[VPLUDVN] Ngày 12/6/2018, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019. Luật Cạnh tranh năm 2018 có những nội dung cơ bản sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNHLUẬT CẠNH TRANH (SỬA ĐỔI)
Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 (Luật Cạnh tranh năm 2004) được Quốc hội Khóa XI thông qua ngày 03/12/2004 tại Kỳ họp thứ 6 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2005. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 là dấu mốc quan trọng trong quá trình tạo lập một hành lang pháp lý thống nhất cho hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, sau hơn 12 năm thi hành, với sự thay đổi của bối cảnh kinh tế – xã hội cùng xu hướng hội nhập quốc tế, một số nội dung của Luật Cạnh tranh năm 2004 đã không còn phù hợp; cụ thể như sau:
Thứ nhất,về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế (mua bán và sáp nhập), theo Điều 18 của Luật Cạnh tranh năm 2004, pháp luật cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan (trừ trường hợp quy định tại Điều 19). Đồng thời, các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30-50% trên thị trường liên quan phải thông báo cho cơ quan cạnh tranh trước khi tiến hành các hoạt động tập trung kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp rất khó để tự xác định thị phần của mình trên thị trường liên quan và như vậy rất khó để biết xem mình có thuộc ngưỡng bị cấm hoặc phải thông báo tập trung kinh tế hay không. Do đó, các quy định hiện nay về vấn đề này là không có tính khả thi.
Thứ hai, pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay chưa quy định cụ thể về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các quy định hiện hành chỉ đề cập đến các hình thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc, chưa tiếp cận được bản chất phản cạnh tranh của hành vi. Chẳng hạn, thỏa thuận ấn định mức giá sàn, giá trần; thỏa thuận tăng giá hoặc giảm giá (không chỉ ở mức cụ thể) hoặc thỏa thuận duy trì giá bán lại cho bên thứ ba… là những thỏa thuận có bản chất hạn chế cạnh tranh, nhưng chưa được quy định. Trong khi hành vi kinh doanh, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có hành vi thỏa thuận thay đổi ngày càng phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau thì tiếp cận quy định “cứng” như hiện nay sẽ gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong quá trình điều tra, xử lý các vụ việc cụ thể. Ngoài ra, thực tiễn một số vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được cơ quan cạnh tranh xem xét, xử lý cho thấy các hiệp hội đều là tổ chức đứng sau, giữ vai trò tổ chức, lôi kéo doanh nghiệp tham gia và giám sát việc thực thi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Thậm chí trong nhiều vụ việc, hiệp hội còn ban hành các “quyết định”, các “nghị quyết” về giá cả, sản lượng… trên thị trường để các doanh nghiệp thành viên thực hiện. Tuy nhiên, các hành vi nêu trên của hiệp hội lại chưa được điều chỉnh trong các quy định hiện hành.
Thứ ba,liên quan đến các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, một số văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau Luật Cạnh tranh năm 2004, chẳng hạn như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quảng cáo… cũng có quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việc hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại văn bản luật khác nhau, được thực thi bởi các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau dẫn đến chồng chéo về thẩm quyền xử lý hoặc khả năng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan thực thi pháp luật hay dẫn đến những tranh cãi lớn trên bình diện xã hội do chạm đến những nhóm quyền lợi khác nhau.
Thứ tư, mô hình cơ quan thực thi chưa phù hợp. Hiện nay,Việt Nam có hai cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh, bao gồm Cục Quản lý cạnh tranh (Cơ quan QLCT) trực thuộc Bộ Công Thương và Hội đồng cạnh tranh (HĐCT). Một trong những nhiệm vụ và chức năng của Cơ quan QLCT là thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh để HĐCT xử lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, sau khi thụ lý và điều tra, Cơ quan QLCT sẽ phải chuyển vụ việc sang HĐCT để tiến hành xử lý vi phạm. Trong khi đó, HĐCT lại được thành lập và hoạt động theo cơ chế kiêm nhiệm, liên ngành đã dẫn đến sự thiếu tập trung trong quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh. Hầu hết thành viên HĐCT đều là các lãnh đạo, cán bộ đương nhiệm của các Bộ, ngành khác nhau, được bổ nhiệm kiêm giữ các chức danh pháp lý tại HĐCT. Do vậy, trong quá trình công tác, các thành viên HĐCT buộc phải cân đối, đảm bảo hiệu quả công tác ở cả cơ quan đương nhiệm và ở cả HĐCT. Với tính chất phức tạp của vụ việc cạnh tranh, cơ chế hoạt động kiêm nhiệm của HĐCT là chưa hợp lý, dẫn đến thiếu tập trung, thiếu kịp thời trong giải quyết vụ việc cạnh tranh. Đồng thời, với cơ cấu HĐCT như hiện nay, khi vụ việc cạnh tranh xảy ra trong ngành, lĩnh vực có đại diện Bộ, ngành đó là thành viên HĐCT, thì việc xử lý vụ việc cạnh tranh khó đảm bảo tính độc lập, khách quan do có sự mâu thuẫn, xung đột về lợi ích.
