được thực hiện bằng hình thức cho vay tiền tệ, loại hình phổ biến, linh hoạt và đáp ứng mọi đối tượng trong nền kinh tế quốc dân.
  • Cho vay chủ yếu bằng vốn đi vay của các thành phần trong xã hội chứ không phải hoàn toàn là vốn thuộc sở hữu của chính mình như tín dụng nặng lãi hay tín dụng thương mại.
  • Có phạm vi lớn vì nguồn vốn bằng tiền là thích hợp với mọi đối tượng trong nền kinh tế, do đó nó có thể cho nhiều đối tượng vay.
  • Thời hạn cho vay phong phú, có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay.
  • Bên cạnh đó thì tín dụng ngân hàng còn có thể thỏa mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn của các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó có thể huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn.

4 Chứng minh tín dụng ngân hàng là một kênh truyền tải tác động của nhà nước đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô (giá cả, tạo công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế).

Hầu hết các nhà kinh tế đều tin tưởng rằng, ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những yêu cầu tiên quyết của tăng trưởng. Mặc dù có tồn tại một số quan điểm cho rằng mối liên hệ giữa ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng là không thực sự rõ nét, các nghiên cứu thống kê chỉ ra rằng một nền kinh tế chỉ duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn khi đảm bảo được ổn định kinh tế vĩ mô

Thật vậy, khi kinh tế tăng trưởng và ổn định thì đời sống người dân mới được nâng cao, làm gia tăng mọi nhu cầu trong đời sống xã hội trong đó có cả nhu cầu tiêu dùng lẫn nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những tiêu chí quan trọng để đưa ra quyết định đầu tư vì điều đầu tiên mà doanh nghiệp quan tâm khi muốn thâm nhập vào một thị trường mới là môi trường kinh tế vĩ mô.

Để đo lường ổn định kinh tế vĩ mô, người ta thường đề cập đến các biến động ngắn hạn của các biến số kinh tế vĩ mô như GDP, lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán, thâm hụt ngân sách. Theo các tiêu chí của Hiệp ước Maastricht, ổn định kinh tế vĩ mô được đo lường bằng năm biến sau: (i) Lạm phát thấp và ổn định; (ii) Lãi suất dài hạn thấp; (iii) Nợ quốc gia/GDP thấp; (iv) Thâm hụt ngân sách thấp; (v) Ổn định tiền tệ (đảm bảo tỷ giá không biến động quá lớn)

Như vậy, để ổn định kinh tế vĩ mô cần phải thực hiện các giải pháp, trong đó 02 giải pháp phải do NHTW thực hiện: (i) Kiềm chế và giữ lạm phát ở mức thấp và ổn định; (ii) Bình ổn thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối.

NHNN với vai trò là cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương, có nhiệm vụ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT). Bản chất của CSTT là tổng thể các biện pháp chính sách của NHTW tác động làm thay đổi cung tiền và lãi suất, qua đó mà tác động đến tăng trưởng, lạm phát và công ăn việc làm cao, do vậy, chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung.

Trong những năm qua, công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã bám sát tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Trên cơ sở các nhiệm vụ được xác định tại Nghị quyết số 11, NHNN đã triển khai mạnh mẽ trong công tác điều hành, đảm bảo các chính sách, diễn biến tiền tệ phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước, quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế. Kết quả, lạm phát được kiểm soát, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) được cơ cấu lại và đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế, khu vực sản xuất từng bước khôi phục và tiếp cận nguồn vốn ngân hàng với lãi suất hợp lý, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng cao, đáp ứng các nhu cầu về ngoại tệ trong các giao dịch kinh tế. Những nỗ lực đáng chú ý trong công tác điều hành CSTT của NHNN trong thời gian qua được thể hiện thông qua việc xây dựng, ban hành và triển khai các giải pháp cụ thể, như:

– Các giải pháp tiết giảm tình trạng đô la hóa và vàng hóa, ổn định thị trường ngoại hối được NHNN thực hiện nhịp nhàng cùng với các giải pháp điều hành chính sách tỷ giá chủ động, mang tính dẫn dắt thị trường; chính sách đấu thầu vàng đảm bảo sự ổn định của thị trường.

– Các giải pháp giải phóng kênh tín dụng được NHNN thực hiện mạnh mẽ thông qua các chương trình tái cấu trúc, giải quyết nợ xấu tồn đọng, hoàn thiện cơ chế quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, thông qua các chương trình tọa đàm xúc tiến đầu tư theo vùng lãnh thổ, theo ngành nghề.

– Các giải pháp nhằm tăng cường vai trò của thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng.

– Các biện pháp điều hành lãi suất với những bước đi thích hợp, đảm bảo giảm nhanh chóng và hiệu quả mặt bằng lãi suất, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, từng bước hình thành đường cong lãi suất, hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối.

– Các giải pháp thiết lập kỷ luật thị trường tiền tệ được thực hiện nghiêm túc trên cơ sở điều hành CSTT gắn kết chặt chẽ với công tác thanh tra, giám sát, đảm bảo thực thi nghiêm các chính sách của NHNN, qua đó giúp cơ chế truyền tải CSTT được vận hành tốt hơn.

Có thể nhận thấy, CSTT góp phần quan trọng đối với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và định hướng cho hoạt động ngân hàng trong thời gian qua.

5 Tại sao nói hoạt động cho vay là một trong các hình thức cấp tín dụng? So sánh hoạt động cho vay với các hình thức cấp tín dụng khác. Nêu rõ ưu điểm của phương thức cấp tín dụng này?

Khi nói đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, người ta thường nghĩ tới cho vay và đôi khi đồng nhất thuật ngữ “cho vay” với thuật ngữ “tín dụng”. Thực ra khái niệm cho vay hẹp hơn tín dụng. Như đã đề cập ở trên, tín dụng có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức mà cho vay chỉ là một trong các hình thức cấp tín dụng mà thôi. Theo quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng thì khái niệm cho vay được hiểu là:

Cho vay là một hình thúc cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một số tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận, với nguyên tắc có hoàn trả cả vốn gốc và lãi.

Từ khái niệm trên có thể nhận thấy một số đặc trưng cơ bản của cho vay như sau:

* Cho vay có hình thái tín dụng là tiền tệ.

Đây là điểm khác biệt với các hình thức cấp tín dụng khác như bảo lãnh hoặc cho thuê tài chính. Cho vay với hình thái tiền tệ được xem như một hình thức cấp tín dụng cổ điển của ngân hàng thương mại bởi vì nó xuất hiện từ rất sớm (ngay sau sự xuất hiện của chiết khấu). Với hình thái là tiền tệ, cho vay nhiều lợi thế hơn so với các hình thức tín dụng khác bởi vì nó có thể thỏa mãn mọi nhu cầu đa dạng của nhiều tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế, trong xã hội. Cho đến nay, mặc dù ngân hàng đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với sự xuất hiện của nhiều hình thức tín dụng khác nhau, cho vay vẫn chiếm một tỷ lệ khá cao trong các loại hình tín dụng của ngân hàng.

* Bản chất của hành vi cho vay là ứng trước – Advance nên độ rủi ro cao

Trong cho vay, ngân hàng chuyển tiền cho khách hàng dựa trên một dự định, một ý tưởng kinh doanh khách hàng sắp thực hiện, hay nói khác đi là tiền được đưa ra khi người vay chưa / hoặc mới bắt đầu thực hiện ý định của mình. Việc cấp tín dụng được thực hiện sau khi ngân hàng xem xét, phân tích về tính khả thi, hiệu quả của ý tưởng, mục đích sử dụng tiền của khách hàng. Tuy nhiên trong thực tế từ ý tưởng cho đến hiện thực là một khoảng cách gian nan, không dễ gì rút ngắn. Có thể xuất hiện rất nhiều biến cố tác động làm cho ý tưởng, dự định đó không thành công và nguồn trả nợ không hình thành. Vì vậy, độ rủi ro của cho vay là cao hơn so với các hình thức tín dụng khác. Cứ thử hình dung trong trường hợp ngân hàng cho khách hàng vay để kinh doanh, tiền vay sẽ được khách hàng sứ dụng để mua vật tư, nguyên liệu, thanh toán các chi phí sản xuất… khi sản phẩm xuất bán và thu được tiền về khách hàng sẽ hoàn trả nợ. Trong quá trình kinh doanh nói trên, có rất nhiều rủi ro xảy ra từ khi khách hàng nhận tiền cho đến khi thực sự thu được hết nợ. Chẳng hạn: khách hàng không mua được vật tư do những biến động của thị trường nguyên liệu, khách hàng không sản xuất được do các điều kiện sản xuất thay đổi, khách hàng không bán được sản phẩm do người mua phá vỡ hợp đồng tiêu thụ, người mua nhận sản phẩm nhưng chậm/ không trả tiền… thậm chí kể cả việc khách hàng thay đổi mục đích sử dụng tiền ban đầu dẫn đến thất thoát tiền vay… Tất cả những biến cố đó có thể làm cho một khoản vay không được hoàn trả như thỏa thuận ban đầu. Điều tương tự cũng có thể xảy ra cho một khoản vay tiêu dùng khi người vay bị bệnh tật, tử vong, thất nghiệp, nguồn thu nhập giảm sút, ý muốn trả nợ thay đổi…và cuối cùng là khoản vay… một đi không trở lại. Ngược lại trong chiết khấu thương phiếu khách hàng đã sản xuất xong hàng hóa, đã chuyển giao cho người mua và chỉ còn chờ thu tiền về, tiền của ngân hàng đưa ra trong giai đoạn này sẽ có độ rủi ro thấp hơn.

Rủi ro của một khoản cho vay còn có nguyên nhân xuất phát từ hình thái giá trị tiền tệ của nó. Với chức năng là phương tiện thanh toán, tiền tệ có thể thỏa mãn mọi mục đích khác nhau cho mọi chủ thể trong nền kinh tế và trong xã hội. Chính do sự linh hoạt của mục đích sử dụng tiền nên thực sự rất khó kiểm soát khi tiền đã được chuyển vào tay khách hàng và đây có thể là một trong những lý do dẫn đến thất thoát tiền, không trả nợ được cho ngân hàng. Điều này hoàn toàn không trong trong cho thuê tài chính. Bởi vì trong hình thức cấp tín dụng bằng tài sản thực này, việc khách hàng sử dụng tiền vay sai mục đích được giảm thiểu đến mức thấp nhất, do tài sản đã được tổ chức tín dụng mua về theo sự lựa chọn của khách hàng và giao cho khách hàng quyền sử dụng.

Chính vì cho vay có độ rủi ro cao nên các ngân hàng thường áp dụng rất nhiều biện pháp đa dạng để tăng thêm độ an toàn cho ngân hàng khi cho vay, chẳng hạn quy định về mức vốn đối ứng của phương án vay, quy định về bảo đảm cho khoản vay, quy định quy trình giải ngân, giám sát khoản vay…Các quy định này không nhất thiết phải có trong các hình thức cấp tín dụng khác.

* Đối tượng cho vay phong phú.

Đây là điểm khác biệt với các hình thức cấp tín dụng còn lại. Đối tượng cho vay trả lời cho câu hỏi: ngân hàng cho vay cái gì? Sự phong phú đổi tượng cho vay xuất phát từ sự đa dạng về mục đích vay của khách hàng: có thể là vay để đầu tư xây dựng cơ bản, vay mua sắm máy móc thiết bị, vay kinh doanh, vay tiêu dùng, vay để hình thành nguồn vốn cho vay của các định chế tài chính khác… Những mục đích vay phong phú có thể dẫn đến những nhu cầu vay hết sức đa dạng về thời hạn, về quy mô…. nên phạm vi đối tượng cho vay của ngân hàng rất rộng lớn. Chẳng hạn đối với một khoản vay kinh doanh, đối tượng cho vay có thể bao gồm nhu cầu phát sinh trong các giai đoạn của một chu kỳ hoạt động: giai đoạn mua vào là nhu cầu thanh toán tiền vật tư hàng hóa, thuế nhập khẩu và các chi phí vận chuyến đi kèm, giai đoạn sản xuất có các chi phí tiền công, tiền lương, chi phí sản xuất bằng tiền, giai đoạn tiêu thụ là các chi phí bao bì đóng gói, chi phí bán hàng, chí phí tiêu thụ bàng tiền khác, giai đoạn thu tiền là giá trị các khoản nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán… Trong khi đó một khoản vay với mục đích xây dụng cơ bản thì đối tượng cho vay có thể là các chi phí thanh toán vật liệu xây dựng, tiền công… phát sinh trong quá trình xây dựng công trình trung, dài hạn. Với mục đích vay tiêu dùng, đối tượng cho vay có thể là các chi phí thanh toán tiền mua tài sản giá trị lớn như nhà, đất, xe cộ, các vật dụng gia đình, thanh toán chi phí sinh hoạt như: tiền ăn ở, đi lại, học tập, chữa bệnh…

Trái ngược với sự đa dạng trong đối tượng cho vay, đối tượng cấp tín dụng trong chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính đều khá hạn hẹp và thường chỉ giới hạn trong một số phạm vi nhất định (mặc dù đối tượng khách hàng trong các hình thức cấp tín dụng này không kém phần phong phú). Chẳng hạn trong cho thuê tài chính, đối tượng cấp tín dụng chỉ xoay quanh các nhu cầu về tài sản cố định như máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ…với thời gian trung dài hạn. Trong hình thức bảo lãnh ngân hàng, đối tượng cấp tín dụng là nhu cầu tăng cường uy tín của khách hàng trong quan hệ với đối tác của họ, nhằm bảo đảm cho quan hệ giữa khách hàng và đối tác được thực hiện một cách suôn xẻ. Trong chiết khấu đối tượng cấp tín dụng là giá trị các khoản nợ phải thu chưa đến hạn…

* Kỹ thuật thực hiện cho vay đa dạng.