Vì vậy, để khắc phục những tồn tại, bất cập của Luật Cạnh tranh năm 2004; nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của các chính sách và pháp luật cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu trong xu thế hội nhập kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam; nhằm hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh cho phù hợp với các luật có liên quan vừa được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới; đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ, việc sửa đổi Luật Cạnh tranh năm 2004 là cần thiết.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
1. Mục đích ban hành Luật
Tạo lập, duy trì và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị trường; đảm bảo và tăng cường khả năng thực thi pháp luật trên thực tiễn; đảm bảo sự thống nhất, tránh mâu thuẫn với các luật chuyên ngành có liên quan và phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật
– Duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng, hiệu quả giữa các doanh nghiệp trên thị trường;
– Đảm bảo tính công bằng, minh bạch, khách quan trong quá trình tố tụng;
– Kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy pháp lý trong đó nhấn mạnh mục tiêu tăng cường hiệu quả cho công tác thực thi luật;
– Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong hoạt động bảo vệcạnh tranh trên thị trường.
III. BỐ CỤC VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
A. BỐ CỤC CỦA LUẬT
Luật Cạnh tranh năm 2018 gồm có 10 chương, 118 điều, cụ thể như sau:
– Chương I. Những quy định chung, gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8), quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; áp dụng pháp luật về cạnh tranh; quyền và nguyên tắc cạnh tranh trong kinh doanh; chính sách của Nhà nước về cạnh tranh; trách nhiệm quản lý nhà nước về cạnh tranh; các hành vi bị nghiêm cấm có liên quan đến cạnh tranh.
– Chương II. Thị trường liên quan và thị phần, gồm 2 điều (Điều 9 và Điều 10), quy định về xác định thị trường liên quan; xác định thị phần và thị phần kết hợp.
– Chương III. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, gồm 13 điều (từ Điều 11 đến Điều 23), quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; yêu cầu bổ sung thông tin, tài liệu đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; tham vấn trong quá trình xem xét hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; rút hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; thẩm quyền và thời hạn ra quyết định về việc hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; quyết định hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đối với các trường hợp được hưởng miễn trừ; bãi bỏ quyết định hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm.
– Chương IV. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, gồm 5 điều (từ Điều 24 đến Điều 28), quy định về doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường; doanh nghiệp có vị trí độc quyền; xác định sức mạnh thị trường đáng kể; hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm; kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước.
– Chương V. Tập trung kinh tế, gồm 16 điều (từ Điều 29 đến Điều 44), quy định về các hình thức tập trung kinh tế; tập trung kinh tế bị cấm; đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế; đánh giá tác động tích cực của việc tập trung kinh tế; thông báo tập trung kinh tế; hồ sơ thông báo tập trung kinh tế; tiếp nhận hồ sơ thông báo tập trung kinh tế; thẩm định sơ bộ việc tập trung kinh tế; thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế; bổ sung thông tin về tập trung kinh tế; tham vấn trong quá trình thẩm định tập trung kinh tế; trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thẩm định tập trung kinh tế; quyết định về việc tập trung kinh tế; tập trung kinh tế có điều kiện; thực hiện tập trung kinh tế; các hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế.
– Chương VI. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có 01 điều (Điều 45), quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm.
– Chương VII. Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia, gồm 8 điều (từ Điều 46 đến Điều 53), quy định về Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; tiêu chuẩn của thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh; thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh; điều tra viên vụ việc cạnh tranh; tiêu chuẩn của điều tra viên vụ việc cạnh tranh.