Có thể nói trong cho vay ngân hàng có rất nhiều cách thức để chuyển giao tiền cho khách hàng. Điều này được quy định trong các phương thức cho vay của ngân hàng. Theo đó mỗi phương thức cho vay là một tập hợp các kỹ thuật tác nghiệp cụ thể của ngân hàng khi thực hiện khoản vay, bao gồm kỹ thuật xác định mức cho vay, thời hạn vay, định kỳ hạn nợ, giải ngân thu nợ và xử lý nợ. Việc vận dụng phương thức cho vay nào là tuỳ thuộc vào quá trình tìm hiểu của ngân hàng về đặc điểm hoạt động, khả năng tài chính, về rủi ro đặc trưng của người vay… để từ đó chọn và áp dụng phương thức cho vay thích hợp, đảm bảo thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng và hiệu quả của vốn tín dụng. Theo quy định hiện nay (quy chế cho vay ban hành kèm quyết định số 1627/2001/QĐ –NHNN ngày 31/12/2001 và các văn bản sửa đổi bổ sung của ngân hàng Nhà nước) có 8 phương thức cho vay. Cụ thể như sau:

– Cho vay từng lần

– Cho vay theo hạn mức tín dụng

– Cho vay theo dự án đầu tư

– Cho vay trả góp

– Cho vay thông qua phát hành và sử dụng thẻ tín dụng

– Cho vay hợp vốn

– Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng

– Cho vay theo hạn mức thấu chi

Chi tiết của các phương thức cho vay này sẽ lần lượt được nghiên cứu trong các chương kế tiếp.

6 Chứng minh bảo lãnh ngân hàng là một hình thức cấp tín dụng có điều kiện.

Căn cứ Khoản 18 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 quy định: Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD cam kết với Bên nhận bảo lãnh về việc TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho Khách hàng khi Khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận.

Như vậy, Cam kết bảo lãnh là văn bản do TCTD, Chi nhánh NHNN, TCTD ở nước ngoài phát hành, trong đó cam kết về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cũng như các nội dung khác được quy định tại Cam kết bảo lãnh trên cơ sở phù hợp với thỏa thuận cấp bảo lãnh và quy định của Pháp luật.

7 Phân tích các nguyên tắc cho vay. Theo anh/chị nguyên tắc nào quan trọng nhất? Vì sao?

– Nguyên tắc hoàn trả: khoản tín dụng phải được thanh toán đầy đủ nguyên gốc sau khi sử dụng để ngân hàng bảo toàn được vốn ở mức tối thiểu nhất để có thể duy trì được hoạt động.

– Nguyên tắc thời hạn: khoản tín dụng phải được hoàn trả đúng vào thời điểm đã được hai bên xác định cụ thể và được ghi nhận trong thỏa thuận vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng.

– Nguyên tắc trả lãi: ngoài việc thanh toán đầy đủ, đúng hạn khoản gốc, khách hàng phải có trách nhiệm thanh toán khoản lãi tính bằng tỷ lệ % trên số tiền vay, được coi là giá mua quyền sử dụng vốn.

– Nguyên tắc tài sản đảm bảo: để bảo vệ nguồn vốn của ngân hàng khi khách hàng vi phạm các điều kiện vay vốn hoặc khi chủ nhân của các tài sản thế chấp không còn khả năng thanh toán cho ngân hàng.

– Nguyên tắc sử dụng vốn vay đúng mục đích: tất cả các khoản tín dụng phải được sử dụng đúng mục đích vay thể hiện trong hồ sơ vay vốn.

 8 Lý giải tại sao khi bên đi vay trả tiền vay trước hạn thì thường bị phạt.

=> Việc trả tiền trước vi phạm nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn hoạt động cho vay, bù đắp chi phí trả lãi huy động vốn của tổ chức tín dụng trong thời gian tổ chức tín dụng sắp xếp đưa số tiền này ra cho vay khách hàng khác. Đây là nguyên tắc thể hiện tính chất đặc trưng của tín dụng phân biệt so với cấp phát ngân sách. Đây cũng là điều kiện “tồn vong” của tín dụng. Hoàn trả đúng thời hạn còn liên quan đến tính kế hoạch của nguồn vốn. Một nhà kinh tế học người Nga tên là Mantranốp cho rằng đây là nguyên tắc trên cả nguyên tắc (over principle).

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, tức là kinh tế XHCN phát triển cao, thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tuyệt đại bộ phận, thì ngân hàng một cấp (Ngân hàng Nhà nước kiêm cả nhiệm vụ ngân hàng thương mại) và các doanh nghiệp quốc doanh được coi là một chủ sở hữu (đều là sở hữu toàn dân) thì ở đâu đó không coi trọng, thậm chí loại bỏ nguyên tắc này cũng là điều dễ hiểu. Nhưng trong nền kinh tế thị trường dù là có định hướng XHCN, quyền sở hữu tài sản của từng thành phần kinh tế được bảo vệ nghiêm ngặt, thì “hoàn trả” là nguyên tắc tín dụng được coi trọng. Chính vì vậy, từ năm 1990 đến nay, chưa có văn bản nào bác bỏ nguyên tắc này.

9 Vì sao pháp luật lại quy định giới hạn cho vay? Trường hợp nhu cầu vay vượt quá quy định cho phép thì giải quyết thế nào?

=> Việc cho một đối tượng vay quá nhiều trong 1 lần sẻ dẫn đến tăng rủi ró mất khả năng thanh khoản cho ngân hàng vì vậy xuất phát từ nguyên tắc phân tán rủi ro pháp luật quy định giới hạn cho vay đế đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Trong trường hợp nhu cầu vay vượt quá quy định ngân hàng có thể sử dụng phương thức đồng tài trợ để giải quyết.

10 Lý giải tại sao giới hạn cho vay của ngân hàng lại cao hơn phi ngân hàng?

hoạt động cho vay của TCTD phi ngân hàng vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Những năm gần đây, những hạn chế của nhóm TCTD phi ngân hàng cũng đã bộc lộ, như là một số công ty tài chính hoạt động kém hiệu quả, một số công ty cho thuê tài chính thua lỗ kéo dài, tỷ lệ nợ xấu cao… Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có hệ thống chấm điểm tín dụng cá nhân để làm cơ sở cho các công ty tài chính nhìn vào đó xem xét, cân nhắc cho vay khách hàng nào, với lãi suất ra sao. Đặc biệt với các TCTD phi ngân hàng thì chế độ quản lý rủi ro còn khá lỏng lẻo bởi mục đích cho vay nhiều để kiếm lời, chưa được kiểm soát quy định chặt chẽ như ngân hàng nên rủi ro cho các TCTD phi ngân hàng tất yếu cao hơn.

Thực tế này đặt ra yêu cầu về cả công tác quản lý của NHNN cũng như thực tiễn triển khai hoạt động kinh doanh tại các TCTD phi ngân hàng, đưa ra những chính sách phù hợp, nhằm thúc đẩy nhóm TCTD phi ngân hàng phát triển một cách lành mạnh, hiệu quả, thực hiện đúng vai trò của nhóm TCTD phi ngân hàng trong hệ thống TCTD, phát triển thị trường dịch vụ tài chính đa dạng, phong phú, đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế.

11 Tại sao các đối tượng quy định tại điều 126 Luật các tổ chức tín dụng thì không được cấp tín dụng mà các đối tượng quy định tại điều 127 chỉ bị hạn chế cấp tín dụng? 

=> Các đối tượng tại điều 126 bị cấm cho vay vì thứ nhất họ là những người có chức vụ lãnh đạo hoặc người có liên quan với những người có chức vụ lãnh đạo trong ngân hàng vì vậy khi cho các đối tượng này vay họ sẻ dễ dàng tác động nhằm tạo cho họ có các điều kiện vay vốn ưu đãi hơn so với các đối tượng khác. Thứ 2 việc cho các đối tưỡng này vay sẻ khó khăn trong việc thu hồi lại vốn vay và bất lợi sẻ thuộc về ngân hàng. Các đối tượng tại điều 127 bị hạn chế cho vay.

12 Hạn chế cấp tín dụng là gì? các trường hợp hạn chế cấp tín dụng? Các trường hợp cấm cấp tín dụng?

1. Hạn chế cấp tín dụng là gì?

Hạn chế tín dụng là Giới hạn loại khách hàng không được cho vay hoặc không được cho vay với điều kiện ưu đãi và giới hạn mức cho vay tối đa đối với các loại khách hàng. Hạn chế tín dụng là biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng mà tổ chức tín dụng có nghĩa vụ phải thực hiện.

2. Các trường hợp hạn chế cấp tín dụng

Điều 127 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định các tổ chức tín dụng bị hạn chế cấp tín dụng trong các trường hợp như sau:

Thứ nhất, không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho những đôi tượng sau đây:

+ Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên, thanh tra viên đang kiểm toán, thanh tra tại tổ chức tín dụng;

+ Kế toán trưỏng của tổ chức tín dụng, Chủ tịch và thành viên khác của Hội đồng quản trị, Trưởng ban và thành viên khác của Ban kiểm soát, Giám đốc, Phó giám đốc và các chức danh tương đương của quỹ tín dụng nhân dân; cổ đông lớn (sở hữu trực tiếp, gián tiếp từ 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên), cổ đông sáng lập của tổ chức tín dụng;

+ Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật Các tổ chức tín dụng về “Những trường hợp không được cấp tín dụng” sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó;

Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng;

+ Các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát;

Thứ hai, việc cấp tín dụng đối với những đối tượng tại trường hợp thứ nhất nêu trên phải được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng thông qua và công khai trong tổ chức tín dụng;

Thứ ba, tổng mức dư nợ cấp tín dụng quy định tại trường hợp thứ hai nêu trên bao gồm cả tổng mức mua, đầu tư vào trái phiếu do các đối tượng là tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên; thanh tra viên; cổ đông lớn, cổ đông sáng lập; doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật Các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó phát hành;

Thứ tư, tổng mức dư nợ cấp tín dụng quy định tại trường hợp thứ ba nêu trên bao gồm cả tổng mức mua, đầu tư vào trái phiếu do các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát phát hành.

3. Người bị hạn chế cấp tín dụng là “người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng”

“Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng trước kia thuộc đối tượng bị cấm cho vay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn không được giải thích thê nào là “người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng”. Do đó đang có bốn cách hiểu như sau:

Thứ nhất, là chính người thẩm định, người xét duyệt cấp tín dụng chính khoản tín dụng đó;

Thứ hai, là những người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng trong từng phòng, ban hay chi nhánh của tổ chức tín dụng;

Thứ ba, là những người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng trong cả tổ chức tín dụng;

Thứ tư, là những người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng của mọi tổ chức tín dụng.

Cách hiểu hợp lý nhất là chỉ ràng buộc với trường hợp thứ nhất. Tuy nhiên trên thực tế vẫn đang bị hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhất là không có giải thích thế nào là thẩm định, quyết định, phê duyệt và xét duyệt cấp tín dụng trong các quy định về “nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cấp tín dụng”, quy định nội bộ về cấp tín dụng phải có “nguyên tắc phân cấp, ủy quyền việc quyết định, phê duyệt cấp tín dụng” (Điểm a khoản 1 Điều 4 Thông tư 22/2019/TT-NHNN)

Điều này cũng vướng mắc tương tự như quy định về việc hạn chế tín dụng đối vói “Kế toán trưởng, Thanh tra viên” trước kia bị hiểu theo nhiều cách khác nhau là người của chính tổ chức tín dụng hay cả bên ngoài, thì nay đã được Luật quy định rõ là kế toán trưởng của tổ chức tín dụng và thanh tra viên đang thanh tra tại tổ chức tín dụng. (điểm a, điểm b khoản 1 điều 127 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017)

Ngoài ra, quy định trên còn bất hợp lý ở điểm, không được “cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng” nếu “không có bảo đảm” hoặc “với điều kiện ưu đãi” cho nhân viên là “người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng”, nhưng lại được phép cấp tín dụng cho những người quản lý, kiểm soát, điều hành của tổ chức tín dụng cũng như cha, mẹ, vợ, chồng, con của họ (vì các đôi tượng này được loại trừ khỏi các trường hợp bị cấm đồng thời lại không thuộc trường hợp bị hạn chế).

Ngoài ra, pháp luật quy định hạn chế cấp tín dụng bằng các giới hạn tín dụng đối với mỗi trường hợp, khách hàng hoặc mỗi nhóm nhóm khách.

4. Quy định pháp luật về cấm cấp tín dụng

Xin chào luật sư, Tôi có nghe nói để đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng thì có một số trường hợp không được cấp tín dụng, vậy vui lòng hỗ trợ giúp tôi đó là những trường hợp nào? Tôi chân thành cảm ơn! (Văn Nam – Hà Nội)

Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng (bao gồm cả hoạt động mua, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp) trong các trường hợp sau đây:

Thứ nhất, không được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc và các chức danh tương đương của tổ chức tín dụng, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vôn góp là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng là công ty cổ phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn;

Thứ hai, không được cấp tín dụng cho cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc và các chức danh tương đương;

Thứ ba, không được cấp tín dụng và không được bảo đảm dưới bất kỳ hình thức nào để tổ chức tín dụng khác cấp tín dụng cho khách hàng trên cơ sỏ bảo đảm của các đối tượng tại hai trường hợp nêu trên;

Thứ tư, không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát;

Thứ năm, không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng. Năm 2003, pháp luật đã từng quy định, ngân hàng thương mại cổ phần sở hữu không được cấp tín dụng cho Công ty kiều hối trực thuộc;

Thứ sáu, không được cấp tín dụng để góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng.

Trường hợp cấm cấp tín dụng thứ nhất và thứ hai nêu trên không áp dụng đối với quỹ tín dụng nhân dân và phát hành thẻ tín dụng cho cá nhân.

Pháp luật quy định, tổ chức tín dụng không được cho vay đối với sáu nhu cầu vốn sau đây:

Thứ nhất, để thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh thuộc ngành, nghề mà pháp luật cấm đầu tư kinh doanh;

Thứ hai, để thanh toán các chi phí, đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch, hành vi mà pháp luật cấm;

Thứ ba, để mua, sử dụng các hàng hóa, dịch vụ thuộc ngành, nghề mà pháp luật cấm đầu tư kinh doanh;

Thứ tư, để mua vàng miếng;

Thứ năm, để trả nợ khoản nợ vay tại chính tổ chức tín dụng cho vay trừ trường hợp cho vay để thanh toán lãi tiền vay phát sinh trong quá trình thi công xây dựng công trình, mà chi phí lãi tiền vay được tính trong dự toán xây dựng công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật.

Tổ chức tín dụng cũng không được cho vay trong trường hợp khoản vay của khách hàng tại tổ chức tín dụng khác có nhiều kỳ hạn trả nợ, trong đó có một kỳ hạn đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, để trả nợ trước hạn khoản vay này.

Tổ chức tín dụng cũng không được cho vay đối với khách hàng trong trường hợp vay vốn cầm cố bằng tiền gửi tiết kiệm để trả nợ khoản vay đến hạn tại chính tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên, tổ chức tín dụng vẫn có thể xem xét, quyết định cho vay đối với các nhu cầu vốn để trả nợ cá nhân và tổ chức khác, nếu như đó không phải là tổ chức tín dụng.

Thứ sáu, để trả nợ khoản nợ vay tại tổ chức tín dụng khác và trả nợ khoản vay nước ngoài, trừ trường hợp cho vay để trả nợ trước hạn khoản vay đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

+ Là khoản vay phục vụ hoạt động kinh doanh;

+ Thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn cho vay còn lại của khoản vay cũ;

+ Là khoản vay chưa thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ

13 Tại sao pháp luật quy định hợp đồng tín dụng là hợp đồng mẫu. Theo anh(chị) vấn đề này có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên đi vay không? Giải thích? 

=> hợp đồng mẫu theo định nghĩa điều 407 luật dân sự là hợp đồng do một bên soạn thảo còn bên kia trả lời. Hợp đồng tín dụng là hợp đồn mẫu vì việc cấp tín dụng là nghiệp vụ ngân hàng như vậy việc để ngân hàng soạn sẵn mẫu hợp đồng sẻ giúp tiết kiệm thời gian. Vì vậy vấn đề này không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên đi vay.

14 Phân tích các điều kiện vay vốn? Dưới góc độ ngân hàng, theo anh/chị khi thẩm định các điều kiện vay vốn nên chú ý điều kiện nào nhất? Vì sao?

1 Điều kiện về đối tượng vay vốn:

Đối tượng được vay vốn ngân hàng:

  • Cá nhân có quốc tịch Việt Nam hoặc quốc tịch nước ngoài.
  • Cá nhân từ 18 tuổi.
  • Có CMND/Thẻ căn cước công dân/Hộ chiếu có hiệu lực
  • Mục đích vay tiền ngân hàng nhằm phục vụ mục đích hợp pháp.

Đối tượng không được ngân hàng hỗ trợ vay vốn:

  • Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của ngân hàng.
  • Người có nhu cầu sử dụng vốn vay để thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh thuộc ngành, nghề mà pháp luật cấm.
  • Đối với khách hàng có khoản nợ xấu từ các ngân hàng hoặc điểm tín dụng thấp, ngân hàng hoàn toàn có thể từ chối cho vay.

1.2 Điều kiện về thu nhập

Khách hàng cần chứng minh có thu nhập ổn định thông qua hợp đồng lao động (có hiệu lực) với sao kê lương (bản gốc) từ 3-6 tháng gần nhất. Ngân hàng sẽ xem xét mức thu nhập của người đi vay với số tiền cho vay để đánh giá khả năng chi trả nợ. Bên cạnh đó, một số ngân hàng còn bổ sung thêm những điều kiện khác nhau.

1.3 Điều kiện về tài sản đảm bảo

Để vay thế chấp ngân hàng, trước tiên khách hàng cần có tài sản đảm bảo để thực hiện nghĩa vụ dân sự. Khách hàng có thể sử dụng các loại tài sản đảm bảo (TSĐB) sau để vay thế chấp tại ngân hàng.

=>> Khi thẩm định các điều kiện vay vốn nên chú ý điều kiện  về tài sản đảm bảo nhất.Bởi lẽ đây là biện pháp an toàn khi rủi ro xảy ra,tài sản đảm bảo sẽ giúp ngân hàng xử lí và thu hồi vốn nhanh chongs hơn  cả

15 Hình thức pháp lý của hợp đồng tín dụng? Tại sao pháp luật lại quy định như vậy?

heo quy định hiện hành của Luật tổ chức tín dụng 2010, tuy không có điều khoản nào trực tiếp quy định rằng hợp đồng tín dụng phải được kí kết bằng văn bản nhưng thực tế cho thấy các tổ chức tín dụng luôn kí kết hợp đồng tín dụng với khách hàng bằng hình thức văn bản. Sở dĩ như vậy là bởi việc kí kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản có những ưu điểm sau đây:

Một là hợp đồng tín dụng được kí kết bằng văn bản sẽ tạo ra bằng chứng cụ thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng.

Hai là việc kí kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lí giữa những người lập ước để cho người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lí, an toàn trong trường hợp cần thiết.

Ba là việc kí kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn. Chẳng hạn như việc thu thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát hoạt động thương mại của các chủ thể kinh doanh trên thương trường.

Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản (Xem: Khoản 1 Điều 119 BLDS 2015). Các văn bản hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lí như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch (Xem: Các điều 11, 12, 13, 14Luật giao dịch điện tử 2015).

Việc pháp luật quy định mọi hợp đồng tín dụng phải được kí kết bằng văn bản cùng với sự chấp nhận hai hình thái vật chất nói trên của văn bản hợp đồng tín dụng có thể xem là những nỗ lực rất đáng kể của các nhà lập pháp nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lí cho các bên tham gia hợp đòng tín dụng.

16 Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng là loại tranh chấp gì?. Xác định  phương thức giải quyết loại tranh chấp này.

Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được hiểu là tình trạng pháp lí của quan hệ hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Một hợp đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài (mặt khách quan) thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được. Vì thế, không phải cứ khi nào có vi phạm hợp đồng thì khi đó có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Thậm chí có sự vi phạm hợp đồng tín dụng nhưng không hề có tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vỉ phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ. Trong thực tiễn, việc xác định đúng đắn và chính xác thời điểm phát sinh tranh chấp sẽ có tác dụng rất lớn trong việc xác định thời hiệu khởi kiện cũng như lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp thật sự đúng đắn và phù hợp với pháp luật, trên cơ sở đó góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội.

*Các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

Ngày nay, tuỳ thuộc vào quan điểm, tư tưởng của nhà lập pháp mà pháp luật của mỗi nước có những quy định khác nhau về vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng.

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng sẽ được giải quyết bằng những phương thức sau đây:

– Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng phương thức thương lượng hoặc hoa giải qua trung gian. Theo quy định của pháp luật, để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, trước hết các bên có quyền tự thương lượng với nhau về các mâu thuẫn, xung đột, bất đồng nhằm tiến tới sự dung hoà về lợi ích cho cả hai bên. Trong trường hợp việc thương lượng không đạt kết quả, các bên có thể lựa chọn giải pháp hoà giải với nhau qua trung gian hoà giải. Việc quy định các cơ chế này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và giúp cho các bên tránh được những chi phí không cần thiết do phải theo kiện trước toà. Tuy vậy, nếu các bên không thể tự giải quyết được tranh chấp cho mình bằng con đường thương lượng, hoà giải thì theo luật định họ có quyền đưa tranh chấp ra xét xử tại một cơ quan tài phán có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

– Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng cơ chế tài phán. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tài phán được xem như giải pháp cuối cùng để phân định quyền lợi giữa các bên theo quy định của luật tố tụng.

Trên thực tế, luật tố tụng của mỗi quốc gia có sự khác nhau trong việc quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ họp đồng tín dụng. Chẳng hạn, theo pháp luật về tố tụng của Cộng hoà Pháp thì những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng (là chủ thể kinh doanh) với các pháp nhân hoặc cá nhân có đăng kí kinh doanh trong danh bạ thương mại, được xem là tranh chấp thương mại và sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án thương mại. Còn những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với các chủ thể không phải là thương nhân thì việc giải quyết sẽ được phân định theo quy tắc sau đây:

+ Nếu người bị kiện (bị đơn) là một thương nhân thì bên nguyên đơn có thể lựa chọn giữa toà án thương mại hoặc toà án dân sự để khởi kiện;

+ Nếu người bị kiện là một người không phải thương nhân thì bên nguyên đơn chi có thể khởi kiện tại toà án dân sự.

Ví dụ: Nếu một Ngân hàng thương mại Pháp cho một công dân Pháp vay tiền (không phải để kinh doanh) mà đến hạn người đó không trả nợ thì ngân hàng thương mại có thể sử dụng quyền khởi kiện để kiện bên vay trước toà án dân sự.

Ở Việt Nam, theo quy định của BLTTDS 2015, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, trong đó có tranh chấp về hợp đồng tín dụng sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự. Ngoài ra, theo Luật trọng tài thương mại 2010 nếu hợp đồng tín dụng có thoả thuận của các bên về việc lựa chọn cơ quan tài phán là trọng tài thương mại thì tranh chấp này sẽ được giải quyết tại trọng tài thương mại theo thủ tục tố tụng trọng tài.

17 Biện pháp bảo đảm tiền vay là gì? Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm tiền vay?

Bảo đảm tiền vay không chỉ đơn thuần và duy nhất là cho vay phải có tài sản để thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh (tức là bảo đảm bằng tài sản) mà cần hiểu nó theo nghĩa rộng. Có nghĩa là tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ để cho vay; TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Các TCTD phải chủ động tìm kiếm đối tác của mình. Đây là biện pháp tích cực, mang tính phòng ngừa cao và vì vậy, cần được áp dụng trước tiên trong các biện pháp bảo đảm tiền vay. Các biện pháp bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh mặc dù có sự bảo đảm về mặt vật chất và rất cần thiết nhưng hiệu quả không cao và các thủ tục để áp dụng các biện pháp trên cũng như việc xử lý các tài sản dùng làm vật cầm cố, thế chấp, bảo lãnh hiện nay cũng rất phức tạp. Các biện pháp này chỉ mang tính thụ động. Vì vậy, nên hiểu bảo đảm tiền vay ” là hàng loạt các giải pháp nhằm mục đích thực hiện cho được yêu cầu buộc vốn cho vay ra phải được quay về với người cho vay sau một chu kỳ nhất định với đầy đủ cả gốc và lãi “.

Bảo vệ người gửi tiền
 Các tổ chức tín dụng ở nước ta hiện nay chủ yếu cho vay. Các tổ chức này cho vay trên cơ sở nguốn vốn huy động là chủ yếu, tức là không cho vay tiền của bản thân mình mà đi vay để cho vay, chính vì vậy trách nhiệm hàng đầu của các tổ chức tín dụng là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát (không thu hồi được) thì trước tiên TCTD phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Nếu không đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì TCTD sẽ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, thậm chí phá sản. Do vậy, bảo đảm tiền vay gián tiếp đóng vai trò bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền.
Bảo vệ sự an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng
 Ngân hàng Trung ương của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có nhiệm vụ bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động một cách có hiệu quả, an toàn và ổn định. Nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó, dù chỉ ở một ngân hàng và chỉ ở một mức nào đó cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn và ổn định của toàn hệ thống. Vì lẽ đó mà các Ngân hàng Trung ương đều có quy định mọi tổ chức tín dụng phải tuân thủ quá trình phân tích rủi ro trước khi cho vay. Bảo đảm tiền vay là vấn đề vô cùng quan trọng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, bởi lẽ đây chính là các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro khi tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn. Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay không phải là cái đích mà các bên trong quan hệ tín dụng ngân hàng mong muốn hướng tới, song, trong điều kiện nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay thì có lẽ đây là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo toàn vốn vay của các tổ chức tín dụng.
Trong trường hợp khách hàng rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả, ngân hàng có thể tránh được mọi hậu quả liên quan đến việc phá sản của khách hàng. Nếu tài sản bảo đảm tiền vay có tính thanh khoản cao, thì việc thu hồi vốn vay từ việc phát mại tài sản là hoàn toàn bảo đảm, thậm chí có những trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản thừa để trả nợ (ví dụ: tài sản là bất động sản) thì số tiền thừa này có thể chia cho các chủ nợ khác của khách hàng. Còn nếu một khoản vay không có bảo đảm thì trong trường hợp khách hàng không trả nợ khi đến thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng ngân hàng, ngân hàng sẽ đứng chung hàng với các chủ nợ không có bảo đảm khác và chỉ nhận được một phần số vốn đã bỏ ra cho khách hàng.
Ngân hàng có thể thu hồi vốn mà không phụ thuộc vào khách hàng có ý định thực hiện nghĩa vụ trả nợ hay không. Thực tiễn hoạt động kinh doanh ngân hàng đã cho thấy, khách hàng thường coi ngân hàng như một “nhà tư bản tiền tệ”, khách hàng có thể trả nợ lúc nào mà mình muốn. Và bảo đảm tiền vay là một trong các giải pháp tốt nhất để bảo đảm thu hồi vốn vay thông qua việc bán tài sản bảo đảm hoặc TCTD nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ (Điều 33 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, ngày 29/12/1999). Như vậy, bất kể trường hợp nào thì ngân hàng vẫn có khả năng thu hồi vốn.
Thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng
 Ngoài ra, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ là vấn đề mấu chốt trong quan hệ hợp đồng, trong việc bảo đảm hiệu quả và mục đích của hợp đồng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mỗi bên. Việc các chủ thể được tạo điều kiện lựa chọn các quan hệ mà họ tham gia, cách thức và nội dung các quan hệ nghĩa vụ hoàn toàn không loại trừ trách nhiệm khi các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.
Trong thực tế, không phải bao giờ khi có vi phạm nghĩa vụ, thì các bên bị vi phạm cũng yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Hơn nữa, các biện pháp cưỡng chế không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả. Như vậy, khi nghĩa vụ không được bảo đảm bằng tài sản thì người có nghĩa vụ rất dễ lẩn tránh việc thực hiện nghĩa vụ; đồng thời, việc thực hiện lợi ích của người có quyền rất mong manh.

18 Trình bày các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động ngân hàng? 

Biện pháp đảm bảo tiền vay không bằng tài sản

a) Bảo lãnh:

Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Như vậy, đối tượng của quan hệ bảo lãnh đó là bằng uy tín, từ đó, Ngân hàng chỉ có thể yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện thay nghĩa vụ hoặc khởi kiện chứ không thể tác động vào tài sản của bên bảo lãnh được.

b) Tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội:

Tổ chức chính trị – xã hội ở cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại Tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo quy định của pháp luật.

Như vậy, theo khái niệm này thì tổ chức chính trị – xã hội không có nghĩa vụ trả nợ thay vì tổ chức chính trị không có tài sản riêng cũng như tư cách pháp nhân, nên chịu trách nhiệm về tài sản dường như không có.

Biện pháp đảm bảo tiền vay bằng tài sản

a) Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay

Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc bên vay vốn (bên cầm cố) có nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên cho vay (gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn).

b) Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay

Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc bên vay vốn (gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn) đối với bên cho vay (gọi là bên nhận thế chấp ) và không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp.

Trong thế chấp tài sản, Tổ chức tín dụng chỉ quản lý gián tiếp thông qua các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản.

c) Thế chấp, cầm cố bằng tài sản của bên thứ ba:

Thế chấp, cầm cố tài sản của người thứ ba là việc tổ chức, cá nhân (không phải là bên vay vốn) dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ một phần hoặc toàn bộ nợ vay (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn) cho bên đi vay.