– Chương VIII. Tố tụng cạnh tranh, có 7 mục, 56 điều, bao gồm:
Mục 1. Quy định chung, gồm 4 điều (từ Điều 54 đến Điều 57), quy định về nguyên tắc tố tụng cạnh tranh; tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh; chứng cứ; trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ trong giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Mục 2. Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành tố tụng cạnh tranh, gồm 8 điều (từ Điều 58 đến Điều 65), quy định về cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành tố tụng cạnh tranh; nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia khi tiến hành tố tụng cạnh tranh; Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng; nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh khi tiến hành tố tụng cạnh tranh; nhiệm vụ, quyền hạn của điều tra viên vụ việc cạnh tranh khi tiến hành tố tụng cạnh tranh; nhiệm vụ, quyền hạn của thư ký phiên điều trần; thay đổi người tiến hành tố tụng cạnh tranh.
Mục 3. Người tham gia tố tụng, gồm 9 điều (từ Điều 66 đến Điều 74), quy định về người tham gia tố tụng cạnh tranh; quyền và nghĩa vụ của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch; quyết định việc thay đổi người giám định, người phiên dịch.
Mục 4. Trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh, gồm 21 điều (từ Điều 75 đến Điều 95), quy định về cung cấp thông tin về hành vi vi phạm; tiếp nhận, xác minh và đánh giá thông tin về hành vi vi phạm; khiếu nại vụ việc cạnh tranh; tiếp nhận, xem xét hồ sơ khiếu nại; trả hồ sơ khiếu nại; quyết định điều tra vụ việc cạnh tranh; thời hạn điều tra vụ việc cạnh tranh; áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh; lấy lời khai; triệu tập người làm chứng trong quá trình điều tra; chuyển hồ sơ trong trường hợp phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm; đình chỉ điều tra; khôi phục điều tra; báo cáo điều tra; xử lý vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế; xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh; xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh; đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh; phiên điều trần; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; hiệu lực của quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Mục 5. Giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, gồm 8 điều (từ Điều 96 đến Điều 103), quy định về khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; đơn khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; thụ lý đơn khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; hậu quả của việc khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; hiệu lực của quyết định giải quyết khiếu nại; khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại.
Mục 6. Công bố quyết định của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, gồm 4 điều (từ Điều 104 đến Điều 107), quy định về các quyết định phải được công bố công khai; nội dung không công bố; đăng tải nội dung quyết định phải được công bố; công bố và đăng tải báo cáo kết quả hoạt động hằng năm của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.
Mục 7. Hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh, gồm 2 điều (Điều 108 và Điều 109), quy định về hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh; nguyên tắc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh.
– Chương IX. Xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh, gồm 6 điều (từ Điều 110 đến Điều 115), quy định về nguyên tắc xử lý vi phạm, hình thức xử lý vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm pháp luật về cạnh tranh; phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh; chính sách khoan hồng; thẩm quyền và hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh; thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; thi hành quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
– Chương X. Điều khoản thi hành, gồm 3 điều (từ Điều 116 đến Điều 118), quy định về sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ quy định trong một số luật khác; hiệu lực thi hành; điều khoản chuyển tiếp.
B. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Những quy định chung (Chương I)
– Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1), Luật Cạnh tranh năm 2018 đã làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh so với Luật Cạnh tranh năm 2004, cụ thể:
Thứ nhất, quy định phạm vi điều chỉnh đối với hành vi cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam, tức là bao gồm cả những hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế xảy ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh như trên góp phần tạo hành lang pháp lý để xử lý triệt để, toàn diện mọi hành vi cạnh tranh dù xảy ra tại đâu mà có tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đối với thị trường Việt Nam; góp phần tạo sự ổn định cho nền kinh tế nội địa thông qua việc ổn định các yếu tố thị trường, đặc biệt quan trọng đối với các lĩnh vực thiết yếu, lĩnh vực phục vụ dân sinh của nền kinh tế; tạo điều kiện thực thi cam kết về việc duy trì và đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hầu hết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Thứ hai, tách nội dung quy định về tập trung kinh tế ra khỏi các nội dung quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, nhằm đánh giá lại một cách chính xác bản chất và tác động của từng nhóm hành vi này đến môi trường cạnh tranh.
– Về đối tượng áp dụng (Điều 2), được quy định mở rộng hơn so với Luật Cạnh tranh năm 2004, bao gồm cả cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có liên quan. Việc sửa đổi như trên nhằm phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường đã được quy định tại khoản 2 Điều 51 Hiến pháp năm 2013 “các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Theo đó, để tạo lập nền tảng cơ bản cho quá trình cạnh tranh và điều tiết cạnh tranh trong mọi ngành, lĩnh vực, Luật Cạnh tranh cần được áp dụng đối với mọi đối tượng có liên quan đến quá trình cạnh tranh và điều tiết cạnh tranh trên thị trường mà không phụ thuộc vào việc chủ thể thực hiện hành vi có chức năng kinh doanh hay không.
– Về giải thích từ ngữ (Điều 3), so với Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 sửa đổi lại khái niệm “Thị trường liên quan”, “Hành vi hạn chế cạnh tranh”, “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh”,“Tố tụng cạnh tranh”; đồng thời bổ sung thêm các khái niệm “Tác động hạn chế cạnh tranh”, “Thoả thuận hạn chế cạnh tranh”, “Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền”, “Vụ việc cạnh tranh”; bãi bỏ các khái niệm ““Bán hàng đa cấp”, “Bí mật kinh doanh”, “Thị phần của doanh nghiệp”, “Thị phần kết hợp”, “Giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ” nhằm phù hợp với những thay đổi của Luật Cạnh tranh năm 2018.
– Về áp dụng pháp luật về cạnh tranh (Điều 4), trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 5 Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 tiếp tục khẳng định vai trò của Luật này trong hệ thống pháp luật Việt Nam là Luật “điều chỉnh chung về các quan hệ cạnh tranh”. Đồng thời, đặt ra nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật “…Trường hợp luật khác có quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hình thức tập trung kinh tế, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của luật đó”.
– Về chính sách của Nhà nước về cạnh tranh (Điều 6), đây là quy định mới được bổ sung nhằm thể chế hóa quan điểm, tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, khuyến khích cạnh tranh, làm động lực phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời, khẳng định mục tiêu của pháp luật cạnh tranh là tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Quy định này là cần thiết nhằm giúp cơ quan cạnh tranh xác định chiến lược ưu tiên trong thực thi, tạo cơ sở pháp lý minh bạch, rõ ràng để doanh nghiệp xây dựng định hướng trong kinh doanh.
– Về các hành vi bị nghiêm cấm có liên quan đến cạnh tranh (Điều 8), trên cơ sở kế thừa những quy định tại Điều 6 Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 tiếp tục quy định đồng thời có bổ sung thêm hành vi bị cấm đối với cơ quan nhà nước “… d) lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cạnh tranh”. Việc bổ sung quy định như trên là cần thiết, bởi với quyền lực nhà nước được trao, cơ quan nhà nước có khả năng lạm dụng quyền lực để thực hiện các hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường.
2. Thị trường liên quan và thị phần (Chương II)
Xuất phát từ tầm quan trọng và tính xuyên suốt của quy định về thị trường liên quan, thị phần trong việc kiểm soát các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, Luật Cạnh tranh năm 2018 đã xây dựng một Chương riêng quy định về thị trường liên quan và thị phần, trên cơ sở kế thừa các điều, khoản trong Luật Cạnh tranh năm 2004 và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 09 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh (Nghị định số 116/2005/NĐ-CP).
– Về xác định thị trường liên quan (Điều 9), nội dung quy định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 về việc xác định thị trường liên quan trong vụ việc cạnh tranh, cụ thể:
“1. Thị trường liên quan được xác định trên cơ sở thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.
Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.
Thị trường địa lý liên quan là khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng hóa, dịch vụ được cung cấp có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận.
2. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 Điều này”.
– Về xác định thị phần và thị phần kết hợp (Điều 10), nội dung quy định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa nhiều quy định tại các khoản 5 và 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004, các Điều 9, 10, 11 và 12 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP. Đồng thời, Luật bổ sung quy định mới cho phép tính toán thị phần trên thị trường liên quan căn cứ vào số lượng đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra hoặc mua vào của doanh nghiệp. Việc bổ sung căn cứ xác định thị phần như trên nhằm khắc phục hạn chế của Luật Cạnh tranh năm 2004 khi chỉ xác định thị phần dựa trên doanh thu bán ra, doanh số mua vào của doanh nghiệp, cụ thể:
“1. Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của thị trường liên quan, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan được xác định theo một trong các phương pháp sau đây: a) Tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu bán ra của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm; b) Tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm; c) Tỷ lệ phần trăm giữa số đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra của doanh nghiệp này với tổng số đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm; d) Tỷ lệ phần trăm giữa số đơn vị hàng hóa, dịch vụ mua vào của doanh nghiệp này với tổng số đơn vị hàng hóa, dịch vụ mua vào của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm…”
3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Chương III)
Đây là chương mới được xây dựng trên cơ sở Mục 1, Mục 4 Chương II Luật Cạnh tranh năm 2004. Việc tách các quy định tại Mục 1 và Mục 4 Chương II Luật Cạnh tranh năm 2004 thành chương riêng do đây là nhóm quy định riêng biệt về một trong những hành vi phản cạnh tranh cơ bản được điều chỉnh, là một trong những trụ cột của pháp luật cạnh tranh.
– Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Điều 11), nội dung này được kế thừa quy định về 08 hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã được quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004, đồng thời bổ sung một số hành vi, gồm: “…9. Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận. 10. Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận. 11. Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh”. Đây là những hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh ngày càng phổ biến trên thị trường, nhưng chưa được Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định điều chỉnh, dẫn đến các cơ quan cạnh tranh thiếu cơ sở pháp lý để xử lý hành vi này trên thực tế.
– Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm (Điều 12), được quy định theo hướng phân định rõ cách tiếp cận cấm đối với các thoả thuận ngang (giữa các đối thủ cạnh tranh) và thoả thuận dọc (giữa các doanh nghiệp ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định), cụ thể:
+ Cấm mặc nhiên đối với 06 hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh được quy định từ khoản 1 đến khoản 6 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018.
+ Cấm theo nguyên tắc đánh giá tác động đối với 5 hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan (khoản 7, 8, 9, 10, 11 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018) và 8 hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định (khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10, 11 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018) khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
Nội dung đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 13 Luật Cạnh tranh năm 2018.
– Về đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Điều 13), Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định 06 yếu tố giúp khẳng định tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, gồm: “…a) Mức thị phần của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận; b) Rào cản gia nhập, mở rộng thị trường; c) Hạn chế nghiên cứu, phát triển, đổi mới công nghệ hoặc hạn chế năng lực công nghệ; d) Giảm khả năng tiếp cận, nắm giữ cơ sở hạ tầng thiết yếu; đ) Tăng chi phí, thời gian của khách hàng trong việc mua hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hoặc khi chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ liên quan khác; e) Gây cản trở cạnh tranh trên thị trường thông qua kiểm soát các yếu tố đặc thù trong ngành, lĩnh vực liên quan đến các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận”.
– Về miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm (Điều 14), trên cơ sở kế thừa quy định về trường hợp miễn trừ đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 10 Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định thoả thuận hạn chế cạnh tranh nếu có lợi cho người tiêu dùng và đáp ứng một trong các điều kiện sau đây thì được hưởng miễn trừ có thời hạn, bao gồm: “…a) Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ; b) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế; c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; d) Thống nhất các điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá”.
– Về nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm (Điều 15), đây là quy định mới được xây dựng trên cơ sở tổng hợp, có điều chỉnh nội dung quy định tại các Điều 26 và 27 Luật Cạnh tranh năm 2004 về “Đối tượng nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ” và “Đại diện hợp pháp của các bên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế”. Cụ thể:
+ Đối tượng xin hưởng miễn trừ: là doanh nghiệp dự định tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ tại Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (khoản 1 Điều 15).
+ Đại diện các bên tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm: được các bên tham gia thỏa thuận ủy quyền bằng văn bản (điểm e khoản 2 Điều 15).
– Về thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm (Điều 16), về cơ bản, được giữ nguyên các nội dung quy định tại Điều 30 Luật Cạnh tranh năm 2004, tuy nhiên, có điều chỉnh về thẩm quyền thụ lý hồ sơ, thay thế quy định “cơ quan quản lý cạnh tranh” thành “Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia” để phù hợp với sự thay đổi về mô hình cơ quan cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh năm 2018, tăng tính độc lập cho cơ quan cạnh tranh.
– Về yêu cầu bổ sung thông tin, tài liệu đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm (Điều 17), trên cơ sở kế thừa nội dung quy định tại Điều 31 Luật Cạnh tranh năm 2004 về cùng nội dung, Luật Cạnh tranh năm 2018 bổ sung thêm một phần nội dung quy định tại khoản 2: “Trường hợp bên được yêu cầu không bổ sung hoặc bổ sung không đầy đủ thông tin, tài liệu theo yêu cầu, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia xem xét, quyết định trên cơ sở thông tin, tài liệu đã có”.