19 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng

1. Khái niệm hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Bảo lãnh là khái niệm được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, ở mỗi góc độ nó được hiểu theo một nghĩa khác nhau. Hiểu theo phương diện pháp lí thì :” Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền(gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ – Điều 366 Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005.

Đó là khái niệm bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự, theo đó cũng có thể hiểu bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng với nghĩa tương tự. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 2010, bảo lãnh ngân hàng được hiểu như sau:” Là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”.

2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng

Hoạt động huy động vốn.

Ngân hàng có thể tạo ra nguồn vốn bằng rất nhiều cách thức khác nhau nhưng chủ yếu chính là từ tiền gửi của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các loại hình khác nhau. Có ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và ngoài ra ngân hàng còn vay từ các cá nhân, tổ chức hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay bằng các cách thức khác.

Huy động bằng tiền gửi.

Tiền gửi giao dịch dịch vụ nhân tiền gửi là một trong những dịch vụ có sớm nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ khách hàng. Dịch vụ này có nguồn vốn và chi phí thấp nhưng mặt khác lại có quy mô rất lớn đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay khi các lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ba. Cá nhân, tổ chức khi sử dụng loại tài khoản này phần lớn dùng thanh toán cho khách hàng. Nó vừa là tài sản có của khách hàng, vừa là tài sản nợ của ngân hàng và ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả lại cho người gửi vào bất kỳ thời điểm nào. Thông qua đó ngân hàng huy động được lượng vốn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng và thu phí dịch vụ cũng như cung cấp cho khách hàng những tiện ích nhất định.

Tiền gửi phi giao dịch có tiền gửi tiết kiệm được lập để huy động vốn những nguồn tiền mà một số khách hàng muốn dành riêng để thực hiện cho một nhu cầu về tài chính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền này cao hơn so với tiền gửi giao dịch, chi phí trả lãi cao, chi phí duy trì và quản lý thấp. Tiền gửi có kỳ hạn có xác định số tiền gửi vào và thời gian rút ra lãi suất thường khá ổn định. Số tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao và ổn định.ỷe đyộng bằng cách đi vay.

Các ngân hàng thường đi vay các tổ chức tín dụng, các ngân hàng khác. Vay trực tiếp bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, bán tín phiếu kho bạc, vay trên thị trường liên ngân hàng, vay ngân hàng trung ương bằng cách tái chiết khấu.

Hoạt động sử dụng vốn

Đây là hoạt động về ngân quỹ đảm bảo các khoản dự trữ tự nguyện dự trữ bắt buộc, đảm bảo tính thanh khoản, tiền mặt trong quá trình thu. Các hoạt động thanh toán bù trừ, tiền gửi giao dịch tại các tổ chức tín dụng khác. Đây là hoạt động nhằm kiểm soát tình hình ngân quỹ của ngân hàng không mang tính chất sinh lời. Hoạt động cho vay tùy theo từng tiêu chí có thể phân loại các hình thức cho vay theo mục đích sử dụng, bảo đảm hay kỳ hạn…Có thể nói hoạt động cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán và hoạt động ủy thác của khách hàng. Ngân hàng sử dụng vốn để mua chứng khoán có độ an toàn cao. Bên cạnh đó ngân hàng cũng thành lập các công ty chứng khoán với các nghiệp vụ như: tư vấn, bảo lãnh, lưu ký chứng khoán, môi giới…Một hoạt động khác của ngân hàng là nhận sự ủy thác của khách hàng để đầu tư vào những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cho khách hàng có rủi ro thấp. Ngân hàng đều có thể cung cấp cả hai loại dịch vụ ủy thác thông thường cho các cá nhân, hộ gia đình và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.

Hoạt động trung gian như: chuyển tiền hộ, mua bán ngoại tệ, tiền mặt, lưu ký, thanh toán séc, bảo lãnh, tư vấn tài chính, môi giới….

3. Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.

Từ khái niệm trên ta thấy thực chất bảo lãnh ngân hàng là một hình thái đặc thù của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, do vậy mà nó vừa mang đặc thù chung của bảo lãnh vừa mang đặc tính tiêng chỉ có trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Trước hết, với bản chất là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự thì bảo lãnh ngân hàng chứa đựng những thuộc tính chung sau:

Bảo lãnh ngân hàng là biện pháp bảo đảm mang tính đối nhân: Điều này thể hiện ở việc bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) có quyền yêu cầu trực tiếp bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đã cam kết mà không cần phải thực hiện việc đòi nợ thông qua một loại tài sản ưu tiên nào khác. Do vậy mà trong trường hợp bên bảo lãnh không có tài sản để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết của mình trước bên nhận bảo lãnh thì cam kết đó cũng không bị vì thế mà trở nên vô hiệu.

Phạm vi bảo lãnh có thể là toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên.

Bên cạnh những đặc điểm chung của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự thì hoạt động bảo lãnh ngân hàng cũng có những đặc thu sau:

Về bản chất pháp lí, bảo lãnh ngân hàng là một loại giao dịch thương mại đặc thù. Tính thương mại của hoạt động này thể hiện ở chỗ, hoạt động bảo lãnh ngân hàng vừa do tổ chức tín dụng thực hiện trên “thị trường” nhằm mục đích lợi nhuận vừa có tính chuyên nghiệp như một nghề nghiệp kinh doanh. Do đó mà để thực hiện hoạt động này bát buộc phải thực hiện việc đăng kí kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Về chủ thể, chủ thể hoạt động bảo lãnh ngân hàng luôn là các tổ chức tín dụng. Do bảo lãnh ngân hàng có tính rủi ro cao bởi vậy mà hoạt động này phải được thực hiện bởi các chủ thể chuyên nghiệp, có điều kiện về vốn là các tổ chức tín dụng.

Trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là người bảo lãnh mà còn có tư cách là nhà kinh doanh, thông qua hoạt động bảo lãnh tổ chức tín dụng tạo lợi nhuận cho mình.

Giao dịch bảo lãnh làm phát sinh hai hợp đồng: hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh. Hai hợp đồng này vừa gắn kết vừa tách rời, có mối quan hệ nhân quả với nhau nhưng hoàn toàn độc lập với nhau. Điều này thể hiện ở chỗ nếu như hợp đồng này vô hiệu thì không đương nhiên hợp đồng kia bị vô hiệu.

Giao dịch bảo lãnh ngân hàng không phải là gao dịch nhiều bên mà là giao dịch kép. Theo đó tổ chức tín dụng phải làn lượt kí kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh.

Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể hủy ngang bởi người đại diện có thẩm quyền của tố chức tín dụng bảo lãnh.

Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên chứng từ.

4. Vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.

Bảo lãnh ngân hàng có chức năng tài trợ (thông qua bảo lãnh, khách hàng ngư­ời đư­ợc bảo lãnh không phải xuất quỹ, đư­ợc vay nợ hoặc đ­ược kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng, dịch vụ) và chức năng bảo đảm (theo chức năng này ngư­ời thụ hư­ởng sẽ nhận đ­ược sự bồi thư­ờng về mặt tài chính trong tr­ường hợp ng­ười đ­ược bảo lãnh vi phạm cam kết).

Vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng vô cùng quan trọng, đối với từng chủ thể thì nó có vai trò riêng:

Đối với doanh nghiệp: Trong các quan hệ kinh tế không phải lúc nào các đối tác cũng tin t­ưởng nhau do rất nhiều nguyên nhân. Vì thế, để đảm bảo an toàn quan hệ làm ăn, bên cung cấp th­ường yêu cầu bên kia phải có bảo lãnh của ngân hàng thì giao dịch mới thực hiện. Do đó bảo lãnh ngân hàng đôi khi là yêu cầu bắt buộc để bư­ớc đầu giúp cho doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với hợp đồng. Ngoài ra, bảo lãnh giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm đ­ược khoản vay vốn đáng kể, có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn l­ưu động và doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản phí t­ương đối thấp.

Đối với tổ chức tín dụng: Đối với ngân hàng, bảo lãnh là một trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Bảo lãnh đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng đó là phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng một khoản không nhỏ, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay.Không chỉ đóng góp vào lợi nhuận, bảo lãnh còn làm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro mất vốn.

Đối với nền kinh tế: Sự tồn tại bảo lãnh ngân hàng là một khách quan đối với nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu làm cho nền kinh tế ngày một phát triển. Nó có vai trò như­ một chất xúc tác làm điều hoà, xúc tiến hàng loạt các quan hệ trong hợp đồng kinh tế. Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể tin tưởng yên tâm tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế và có trách nhiệm với hợp đồng của mình đã ký kết. Bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng cư­ờng mối quan hệ thư­ơng mại quốc tế giữa các quốc gia.

20 Thế nào là tài sản hình thành trong tương lai? Tài sản này có dùng để bảo đảm tiền vay được không? Tại sao?

Theo Khoản 2 – Điều 4 Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì tài sản đảm bảo được hiểu là:

“Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm.”

Căn cứ tại Điều 295 Bộ luật dân sự 2015 thì quy định về thế chấp tài sản bảo đảm như sau:

“3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai.”

Để đăng ký các giao dịch bảo đảm tài sản hình thành trong tương lai cụ thể là đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai thì cần tuân thủ nguyên tắc là thực hiện tại nơi thửa đất có tài sản.

21 Nhận xét gì về điều kiện của loại tài sản này so với các điều kiện của một tài sản bảo đảm nói chung.

Điều kiện chung với tài sản:

– Phải thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng, quản lý và xác định được giá trị, số lượng tài sản của bên bảo đảm .

– Được cho, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp và các giao dịch khác.

– Tài sản không có tranh chấp

– Không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.

– Tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì bên bảo đảm phải mua bảo hiểm tài sản trong thời hạn bảo đảm tiền vay.

– Trường hợp tài sản hình thành trong tương lai là đất, tài sản gắn liền với đất, trong từng trường hợp giấy tờ chứng minh uyền sử dụng có thể là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu, quyền sử dụng có thể là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, cũng có thể là họp đồng góp vốn, quyết định giao thuê đất.

– Với tài sản hình thành trong tương lai là vật tư, hàng hóa cần phải đảm bảo được khả năng quản lý, giám sát tài sản bảo đảm.

Điều kiện đối với tài sản hình thành trong tương lai

– Ngoài những điều kiện chung trên, tài sản hình thành trong tương lai còn phải đáp ứng các điều kiện sau mới được phép giao dịch:

– Tài sản hình thành trong tương lai sử dụng vào giao dịch bảo đảm phải là “vật”. “Vật” có thể gồm: động sản; bất động sản; vật chính; vật phụ; vật tiêu hao; vật không tiêu hao; vật cùng loại; vật đặc định.

– Tài sản hình thành trong tương lai dùng vào giao dịch bảo đảm phải là tài sản chưa hình thành. Quy định này loại trừ những tài sản đã hiện hữu có được do mua bán; tặng cho; thừa kế;… nhưng chưa hoàn thành việc chuyển giao quyền sở hữu.

– Tài sản hình thành trong tương lai dùng vào việc bảo đảm sẽ phải thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp nhưng hiện tại chưa có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu.

Thủ tục giao dịch có hiệu lực

– Giao dịch bảo đảm tài sản hình thành trong tương lai là giao dịch có điều kiện là quyền sở hữu của bên thế chấp được xác lập với toàn bộ tài sản thì giao dịch bảo đảm có hiệu lực.

– Nếu bên thế chấp nộp đủ tiền mua tài sản, tài sản đã hiện hữu đầy đủ, hợp đồng mua bán tài sản đã được thanh lý, nhà đã bàn giao nhưng chưa có giấy chứng nhận sở hữu – đã có cơ sở khẳng định quyền sở hữu của bên mua.

– Tài sản liên quan đến nhà trong tương lai thì giao dịch bảo đảm phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến bất động sản.

=>> Không những đáp ứng các điều kiện chung về tài sản thực hiện đảm bảo mà tài sản hình thành trong tương lai còn phải đáp ứng các điều kiện riêng biệt, khắt khe hơn.

22 Một tài sản có thể dùng để đảm bảo cho nhiều khoản vay được không? Phải thoả mãn những điều kiện nào?

Theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Dân sự 2015 thì một tài sản có thể bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, tuy nhiên phải tuân thủ các quy định như sau:

“1. Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

2. Trường hợp một tài sản được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mỗi lần bảo đảm phải được lập thành văn bản.

3. Trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn đều được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản. Bên nhận bảo đảm đã thông báo về việc xử lý tài sản có trách nhiệm xử lý tài sản, nếu các bên cùng nhận bảo đảm không có thỏa thuận khác.

Trường hợp các bên muốn tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn thì có thể thỏa thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản khác để bảo đảm việc thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn.”

Căn cứ quy định trên thì một tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ nếu thỏa mãn các điều kiện:

  • Có sự đồng ý xác lập các biện pháp bảo đảm đó từ các chủ thể của nhiều quan hệ nghĩa vụ;
  • Giá trị tài sản tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm.

Khi một tài sản dùng để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ về nguyên tắc giá trị của nó phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm. Nhưng nếu các bên có thỏa thuận và thống nhất ý chí một tài sản có giá trị nhỏ hơn các nghĩa vụ được bảo đảm vẫn trở thành đối tượng của các biện pháp bảo đảm mà các bên lựa chọn vẫn được đảm bảo thực hiện.

=>> tài sản đảm bảo cho nhiều khoản vay là có thể. Tuy nhiên cần phải chú ý, phải thực hiện nghĩa vụ thông báo theo Khoản 2 Điều 324: “Trong trường hợp một tài sản được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mỗi lần bảo đảm phải được lập thành văn bản.

23 Một tài sản có thể đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ, thế chấp tại nhiều ngân hàng không? 

Theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Dân sự 2015 thì một tài sản có thể bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, tuy nhiên phải tuân thủ các quy định như sau:

“1. Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

2.Trường hợp một tài sản được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mỗi lần bảo đảm phải được lập thành văn bản.

3.Trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn đều được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản. Bên nhận bảo đảm đã thông báo về việc xử lý tài sản có trách nhiệm xử lý tài sản, nếu các bên cùng nhận bảo đảm không có thỏa thuận khác.

Trường hợp các bên muốn tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn thì có thể thỏa thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản khác để bảo đảm việc thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn.”

Căn cứ quy định trên thì một tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ nếu thỏa mãn các điều kiện.

24 Các bên cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản có thể thỏa thuận thứ tự ưu tiên thanh toán hay không? Nhận xét gì về phạm vi bảo đảm được thỏa thuận?

Không phải mọi trường hợp các bên đều phải tuân thủ theo thứ tự ưu tiên. Pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, theo đó các bên cùng nhận bảo đảm có thể thỏa thuận về việc thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán. Ngoài ra, nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán cho tất cả các bên nhận bảo đảm, thì bên nhận bảo đảm sẽ được thanh toán tương ứng với tỷ lệ giá trị nghĩa vụ được bảo đảm, cùng với thứ tự ưu tiên đã được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

25 Đăng ký giao dịch bảo đảm là gì? Có phải trong mọi trường hợp giao dịch bảo đảm phải đăng ký không? Cơ quan nào có thẩm quyền đăng ký biện pháp bảo đảm?

Theo quy định tại Nghị định 102/2017/NĐ-CP về Đăng ký biện pháp bảo đảm thì:

Đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm

Hiện nay, pháp luật có quy định về các trường hợp bắt buộc phải đăng ký biện pháp bảo đảm bao gồm:

a) Thế chấp quyền sử dụng đất;

b) Thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

c) Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay;

d) Thế chấp tàu biển. ( khoản 1 Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP).

Và các trường hợp các bên có thể thỏa thuận đăng ký biện pháp bảo đảm tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP:

a) Thế chấp tài sản là động sản khác;

b) Thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai;

c) Bảo lưu quyền sở hữu trong trường hợp mua bán tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; mua bán tàu bay, tàu biển; mua bán tài sản là động sản khác có bảo lưu quyền sở hữu

*Cơ quan có thẩm quyền đăng ký biện pháp bảo đảm

Tại điều 9 Nghị định 102/2017/NĐ- CP quy định cơ quan có thẩm quyền đăng ký  gồm:

– Cục Hàng không Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tàu bay.

– Cục Hàng hải Việt Nam hoặc Chi cục hàng hải, Cảng vụ hàng hải theo phân cấp của Cục Hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải (sau đây gọi chung là Cơ quan đăng ký tàu biển Việt Nam) thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tàu biển.

– Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường (sau đây gọi chung là Văn phòng đăng ký đất đai) thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

– Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (sau đây gọi chung là Trung tâm Đăng ký) thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng động sản và các tài sản khác không thuộc thẩm quyền đăng ký của các cơ quan quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

Với tài sản là động sản thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký gồm:

– Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp

– Cục Hàng không Việt Nam thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu bay

– Cục Hàng hải Việt Nam hoặc Chi cục hàng hải, Cảng vụ hàng hải theo phân cấp của Cục Hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu biển.

Với tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký là Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tại nơi có bất động sản.

26 Ý nghĩa của đăng ký giao dịch bảo đảm? 

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực trong những trường hợp pháp luật quy định (các trường hợp này sẽ được đề cập dưới đây). Nếu trong trường hợp luật định phải đăng ký biện pháp bảo đảm mà không đăng ký thì giao dịch bảo đảm sẽ không phát sinh hiệu lực.

Mặc dù biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ra đời nhằm mục đích tác động, dự phòng, ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả do việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; tuy nhiên trên thực tế vẫn tồn tại rất nhiều rủi ro khi xác lập các giao dịch bảo đảm. Do vậy, việc đăng ký biện pháp bảo đảm nhằm làm giảm rủi ro cho các chủ thể khi tham gia giao dịch bảo đảm.

Đăng ký biện pháp bảo đảm có giá trị pháp lý đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

Ngoài ra, việc đăng ký biện pháp còn có ý nghĩa nhằm thiết lập thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm nhiều nghĩa vụ

27 Giao dịch bảo đảm có hiệu lực tại thời điểm nào? Tại thời điểm phát sinh hiệu lực giao dịch bảo đảm có ý nghĩa như thế nào? Phân biệt với thời điểm phát sinh hiệu lực “(giá trị pháp lý) với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm.

Theo Điều 22 Nghị định 21, hiệu lực của hợp đồng bảo đảm được quy định như sau:

– Hợp đồng bảo đảm được công chứng, chứng thực theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan hoặc theo yêu cầu thì có hiệu lực từ thời điểm được công chứng, chứng thực.

– Hợp đồng bảo đảm không thuộc trường hợp trên thì có hiệu lực từ thời điểm do các bên thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận thì có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng được giao kết.

Trường hợp tài sản bảo đảm được rút bớt theo thỏa thuận thì phần nội dung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản được rút bớt không còn hiệu lực; tài sản bảo đảm được bổ sung hoặc thay thế thì việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản này thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan.

Biện pháp bảo đảm chưa phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không làm thay đổi hoặc không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng bảo đảm.

28 Khi nào tài sản bảo đảm được xử lí? Nguyên tắc xử lý? Phương thức xử lý? Khi không có thoả thuận thì tài sản được xử lí như thế nào?

Theo Điều 299 Bộ luật dân sự 2013 thì các trường hợp xử lí tài sản đảm bảo bao gồm:

Điều 299. Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm

1. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

2. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.

3. Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.

– Khi nghĩa vụ đến thời hạn thực hiện mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình mà việc không thực hiện, thực hiện không đúng này không thuộc trường hợp bất khả kháng hay nói cách khác, bên vi phạm không được miễn trách nhiệm dân sự. Thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm.

Thông thường xử lý tài sản bảo đảm sẽ thực hiện khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ, thì bên có quyền sẽ xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên các bên có thể thỏa thuận nếu bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng thì bên có quyền sẽ xử lý tài sản bảo đảm. Ngoài ra, tài sản bảo đảm có thể được xử lý khi có các căn cứ khác theo quy định của luật, ví dụ như: trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của khoản 3 Điều 296 Bộ luật dân sự năm 2015:

Trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn đều được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản. Bên nhận bảo đảm đã thông báo về việc xử lý tài sản có trách nhiệm xử lý tài sản, nếu các bên cùng nhận bảo đảm không có thỏa thuận khác.

Trường hợp các bên muốn tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn thì có thể thỏa thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản khác để bảo đảm việc thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn.

Hay xử lý tài sản bảo đảm theo Điều 90 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014:

Điều 90. Kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp

1. Trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.

2. Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê biên, người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật này.

– Khi tham gia quan hệ hợp đồng hoặc trong thời hạn thực hiện hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn, như hợp đồng vay có thời hạn và các bên có thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ trả nợ trước kỳ hạn mà không phải trả toàn bộ lãi cho cả thời hạn vay. Tuy nhiên, khi bên cho vay yêu cầu trả nợ, nhưng bên vay không trả nợ hoặc trả một phần, thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản bảo đảm.

– Trường hợp luật có quy định phải thực hiện trước nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ như thu hồi tài sản của bên nhận bảo đảm để thi hành án hoặc xử lý tài sản trong trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp bị bán đấu giá thi hành án dân sự thì bên nhận thế chấp cầm cố có quyền ưu tiên, sau đó thanh toán cho các khoản phải thi hành án theo Luật thi hành án dân sự.

*Các phương thức xử lí tài sản cầm cố, thế chấp

Theo quy đinh tại Điều 303 Bộ luật dân sự 2015:

1. Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây:

a) Bán đấu giá tài sản;

b) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản;

c) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;

d) Phương thức khác.

2. Trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại khoản 1 Điều này thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Như vậy, các phương thức xử lí tài sản đảm bảo có thể là bán đấu giá tài sản, bên nhân đảm bảo tự bán tài sản, bên nhận đảm bảo nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ. Bên đảm bảo và bên nhân đảm bảo có quyền thỏa thuận phương thức xử lí tài sản. Nếu hai bên không có thỏa thuận thì biện pháp bán đấu giá tài sản sẽ được áp dụng.

* Phương thức bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp

Bán đấu giá là phương thức mua bán khách quan do pháp luật quy định tạo điều kiện cho bán tài sản với giá cao nhất. Khi xác lập biện pháp bảo đảm các bên có thể thỏa thuận về bán đấu giá tài sản bảo đảm tại tổ chức bán đấu giá để thanh toán nghĩa vụ.

Theo Điều 4 Luật đấu giá tài sản 2016 thì tài sản đấu giá gồm:

Điều 4. Tài sản đấu giá

1. Tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá, bao gồm:

….

c) Tài sản là quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

d) Tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm;

….

Theo Điều 304 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 304. Bán tài sản cầm cố, thế chấp

1. Việc bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.

2. Việc tự bán tài sản cầm cố, thế chấp của bên nhận bảo đảm được thực hiện theo quy định về bán tài sản trong Bộ luật này và quy định sau đây:

a) Việc thanh toán số tiền có được từ việc xử lý tài sản được thực hiện theo quy định tại Điều 307 của Bộ luật này;

b) Sau khi có kết quả bán tài sản thì chủ sở hữu tài sản và bên có quyền xử lý tài sản phải thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật để chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua tài sản.

Khi lựa chọn biện pháp bảo đảm các bên có thỏa thuận về bên nhận bảo đảm có quyền bán đấu giá tài sản bảo đảm, nếu bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ, thì bên nhận bảo đảm có quyền ký hợp đồng bán đẩu giá với tổ chức bán đấu giá để thu hồi nợ hoặc bảo đảm các lợi ích khác. Hoặc việc bán đấu giá được thực hiện theo qui định của pháp luật về bán đấu giá.

Việc tự bán tài sản bảo đảm được thực hiện trong trường hợp các bên có thỏa thuận và thực hiện theo qui định về hợp đồng mua bán tài sản được quy đinh tại Điều 430 đến Điều 449 Bộ luật dân sự. Số tiền thu được từ việc bán tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định tại Điều 307 Bộ luật dân sự. Trường hợp, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, thì bên nhận bảo đảm phải làm các thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua như hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thu nhập, hoặc các loại thuế khác….

* Phương thực nhận tài sản đảm bảo để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ

Điều 305 Bộ luật dân sự 2015 quy định về các nguyên tắc chung khi thực hiện phương thức nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm như sau:

Điều 305. Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm

1. Bên nhận bảo đảm được quyền nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm nếu có thỏa thuận khi xác lập giao dịch bảo đảm.

2. Trường hợp không có thỏa thuận theo quy định tại khoản 1 Điều này thì bên nhận bảo đảm chỉ được nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ khi bên bảo đảm đồng ý bằng văn bản.

3. Trường hợp giá trị của tài sản bảo đảm lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thanh toán số tiền chênh lệch đó cho bên bảo đảm; trường hợp giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán trở thành nghĩa vụ không có bảo đảm.

4. Bên bảo đảm có nghĩa vụ thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên nhận bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Như vậy, việc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận của các bên (bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm) tại thời điểm xác lập hợp đồng bảo đảm. Trường hợp không có thỏa thuận tại thời điểm xác lập hợp đồng bảo đảm, thì bên nhận bảo đảm chỉ được nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ khi có sự đồng ý bằng văn bản của bên bảo đảm.

Trường hợp có sự chênh lệch về giá trị nghĩa vụ được bảo đảm và giá trị tài sản bảo đảm thì giải quyết như sau: Nếu giá trị của tài sản bảo đảm lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thanh toán số tiền chênh lệch đó cho bên bảo đảm; trường hợp giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán trở thành nghĩa vụ không có bảo đảm.

Bên bảo đảm có nghĩa vụ thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên nhận bảo đảm theo quy định của pháp luật.

*Thanh toán số tiền có được từ việc xử lí tài sản đảm bảo

Theo quy định của Điều 307 Bộ luật dân sự 2015 các khoản chi phí sau đây được ưu tiên thanh toán: chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấpViệc Bộ luật dân sự năm 2015 ưu tiên thanh toán các khoản chi phí nói trên là hợp lý vì đây là khoản chi phí giúp bên nhận bảo đảm có được tài sản để xử lý.

Điều 307 Bộ luật dân sự 2015 còn quy định về nguyên tắc thanh toán số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp trong trường hợp có sự chênh lệch giữa giá trị tài sản cầm cố, thế chấp với giá trị nghĩa vụ được bảo đảm (giá trị tài sản cầm cố, thế chấp lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm), làm căn cứ để thực hiện việc thanh toán giá trị nghĩa vụ khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.

Theo đó, trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì số tiền chênh lệch phải được trả cho bên bảo đảm. Ngược lại, trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán được xác định là nghĩa vụ không có bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bổ sung tài sản bảo đảm. Bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ được bảo đảm phải thực hiện phần nghĩa vụ chưa được thanh toán. Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định chủ thể bị yêu cầu (bị khởi kiện) thực hiện tiếp phần nghĩa vụ chưa được thanh toán do giá trị tài sản cầm cố, thế chấp không đủ để thanh toán giá trị nghĩa vụ, đó là bên có nghĩa vụ được bảo đảm chứ không phải bên cầm cố, bên thế chấp. Theo đó, bên cầm cố, bên thế chấp chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi giá trị tài sản cầm cố, tài sản thế chấp. Nếu giá trị tài sản cầm cố, tài sản thế chấp không đủ thanh toán giá trị nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ được bảo đảm thì bên cầm cố, bên thế chấp không có nghĩa vụ thanh toán phần còn lại, mà nghĩa vụ này thuộc về bên có nghĩa vụ được bảo đảm.

29 Trường hợp 1 tài sản dùng để đảm bảo cho nhiều khoản vay tại nhiều tổ chức tín dụng khác nhau. Giả sử 1 khoản vay đến hạn và tài sản bảo đảm được đem ra xử lý thì các khoản vay khác sẽ xử lý như thế nào? Thứ tự xử lý như thế nào?

– TH1: Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng.

Quy định này được hiểu là: khi xác lập giao dịch bảo đảm thì quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong trong giao dịch bảo đảm không chỉ phát sinh đối với các chủ thể trực tiếp tham gia giao dịch (bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm) mà trong những trường hợp luật định còn phát sinh hiệu lực và có giá trị pháp lý đối với cả người thứ ba không phải là chủ thể trong giao dịch bảo đảm. Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm.

– TH2: Nếu trường hợp các giao dịch bảo đảm đã được đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký. Nghĩa là, giao dịch bảo đảm nào có thời điểm đăng ký giao dịch trước thì sẽ được ưu tiên thanh toán trước và ngược lại.

– TH3: Tiếp theo, trong số những giao dịch bảo đảm có giao dịch bảo đảm được đăng ký và có những giao dich bảo đảm không được đăng ký, thì ưu tiên thanh toán cho giao dịch bảo đảm được đăng ký trước và giao dịch bảo đảm không được đăng ký sẽ thanh toán sau.