– Về quyết định hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm (Điều 22), trên cơ sở kế thừa nội dung quy định tại Điều 35 Luật Cạnh tranh năm 2004 về cùng nội dung, Luật Cạnh tranh năm 2018quy định cụ thể hơn một số nội dung về quyết định hưởng miễn trừ và thời hạn hưởng miễn trừ tại khoản 2, 3, cụ thể: “…2. Quyết định hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm phải được gửi cho các bên tham gia thỏa thuận trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định. 3. Thời hạn hưởng miễn trừ quy định tại điểm d khoản 1 Điều này là không quá 05 năm kể từ ngày ra quyết định. Trong thời gian 90 ngày trước khi thời hạn hưởng miễn trừ kết thúc, theo đề nghị của các bên tham gia thỏa thuận, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia xem xét, quyết định việc tiếp tục hoặc không tiếp tục hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm. Trường hợp tiếp tục được hưởng miễn trừ thì thời hạn hưởng miễn trừ là không quá 05 năm kể từ ngày ra quyết định tiếp tục hưởng miễn trừ”.
– Về thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đối với các trường hợp được hưởng miễn trừ (Điều 22), trên cơ sở sửa đổi Điều 36 Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 bổ sung nội dung tại khoản 1 Điều 22: “1. Các bên tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh đáp ứng điều kiện được hưởng miễn trừ quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này chỉ được thực hiện thoả thuận hạn chế cạnh tranh sau khi có quyết định cho hưởng miễn trừ quy định tại Điều 21 của Luật này”.
4. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền (Chương IV)
Đây là chương mới được xây dựng trên cơ sở Mục 2 Chương II Luật Cạnh tranh năm 2004, trong đó tách các quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền thành chương riêng, do đây là những nhóm quy định về hành vi riêng biệt, cụ thể:
– Về doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường (Điều 24), so với quy định tại Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 có sửa đổi, bổ sung nội dung này như sau:
+ Tại khoản 1: thay thế cụm từ “có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể” tại khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2004 bằng cụm từ “có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật này”, đồng thời, đảo cụm từ này lên trước cụm từ “có thị phần từ 30% trở lên…”. Việc sửa đổi này thể hiện cách tiếp cận phù hợp hơn Luật Cạnh tranh năm 2004 trong xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, về cơ bản phải dựa trên các tiêu chí đánh giá sức mạnh thị trường đáng kể.
+ Tại khoản 2: bổ sung tiêu chí “sức mạnh thị trường đáng kể” để xác định nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, bên cạnh tiêu chí thị phần kết hợp.
+ Bổ sung khoản 3 quy định về nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh không bao gồm doanh nghiệp có thị phần dưới 10% trên thị trường liên quan nhằm phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động và cấu trúc của thị trường.
– Về xác định sức mạnh thị trường đáng kể (Điều 26), được xây dựng trên cơ sở kế thừa một số nội dung quy định về “Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể” tại Điều 22 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP. So với Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018có cách tiếp cận mới trong việc xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp (hay xác định vị trí thống lĩnh thị trường) khi không chỉ dựa vào tiêu chí thị phần trên thị trường liên quan mà sử dụng đồng thời nhiều tiêu chí khác nhau để xác định chính xác sức mạnh thị trường của doanh nghiệp, cụ thể:
“1. Sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp được xác định căn cứ vào một số yếu tố sau đây: a) Tương quan thị phần giữa các doanh nghiệp trên thị trường liên quan; b) Sức mạnh tài chính, quy mô của doanh nghiệp; c) Rào cản gia nhập, mở rộng thị trường đối với doanh nghiệp khác; d) Khả năng nắm giữ, tiếp cận, kiểm soát thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ hoặc nguồn cung hàng hóa, dịch vụ; đ) Lợi thế về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật; e) Quyền sở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng; g) Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ; h) Khả năng chuyển sang nguồn cung hoặc cầu đối với các hàng hóa, dịch vụ liên quan khác; i) Các yếu tố đặc thù trong ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh…”.
– Về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm (Điều 27), được xây dựng trên cơ sở tổng hợp quy định tại các Điều 13 và 14 Luật Cạnh tranh năm 2004 về “Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm” và “Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm”; đồng thời, sửa đổi nội dung quy định theo hướng bổ sung