– TH4: Cuối cùng, trường hợp các giao dịch bảo đảm không có đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm. Giao dịch bảo đảm có thời gian xác lập trước sẽ được thanh toán trước.

30 Trường hợp 1 khoản vay được bảo đảm bằng nhiều giao dịch bảo đảm. Khi khoản vay đến hạn các giao dịch bảo đảm sẽ được xử lý như thế nào?

– TH1: Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng.

Quy định này được hiểu là: khi xác lập giao dịch bảo đảm thì quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong trong giao dịch bảo đảm không chỉ phát sinh đối với các chủ thể trực tiếp tham gia giao dịch (bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm) mà trong những trường hợp luật định còn phát sinh hiệu lực và có giá trị pháp lý đối với cả người thứ ba không phải là chủ thể trong giao dịch bảo đảm. Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm.

– TH2: Nếu trường hợp các giao dịch bảo đảm đã được đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký. Nghĩa là, giao dịch bảo đảm nào có thời điểm đăng ký giao dịch trước thì sẽ được ưu tiên thanh toán trước và ngược lại.

– TH3: Tiếp theo, trong số những giao dịch bảo đảm có giao dịch bảo đảm được đăng ký và có những giao dich bảo đảm không được đăng ký, thì ưu tiên thanh toán cho giao dịch bảo đảm được đăng ký trước và giao dịch bảo đảm không được đăng ký sẽ thanh toán sau.

– TH4: Cuối cùng, trường hợp các giao dịch bảo đảm không có đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm. Giao dịch bảo đảm có thời gian xác lập trước sẽ được thanh toán trước.

31 Trường hợp sau khi xử lý tài sản bảo đảm mà vẫn không đủ để thu hồi nợ thì ngân hàng có được quyền đòi tiếp bên vay và bên bảo đảm không?

Ngân hàng có được quyền đòi tiếp bên vay và bên bảo đảm 

Điều 307. Thanh toán số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp

3. Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán được xác định là nghĩa vụ không có bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bổ sung tài sản bảo đảm. Bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ được bảo đảm phải thực hiện phần nghĩa vụ chưa được thanh toán.

32 Nếu 1 bên thứ ba dùng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của bên đi vay đối với tổ chức tín dụng thì hợp đồng này là gì? Giải thích?

Tuy tại Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng như các văn bản pháp luật khác không có quy định trực tiếp về việc bảo đảm khoản vay bằng tài sản của bên thứ ba. Nhưng tại Điều 309 và Khoản 1 Điều 317 Bộ luật ân sự năm 2015 như sau:

“Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.”

“Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”

Như vậy, những quy định trên chỉ quy định chung là việc bên bảo đảm (là bên cầm cố hoặc bên thế chấp) có thể cầm cố hoặc thế chấp tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và có thể lập hợp đồng cầm cố, hoặc thế chấp.  Từ đó có thể hiểu việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ của chính bên bảo đảm hoặc nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ mà bên bảo đảm nhận bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ.

33 Trong trường hợp, khách hàng vay chậm trả vốn gốc lẫn lãi do lý do khách quan, khách hàng có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?

Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:

“Điều 353. Chậm thực hiện nghĩa vụ

1. Chậm thực hiện nghĩa vụ là nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết.

2. Bên chậm thực hiện nghĩa vụ phải thông báo ngay cho bên có quyền về việc không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn.”

“Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền

1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”

Như vậy, khi bạn không có khả năng trả ngay nợ lãi cho ngân hàng thì bạn có thể xin gia hạn thời hạn chậm trả nhưng phải được phía ngân hàng đồng ý. Nếu quá thời hạn gia hạn này mà bạn vẫn không trả được số nợ của mình thì ngoài việc bạn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bạn còn phải bồi thường thiệt hại cho ngân hàng.

34 Điểm khác biệt giữa thế chấp và cầm cố là gì?

Thế chấp Cầm cố
Không đưa tài sản cho bên nhận thế chấp

Tài sản thế chấp thường là bất động sản, có thể đã hình thành hoặc hình thành trong tương lai

Hầu hết các loại thế chấp đều phải đăng ký giao dịch đảm bảo

Rủi ro cao hơn cho bên nhận thế chấp

Đưa tài sản cho bên nhận cầm cố

Tài sản cầm cố thường là động sản

Cầm cố tàu bay, tàu biển là phải đăng ký giao dịch đảm bào, còn lại các loại cầm cố khác không cần

Rủi ro thấp hơn cho bên nhận cầm cố (do đã nắm giữ tài sản)

 

35 Anh(chị) hiểu quy định: “GDBĐ có giá trị pháp lý đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký” như thế nào?

hiệu lực đốĩ kháng với người thứ ba (có hiệu lực đối với người thứ ba). Mặc dù BLDS 2015 không hề có điều khoản quy định về khái niệm hiệu lực đối kháng với người thứ ba nhưng qua tìm hiểu, nghiên cứu nội dung của chế định này, thì khái niệm cần được hiểu một cách đơn giản là: Hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong giao dịch bảo đảm là khi xác lập giao dịch bảo đảm hợp pháp thì quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong trong giao dịch bảo đảm không chỉ phát sinh đối với các chủ thể trực tiếp tham gia giao dịch (bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm) mà trong những trường hợp luật định còn phát sinh hiệu lực và có giá trị pháp lý đối với cả người thứ ba không phải là chủ thể trong giao dịch bảo đảm; thời điểm phát sinh hiệu lực kể từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm. Điều này có nghĩa là, nếu không có người thứ ba tranh chấp về việc nhận tài sản bảo đảm, thì bên nhận bảo đảm vẫn được quyền xử lý tài sản, mà không phụ thuộc vào việc có hay không hiệu lực đối kháng với người thứ ba;

35 Hợp đồng tín dụng vô hiệu có làm cho giao dịch bảo đảm vô hiệu theo hay không? Tại sao? 

Hợp đồng tín dụng vô hiệu có làm không làm cho giao dịch bảo đảm vô hiệu theo

Quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm quy định tại Điều 15 Văn bản hợp nhất số 8019/VBHN-BTP:

+ Hợp đồng tín dụng bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, nếu không có thỏa thuận khác.

+ Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng tín dụng, nếu không có thỏa thuận khác.

+ Hợp đồng tín dụng bị hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng tín dụng thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, nếu không có thỏa thuận khác.

+ Giao dịch bảo đảm bị hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng tín dụng, nếu không có thỏa thuận khác.

+ Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 15 Văn bản hợp nhất số 8019/VBHN-BTP thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.

Câu hỏi lý thuyết luật ngân hàng chương 6

(Pháp luật về dịch vụ thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán)

  1. So sánh hoạt động thanh toán và hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán.

Về bản chất 

 Cung ứng các dịch vụ thanh toán là Hoạt động Ngân hàng

Kinh doanh dịch vụ thanh toán là phương thức hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn tại nền kinh tế hàng hoá, nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời cao nhất. Hoạt động kinh doanh thường được thông qua các thể chế kinh doanh như công ty, doanh nghiệp nhưng cũng có thể là hoạt động tự thân của các cá nhân.

Nội dung

Cung ứng các dịch vụ thanh toán  : cung ứng có dịch vụ thanh toán nhằm thực hiện các hoạt động nghiệp vụ để sinh lợi nhuận và ổn định lưu thông tiền tệ trong thị trường.

– Hoạt động kinh doanh dịch vụ thanh toán :  các hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi nhuận là chủ yếu.

Chủ thể thực hiện

Cung ứng các dịch vụ thanh toán phải là các ngân hàng, hoặc các tổ chức tín dụng, được nhà nước cho phép hoạt động.

– Hoạt động kinh doanh dịch vụ thanh toán : không bắt buộc phải là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng, có thể là các chủ thể thực hiện khác như các nhân, công ty, hộ gia đình.

2 Dịch vụ trung gian thanh toán là gì? Điều kiện được cấp phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán? Thủ tục và hồ sơ

1. Cơ sở pháp lý

Nghị định 101/2012/NĐ-CP quy định về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt

Nghị định 80/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ dung Nghị định 101/2012/NĐ-CP

Thông tư 39/2014/TT-NHNN

Thông tư 20/2016/TT-NHNN

2. Dịch vụ trung gian thanh toán là gì?

Dịch vụ trung gian thanh toán là hoạt động làm trung gian kết nối truyền dẫn và xử lý dữ liệu điện tử các giao dịch thanh toán giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và người sử dụng dịch vụ thanh toán.

Cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là một ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Đầu tư.

Dịch vụ trung gian thanh toán bao gồm 3 loại dịch vụ sau đây.

Thứ nhất, dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử, bao gồm các dịch vụ: chuyển mạch tài chính; bù trừ điện tử; cổng thanh toán điện tử;

Thứ hai, dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán, bao gồm các dịch vụ: hỗ trợ thu hộ, chi hộ; hỗ trợ chuyển tiền điện tử; ví điện tử;

Thú ba, các dịch vụ trung gian thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Khoản 1 Điều 1 Nghị định 80/2016/NĐ – CP quy định về tổ chức được cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán:

“4. Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là:

a) Tổ chức không phải là ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán;

b) Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép cung ứng dịch vụ ví điện tử.”

3. Điều kiện để được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phéo hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán

Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị định 101/2012/NĐ-CP (sửa đổi tại khoản 2 Điều 4 Thông tư 39/2014/TT-NHNN và khoản 1 Điều 2 Thông tư 20/2016/TT-NHNN). Theo đó, tổ chức không phải là ngân hàng cần đáp ứng các điều kiện sau đây:

2. Tổ chức không phải là ngân hàng được xin cấp Giấy phép thực hiện một hoặc một số dịch vụ trung gian thanh toán quy định tại Điều 2 Thông tư này trên cơ sở đáp ứng các Điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định 101/2012/NĐ-CP và các quy định của Chính phủ sửa đổi, bổ sung, thay thế các Điều kiện này (nếu có).

a) Có giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp;

b) Có Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt, trong đó tối thiểu phải có các nội dung:

(i) Quy trình nghiệp vụ kỹ thuật của dịch vụ đề nghị cấp phép, gồm: Tên, phạm vi cung ứng, đối tượng khách hàng, điều kiện sử dụng, sơ đồ và diễn giải các bước thực hiện nghiệp vụ, quy trình dòng tiền từ lúc khởi tạo giao dịch đến lúc quyết toán nghĩa vụ giữa các bên liên quan;

(ii) Cơ chế đảm bảo khả năng thanh toán, gồm: Cơ chế mở và duy trì số dư tài khoản đảm bảo thanh toán, mục đích sử dụng tài khoản đảm bảo thanh toán;

(iii) Quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ; quản lý rủi ro, đảm bảo an toàn, bảo mật; các nguyên tắc chung và quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền; quy trình và thủ tục giải quyết yêu cầu tra soát, khiếu nại, tranh chấp;

c) Có vốn điều lệ tối thiểu là 50 tỷ đồng;

d) Điều kiện về nhân sự: Người đại diện theo pháp luật, Tổng giám đốc (Giám đốc) của tổ chức đề nghị cấp phép phải có bằng đại học trở lên hoặc có ít nhất 03 năm làm việc trực tiếp tại một trong các lĩnh vực quản trị kinh doanh, kinh tế, tài chính, ngân hàng, luật;

Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các cán bộ chủ chốt thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (gồm Trưởng phòng (ban) hoặc tương đương và các cán bộ kỹ thuật) có bằng cao đẳng trở lên về một trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin hoặc lĩnh vực chuyên môn đảm nhiệm;”

đ) Điều kiện về kỹ thuật: Có cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công nghệ thông tin, giải pháp công nghệ phù hợp với yêu cầu của hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; hệ thống kỹ thuật dự phòng xây dựng độc lập với hệ thống chính đảm bảo cung cấp dịch vụ an toàn và liên tục khi hệ thống chính có sự cố và tuân thủ các quy định khác về đảm bảo an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng;

e) Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, tổ chức cung ứng dịch vụ phải được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan;

g) Đối với dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán cho các khách hàng có tài khoản tại nhiều ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ phải kết nối với một tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính và dịch vụ bù trừ điện tử được Ngân hàng Nhà nước cấp phép để thực hiện chuyển mạch và xử lý bù trừ các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán của tổ chức;

Trên đây là tư vấn của chúng tôi về điều kiện được cấp phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đối với tổ chức không phải ngân hàng.

4. Quy trình, thủ tục, hồ sơ cấp giấy phép hoạt động dịch vụ trung gian thanh toán

4.1. Về trình tự, thủ tục:

Tại Điều 16 Nghị định 101/2012/NĐ-CP quy định về quy trình, thủ tục như sau:

1. Quy trình, thủ tục cấp Giấy phép

a) Tổ chức xin cấp Giấy phép gửi hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép (bao gồm 05 bộ) qua đường bưu điện hoặc trực tiếp tới Ngân hàng Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều này. Tổ chức xin cấp Giấy phép phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của các thông tin cung cấp;

b) Căn cứ vào hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép, Ngân hàng Nhà nước tiến hành kiểm tra hồ sơ theo các điều kiện quy định tại khoản 2, Điều 15 Nghị định này;

c) Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ thẩm định và cấp Giấy phép hoặc có văn bản từ chối cấp phép trong đó nêu rõ lý do;

d) Tổ chức được cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật.

4.2. Về hồ sơ xin cấp phép gồm:

Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 101/2012/NĐ-CP, Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán gồm:

– Đơn đề nghị cấp Giấy phép theo mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định;

– Biên bản hoặc Nghị quyết họp Hội đồng thành viên, Hội đồng Quản trị (hoặc Đại hội cổ đông phù hợp với quy định tại Điều lệ hoạt động của tổ chức) thông qua Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán;

– Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán;

– Bản thuyết minh giải pháp kỹ thuật và Biên bản nghiệm thu thử nghiệm kỹ thuật với một tổ chức hợp tác;

– Hồ sơ về nhân sự: Sơ yếu lý lịch, bản sao được chứng thực hoặc bản sao được cấp từ sổ gốc hoặc bản sao kèm xuất trình bản chính để đối chiếu các văn bằng chứng minh năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của những người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) và các cán bộ chủ chốt thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán;

– Giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, Điều lệ tổ chức và hoạt động của tổ chức (bản sao được chứng thực hoặc bản sao được cấp từ sổ gốc hoặc bản sao kèm xuất trình bản chính để đối chiếu).”

Thời hạn của Giấy phép là 10 năm tính từ ngày tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép.

3 So sánh phương thức thanh bằng tiền mặt và thanh toán bằng thẻ tín dụng. Nhận xét về các phương thức thanh toán này ở nước ta hiện nay.

Hình thức thanh toán: Tiền mặt

Tiền mặt đem đến sự hài lòng tức thì. Bạn nhận được tiền và đó là của bạn trừ khi họ trả lại hàng. Nhưng dù vậy, bạn vẫn có thể cung cấp tín dụng cửa hàng thay vì tiền mặt.

Ưu điểm của tiền mặt:

  • Có ngay tiền trong tay, sau khi trừ thuế.
  • Không có phí giao dịch bằng tiền mặt như thẻ tín dụng
  • Giảm thiểu việc ghi sổ kế toán, có nghĩa là ít căng thẳng và ít rắc rối hơn

Nhược điểm của tiền mặt:

  • Tiền mặt được lưu giữ có thể bị đánh cắp
  • Két an toàn cần phải có chỗ để cố định hoặc phải thường xuyên đến ngân hàng để gửi tiền, đ iều này rất mất thời gian và tiền bạc.
  • Không thể cùng lúc mang theo quá nhiều tiền mặt, có thể dẫn đến các nguy cơ về đánh cắp.

Hình thức thanh toán: THẺ TÍN DỤNG

Thẻ tín dụng xuất hiện trên thị trường vào những năm 1950 và ngày càng phổ biến kể từ đó. Thẻ tín dụng, như tiền mặt và séc, đã trải qua một chặng đường dài kể từ lần đầu tiên ra mắt. Nó có nhiều ưu điểm nhưng cũng tồn tại nhược điểm không thể tránh khỏi.

Ưu điểm của thẻ tín dụng:

  • Việc chấp nhận thẻ tín dụng thúc đẩy doanh số bán hàng. Thẻ tín dụng đang trở thành phương thức thanh toán phổ biến nhất và khách hàng của bạn mong đợi khả năng thanh toán bằng thẻ tín dụng ở bất kỳ địa điểm nào. Các nghiên cứu cho thấy những người tiêu dùng thanh toán bằng thẻ tín dụng chi tiêu nhiều hơn so với thanh toán bằng tiền mặt.
  • Việc chấp nhận thẻ tín dụng làm tăng dòng tiền. Các giao dịch bằng thẻ tín dụng được gửi trực tiếp vào tài khoản của bạn, không cần đến ngân hàng. Theo nguyên tắc chung, một công ty xử lý có uy tín phải gửi tiền của bạn trong vòng 24 – 48 giờ sau khi thanh toán.
  • Việc chấp nhận thẻ tín dụng tạo ra tính hợp pháp. Khách hàng nhìn thấy những logo thẻ tín dụng đó trên cửa hàng của bạn, những thương hiệu mà họ tin tưởng, từ đó có một sự tin tưởng nhất định dành cho doanh nghiệp của bạn.

Nhược điểm của thẻ tín dụng:

  • Thẻ tín dụng có thể gây thêm một số khó khăn cho việc ghi sổ và chấp nhận thẻ tín dụng. Đây có thể là một khoản chi phí bổ sung hàng tháng. Các sản phẩm tính phí có thể giảm bớt chi phí liên quan đến việc chấp nhận thẻ tín dụng.
  • Thẻ tín dụng đi kèm với những rủi ro như bồi hoàn và gian lận. Nhưng các bước bổ sung cung cấp cho bạn sự bảo vệ cần thiết để chống lại gian lận. Ngoài ra, việc tìm kiếm một bộ xử lý có uy tín là một điều quan trọng cần cân nhắc. Bạn càng thực hiện nhiều bước để bảo vệ doanh nghiệp và hệ thống thanh toán của mình tại thời điểm thiết lập, thì càng giảm bớt lo lắng khi bắt đầu xử lý.
  • Tiền hoàn lại vào thẻ tín dụng không phải là ngay lập tức. Mặc dù giao dịch thẻ tín dụng có thể mất vài giây, nhưng việc đảo ngược hoặc hoàn lại tiền gần như chậm hơn rất nhiều. Nguyên tắc chung để hoàn tiền được xử lý trên thẻ tín dụng là 2-30 ngày tùy thuộc vào nhiều yếu tố.

4 Theo anh/chị, Hiện nay có những loại thẻ ngân hàng nào?

Mỗi loại thẻ ngân hàng sẽ có những tính chất, cách sử dụng khác nhau và được phân loại dựa trên các đặc điểm:

Theo tính chất của thẻ

  • Cần có tiền sẵn bên trong mới có thể thực hiện giao dịch được: Thẻ Ghi nợ quốc tế (Debit card) và Thẻ ATM, thẻ trả trước (Prepaid card).
  • Được chi tiêu trước, trả tiền sau trong một thời gian cho phép và có một hạn mức nhất định: thẻ tín dụng (Credit card).

Theo phạm vi lãnh thổ sử dụng

  • Thẻ nội địa: Thẻ ATM
  • Thẻ quốc tế:Thẻ ghi nợ quốc tế, thẻ tín dụng, thẻ trả trước, các loại thẻ được phát hành bởi các tổ chức tài chính quốc tế như Visa, Mastercard, JCB…

Theo tính chất kỹ thuật

  • Thẻ từ: Có gắn dải băng từ chứa thông tin ở mặt sau thẻ.
  • Thẻ chip: Sử dụng chip điện tử.

Theo tổ chức phát hành

  • Ngân hàng thương mại
  • Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.

5 Tại sao nói sec là lệnh chi tiền của chủ tài khoản? Chứng minh tính bắt buộc trả tiền của sec?

Séc là chứng từ thanh toán ghi nhận lệnh trả tiền của chủ tài khoản hoặc người đại diện của chủ tài khoản, được lập trên mẫu in sẵn theo thể thức luật định, theo đó, tổ chức quản lý tài khoản trích một khoản tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán vô điều kiện để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc một số tiền nhất định hoặc toàn bộ số tiền gửi của chủ tài khoản.

Người phát hành séc là chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản ủy quyền kí phát hành séc. Điều kiện bắt buộc để thực hiện phát hành séc là người kí phát hành phải có tài khoản tiền gửi thanh toán tại trung gian thanh toán (ngân hàng, kho bạc nhà nước).

Tổ chức quản lí tài khoản thực hiện chỉ trả. theo yêu cầu của chủ tài khoản (đơn vị thanh toán) là tổ chức được cơ quan có thẩm quyền cho phép thực hiện dịch vụ thanh toán. Trong phạm vi nguồn vốn thanh toán của chủ tài khoản có trên tài khoản, đơn vị thanh toán có trách nhiệm thực hiện thanh toán số tiền ghi trên séc cho người thụ hưởng.

Người thụ hưởng là người có tên ghi trên séc (đối với séc kí danh) hoặc người cầm séc (đối với séc vô danh).

Séc có thể được chuyển nhượng, trừ trường hợp người phát hành séc đã ghi cụm từ “không được phép chuyển nhượng”. Tờ séc phát hành có giá trị thanh toán trong khoảng thời gian nhất định.

6 Lý giải vì sao sec được coi là giấy tờ có giá.

Căn cứ vào nội dung giải đáp về giấy tờ có giá tại công văn 141/TANDTC-KHXX có liệt kê một số loại giấy tờ có giá như sau:

‘’ 1. Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo quy định tại điểm 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 thì giấy tờ có giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, thì giấy tờ có giá bao gồm:

a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;

b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;

c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật quản lý nợ công năm 2009;

d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010);

đ) Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp”…’’

Như vậy thì chỉ những loại giấy tờ được nêu trên mới được pháp luật thừa nhận là giấy tờ có giá.

7 Người ký phát hành sec có quyền đình chỉ thanh toán tờ sec hay không? Vì sao pháp luật lại quy định như vậy?

Đình chỉ thanh toán séc được hướng dẫn tại Điều 34 Nghị định 159/2003/NĐ-CP về việc cung ứng và sử dụng séc, theo đó:

Điều 34. Đình chỉ thanh toán séc

1. Người ký phát có quyền yêu cầu đình chỉ thanh toán tờ séc mà mình đã ký bằng việc thông báo cho người thực hiện thanh toán để đình chỉ thanh toán tờ séc đó khi được xuất trình tại người thực hiện thanh toán. Thông báo đình chỉ thanh toán chỉ có hiệu lực sau thời hạn xuất trình séc.

2. Người ký phát vẫn có nghĩa vụ trả số tiền ghi trên tờ séc sau khi tờ séc bị người thực hiện thanh toán từ chối thanh toán theo thông báo đình chỉ thanh toán của mình..

8 Nếu người ký phát hành sec vượt quá số tiền trên tài khoản của người ký phát thì có bị chế tài không? Tại sao?

Xử lý séc không đủ khả năng thanh toán được quy định tạiĐiều 22 thông tư 22/2015/TT-NHNN  quy định hoạt động cung ứng và sử dụng séc do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành như sau:

1. Tờ séc được xuất trình trong thời hạn thanh toán, nhưng khoản tiền mà người ký phát được sử dụng để ký phát séc tại người bị ký phát không đủ để chi trả toàn bộ số tiền trên tờ séc thì được coi là ký phát séc không đủ khả năng thanh toán. Xử lý séc không đủ khả năng thanh toán như sau:

a) Người bị ký phát thông báo cho người ký phát về việc tờ séc không đủ khả năng thanh toán và có trách nhiệm lưu giữ thông tin về người ký phát séc không đủ khả năng thanh toán vào hồ sơ lưu của mình. Việc thông báo này có thể bằng điện thoại, điện tín hoặc phương tiện thông tin thích hợp khác.

Đồng thời, người bị ký phát thông báo về việc tờ séc không đủ khả năng thanh toán cho người xuất trình séc (bao gồm người thụ hưởng hoặc người thu hộ) ngay trong ngày xuất trình hoặc ngày làm việc tiếp theo sau ngày xuất trình tờ séc đó bằng phương thức thông tin theo thỏa thuận giữa hai bên.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày gửi thông báo cho người ký phát séc về tờ séc không đủ khả năng thanh toán, người bị ký phát thông báo cho Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam thông tin séc không đủ khả năng thanh toán theo Phụ lục 07 đính kèm Thông tư này. Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam có trách nhiệm cung ứng dịch vụ tra cứu thông tin đã tiếp nhận về thông tin séc không đủ khả năng thanh toán cho tổ chức cung ứng séc ngay trong ngày nhận được yêu cầu hoặc trong ngày làm việc tiếp theo sau ngày đó;

9So sánh sự khác nhau giữa sec và giấy uỷ nhiệm chi.

Séc: Căn cứ vào hình thức thanh toán có 3 loại séc:
+ Séc tiền mặt: Dùng để rút tiền mặt tại NH
+ Séc chuyển khoản là tờ séc do chủ tài khoản ký phát và trực tiếp giao cho người thụ hưởng để thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình.
+ Séc xác nhận: được NH bảo đảm khả năng thanh toán.

– UNC hay lệnh chi: là phương tiện thanh toán mà người trả tiền lập lệnh theo mẫu do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định ,gửi cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nơi mình mở tài khoản, yêu cầu tổ chức đó trích một số tiền nhất định trả cho người thụ hưởng.

10 So sánh ủy nhiệm thu và ủy nhiêm chi ? 

 Giống nhau: 

+ Đều là một trong những loại hình của ủy nhiệm, ủy thách trách nhiệm cho một ai đó để đảm nhận trách nhiệm của người ủy nhiệm

+ Có rủi ro vì người ủy nhiệm không nắm bắt được năng lực thực sự của người được nhận ủy nhiệm, vì vậy khó mà tránh khỏi những trường hợp đáng tiếc xảy ra.

– Khác nhau: 

Đặc điểm Ủy nhiệm thu Ủy nhiệm chi
Tính chất Yêu cầu khách hàng nhờ ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền trên cơ sở số lượng hàng hóa dịch vụ đã cung cấp Lệnh của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích một số tiền trong tài khoản của mình để rả cho người thụ hưởng
Người lập Do người thụ hưởng lập Do người trả tiền lập
Tính rủi ro – Rủi ro người thụ hưởng cao

– An toàn với người trả tiền

An toàn đối với người thụ hưởng

 

 11 Quá 30 ngày kể từ ngày phát hành sec nếu người thụ hưởng sec không xuất trình sec để thanh toán thì đương nhiên bị mất quyền yêu cầu người bị ký phát thanh toán.

Điều 28 Nghị định 159/2003/NĐ-CP về Thời hạn và địa điểm xuất trình séc

1. Thời hạn xuất trình của tờ séc là 30 ngày, kể từ ngày ký phát.

2. Trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng làm cho séc không thể được xuất trình để thanh toán đúng thời hạn thì thời hạn xuất trình sẽ được kéo dài quá thời gian quy định ở khoản 1 Điều này và ngay sau khi các sự kiện này chấm dứt tờ séc phải được xuất trình để thanh toán. Thời hạn kéo dài trong trường hợp này là không quá 06 tháng kể từ ngày ký phát.

Việc xuất trình séc để thanh toán được coi là hợp lệ khi séc được người thụ hưởng hoặc người được người thụ hưởng uỷ quyền, người thu hộ xuất trình séc đúng địa điểm, đúng thời hạn theo quy định. Nếu tờ séc được xuất trình trong vòng 30 ngày kể từ ngày kí phát (tính cả ngày nghỉ lễ và ngày nghỉ cuối tuần; nếu ngày cuối cùng trùng vào ngày nghỉ thì ngày cuối cùng của thời hạn là ngày làm việc tiếp theo ngay sau ngày nghỉ đó, không tính thời gian diễn ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan) và người kí phát có đủ khả năng thanh toán để chi trả số tiền ghi trên séc thì người bị kí phát có trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng hoặc người được người thụ hưởng uỷ quyền ngay trong ngày xuất trình hoặc ngày làm việc tiếp theo sau ngày xuất trình đó. Người bị kí phát không tuân thủ quy định này phải bồi thường thiệt hại cho người thụ hưởng tối đa bằng tiền lãi của số tiền ghi trên séc ính từ ngày séc được xuất trình để thanh toán theo mức lãi uất phạt chậm trả séc do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy Ịnh áp dụng tại thời điểm xuất trình séc.

Nếu tờ séc được xuất trình sau thời hạn xuất trình để anh toán nhưng chưa quá 06 tháng kể từ ngày kí phát

12 Trường hợp người thụ hưởng xuất trình sec để thanh toán tại ngân hàng mà bị từ chối thì người thụ hưởng có những cách nào để bảo vệ quyền lợi của mình?

Trong trường hợp séc bị từ chối thanh toán một phần hay toàn bộ số tiền ghi trên séc theo quy định, người thụ hưởng có quyền truy đòi số tiền mình được hưởng hợp pháp. Đối tượng, số tiên, cách thức và thủ tục truy đòi áp dụng theo quy định từ Điều 48 đến Điều 52 của Luật Các công cụ chuyên nhượng. Người chuyển nhượng đã trả tiền cho người thụ hưởng được quyền truy đòi đối với người ký phát hoặc người chuyển nhượng trước mình.

13 Phân biệt sec bảo chi và sec bảo lãnh.

Bảo chi séc là việc người bị ký phát bảo đảm khả năng thanh toán cho tờ séc khi tờ séc được xuất trình trong thời hạn xuất trình đòi thanh toán. Như vậy, séc bảo chi là séc được đảm bảo thanh toán và an toàn hơn séc không bảo chi.

Để thực hiện bảo chi séc, người ký phát phải có đủ tiền trên tài khoản thanh toán để đảm bảo khả năng thanh toán cho tờ séc, hoặc nếu không đủ tiền trên tài khoản thanh toán nhưng được người bị ký phát chấp thuận cho người ký phát thấu chi đến một hạn mức nhất định để bảo đảm khả năng thanh toán cho số tiền ghi trên tờ séc được quyền yêu cầu người bị ký phát bảo chi tờ séc đó.

Séc bảo lãnh: là séc đã được đảm bảo trả tiền đối với một phần hoặc toàn bộ số tiền ghi trên séc bằng việc bảo lãnh của một bên thứ ba (gọi là người bảo lãnh), nhưng không phải là đơn vị thanh toán.

Như vậy, cũng như Séc bảo chi, Séc bảo lãnh là tờ séc đã được đảm bảo khả năng chi trả, do đó nó được dùng trong trường hợp 2 bên mua, bán không tín nhiệm nhau về thanh toán.

Người bảo lãnh có thể bảo lãnh toàn bộ hay một phần số tiền trên tờ séc. Sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh, người bảo lãnh ghi cụm từ “Đã bảo lãnh”, số tiền bảo lãnh, tên của người được bảo lãnh, chữ ký và tên mình (người bảo lãnh) trên tờ Séc hoặc trên văn bản đính kèm tờ Séc.

Séc bảo lãnh cũng được sử dụng để thanh toán giữa hai khách hàng mở tài khoản tại cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc tại hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có cam kết thực hiện thanh toán séc cho các khách hàng của nhau.

14 Phân biệt thư tín dụng với cam kết bảo lãnh ngân hàng.

Cơ sở để so sánh Thư tín dụng Bảo lãnh ngân hàng
Ý nghĩa Thư tín dụng là một tài liệu tài chính để thanh toán được đảm bảo, tức là một cam kết của ngân hàng của người mua để thanh toán cho người bán, đối với các tài liệu được nêu. Bảo lãnh ngân hàng là bảo lãnh do ngân hàng cung cấp cho người thụ hưởng thay mặt cho người nộp đơn, để thực hiện thanh toán, nếu người nộp đơn không trả được nợ.
Trách nhiệm Sơ cấp Thứ hai
Rủi ro Ít hơn cho thương gia và nhiều hơn cho ngân hàng. Nhiều hơn cho thương gia và ít hơn cho ngân hàng.
Bên liên quan 5 trở lên 3
Mặc định Không chờ đợi mặc định và người thụ hưởng của người nộp đơn để thực hiện cam kết. Chỉ hoạt động khi người nộp đơn mặc định thanh toán.
Thanh toán Thanh toán chỉ được thực hiện khi điều kiện quy định được đáp ứng. Thanh toán được thực hiện trên việc không thực hiện nghĩa vụ.
Phù hợp với Kinh doanh xuất nhập khẩu Hợp đồng chính phủ

 

15 Thư tín dụng là gì ? Quy định về thanh toán bằng thư tín dụng

1. Quy định chung về thư tín dụng

Thanh toán bằng thư tín dụng được dùng để toán tiền hàng trong điều kiện bên bán hàng đòi hỏi phải có đủ tiền để chỉ trả ngay và phù hợp với tổng số tiền hàng đã giao theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã kí.

Việc người có nghĩa vụ chỉ trả (bên mua) lập văn bản yêu cầu tổ chức quản lí tài khoản của mình trích tài khoản tiền gửi hoặc gửi tiền ở tổ chức quản lí tài khoản để thanh toán cho bên bán gọi là mở thư tín dụng. Văn bản ghi nhận yêu cầu của bên mua gọi là giấy mở thư tín dụng. Mỗi thư tín dụng chỉ được dùng để trả cho một bên thụ hưởng với tổng số tiền thanh toán được xác định trước. Khi mở thư tín dụng, người mua phải lưu kí hoặc được ngân hàng bảo lãnh cho vay một số tiền bằng số tiền mở thẻ tín dụng để bảo đảm trả tiền cho người bán. Thư tín dụng hình thành trên cơ sở và để thực hiện hợp đồng mua bán, nhưng hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán.

Thư tín dụng là phương tiện quan trọng về phương thức tín dụng chứng từ. Đây là hình thức thanh toán quốc tế áp dụng phổ biến trong các quyền hạn ngoại thương.

(Letter of credit – L/C) là văn bản cam kết, theo đó, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (người mua) cam kết trả tiền cho người xuất khẩu (người hưởng thanh toán) để người xuất khẩu giao hàng cho người nhập khẩu và nhận tiền thành toán theo các điều kiện của L/C. Thanh toán theo thư tín dụng (L/C) là hình thức thanh toán được áp dụng rộng rãi trong quan hệ thương mại quốc tế, mang các đặc tính của hình thức cấp tín dụng (bảo lãnh ngân hàng). So với phương thức thanh toán bằng thư tín dụng qua trung gian thanh toán đối với các chủ thể trong nước, thanh toán theo thư tín dụng trong quan hệ thương mại quốc tế phức tạp hơn về cơ cấu chủ thể và nội dung quan hệ.

Trong quan hệ thanh toán bằng L/C có các chủ thể sau:

1) Người nhập khẩu: Người yêu cầu ngân hàng phục vụ mình mở L/C và có RgHla vụ hoàn trả tiền cho ngân hàng mở L/C sau khi ngân hàng mở LC đã thanh toán cho người xuất khẩu theo đúng điều kiện của L/C;

2) Ngân hàng mở L/C: người lập LƯC, trả tiền cho người xuất khẩu và là chủ nợ của người nhập khẩu sau khi đã thanh toán cho người xuất khẩu;

3) Chi nhánh hoặc đại lí của ngân hàng mỡ L/C:Người có trách nhiệm chuyển giao bản gốc L/C cho người xuất khẩu để người xuất khẩu giao hàng cho người nhập khẩu đồng thời là người tiếp nhân hồ sơ thanh toán do người xuất khẩu nộp để ngân ngân hàng L/C xem xét và thanh toán cho người xuất khẩu nếu phù hợp với điều kiện của L/C;

4) Người xuất khẩu: người thụ hưởng số tiến thanh toán từ L/C. Người xuất khẩu có quyền từ chối việc giao hàng hoá nếu nội dung L/C không phù hợp với hợp đồng. Người nhập khẩu, ngân hàng mở L/C có quyền từ chối thanh toán nếu yêu cầu thanh toán không phù hợp với L/C.

2. Đặc điểm của thanh toan bằng thư tín dụng:

Bộ chứng từ phải đảm bảo các yêu cầu nghiêm ngặt, bộ chứng từ phải đảm các điều khoản của giao dịch thể hiện quan số lượng, số loại và nội dung của chúng.

Thanh toán bằng thư tín dụng là giao dịch của hai bên đối tác, một bên sẽ luôn là ngân hàng và một bên khác.

Thanh toán bằng thư tín dụng được hình thành thông qua hợp đồng của các bên, tuy nhiên thanh toán bằng thư tín dụng có sự độc lập với hợp đồng, nó được hoàn thành khi người thụ hưởng cung cấp được bộ chứng từ phù hợp và đươc ngân hàng phát hành cho.

Thanh toán bằng thư điện tử đúng như khái niệm thì chỉ được giao dịch thông qua chứng từ và thanh toán qua chứng từ.

Thanh toán bằng thư tín dụng sẽ góp phận hạn chế rủi ro từ việc thanh toán.

3. Các loại thư tín dụng hiện nay

Thư tín dụng đối ứng

Thư tín dụng dự phòng

Thư tín dụng tuần hoàn

Thư tín dụng chuyển nhượng

Thư tín dụng giáp lưng

Thư tín dụng không thể hủy ngang.

Thư tín dụng không thể hủy ngang có xác nhận;

4. Các yêu cầu đặt ra với việc thanh toán bằng thư tín dụng:

1. Chứng từ sử dụng trong thanh toán phải được lập, ký, kiểm soát, luân chuyển, quản lý, sử dụng và bảo quản theo đúng quy định về chế độ chứng từ kế toán ngân hàng và phù hợp với quy định tại Thông tư này.

2. Chứng từ sử dụng trong thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về quy cách, mẫu biểu, in ấn, phát hành và sử dụng.

3. Chứng từ sử dụng trong thanh toán qua ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô do ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô quy định quy cách, mẫu biểu, in ấn, phát hành và hướng dẫn thực hiện đảm bảo phù hợp với quy trình thanh toán đối với từng loại hình dịch vụ theo quy định tại Thông tư này và các quy định của pháp luật liên quan.

4. Các thông tin, dữ liệu của chứng từ điện tử phải được kiểm soát đầy đủ đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ và tính toàn vẹn của thông tin. Đồng thời, chứng từ phải được kiểm soát, quản lý bảo mật để ngăn ngừa và tránh việc lợi dụng khai thác, xâm nhập, sao chép thông tin bất hợp pháp.

5. Chủ thể, quyền và nghĩa vụ chủ thể tham gia quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng

Chủ thể tham gia quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng gồm:

– Bên trả tiền;

– Người thụ hưởng;

– Ngân hàng phục vụ bên trả tiền;

– Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng.

Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thanh toán bằng thư tín dụng:

– Bên trả tiền: Khi có nhu cầu thanh toán bằng thư tín dụng phải lập giấy mở thư tín dụng ghi đầy đủ tất cả các yếu tố quy định và nộp vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản.

– Ngân hàng phục vụ bên trả tiền nhận mở thư tín dụng cho khách hàng, đồng thời có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của thư tín dụng. Sau khi đồng ý cho mở thư tín dụng, ngân hàng phải có ừách nhiệm gửi ngay thông báo về thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để báo cho người thụ hưởng biết.

Khi nhận được giấy báo về thanh toán từ thư tín dụng của ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng gửi đến, sau khi kiểm tra thủ tục lập chứng từ, nội dung chửng từ nếu đúng thì ngân hàng phục vụ bên trả tiền tiến hành thanh toán từ tài khoản tiền gửi thư tín dụng.

Sau khi thực hiện việc thanh toán, nếu trên tài khoản thư tín dụng đã hết tiền hoặc còn tiền, ngân hàng làm thủ tục tất toán tài khoản tiền gửi thư tín dụng và chuyển số tiền còn lại vào tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản.

– Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô xây dựng, ban hành quy trình thanh toán nội bộ nghiệp vụ chuyển tiền, thu hộ, chi hộ không qua tài khoản thanh toán phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước (Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014).

6, Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng:

Quyền của tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng:

1. Được lựa chọn sử dụng dịch vụ thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

2. Được thỏa thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán về quyền và nghĩa vụ khi sử dụng dịch vụ thanh toán phù hợp với các quy định của pháp luật.

3. Được yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cung cấp thông tin về việc thực hiện các dịch vụ thanh toán theo thỏa thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

4. Được khiếu nại và yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bồi thường thiệt hại khi: tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực hiện giao dịch thanh toán chậm so với thỏa thuận, không thực hiện giao dịch thanh toán hoặc thực hiện giao dịch thanh toán không khớp đúng với lệnh thanh toán, thu phí dịch vụ thanh toán không đúng loại phí hoặc mức phí mà tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đã công bố và các vi phạm khác trong thỏa thuận.

5. Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng:

1. Thực hiện đúng, đầy đủ các điều kiện, quy trình đối với các dịch vụ thanh toán theo quy định tại Thông tư này và theo thỏa thuận giữa tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật.

2. Hoàn trả hoặc phối hợp với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoàn trả đầy đủ số tiền thụ hưởng do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán chuyển thừa, chuyển nhầm (bao gồm cả lỗi tác nghiệp, sự cố hệ thống của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán).

3. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của các thông tin và chứng từ thanh toán mà mình cung cấp.

4. Tự bảo vệ các bí mật thông tin tài khoản, giao dịch của cá nhân do mình quản lý để đảm bảo an toàn, bảo mật trong giao dịch thanh toán; thông báo kịp thời cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khi phát hiện thấy có sai sót, nhầm lẫn trong giao dịch thanh toán hoặc nghi ngờ thông tin giao dịch bị lợi dụng.

5. Không được sử dụng các dịch vụ thanh toán cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác.

6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Các dịch vụ mà các cá nhân, tổ chức có thể sử dụng chứng thư tín dụng bao gồm: Dịch vụ thanh toán giao dịch bằng phương tiện điện tử ; Dịch vụ thanh toán lệnh chi, ủy nhiệm chi ;Dịch vụ thanh toán nhờ thu, ủy nhiệm thu;Dịch vụ chi hộ; Dịch vụ chuyển tiền ,………….

Chẳng hạn như Dịch vụ thanh toán ủy nghiệm thu thì Mẫu chứng từ ủy nhiệm thu bao gồm các yếu tố chính sau:

a) Chữ nhờ thu (hoặc ủy nhiệm thu), số chứng từ;

b) Ngày, tháng, năm lập chứng từ ủy nhiệm thu;

c) Tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản thanh toán của bên thụ hưởng;

d) Tên ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng;

đ) Tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản thanh toán của bên trả tiền;

e) Tên ngân hàng phục vụ bên trả tiền;

g) Số hợp đồng (hoặc đơn đặt hàng, thỏa thuận) làm căn cứ để nhờ thu, số lượng chứng từ kèm theo;

h) Nội dung thanh toán;

i) Số tiền nhờ thu bằng chữ và bằng số;

k) Ngày, tháng, năm ngân hàng phục vụ bên trả tiền thanh toán;

l) Ngày, tháng, năm ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng nhận được khoản thanh toán;

m) Chữ ký …..


Ghi chú: Bài viết được được tặng hoặc được sưu tầm hoặc được biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện đáp án chưa chính xác, vui lòng góp ý tại phần Bình luận. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *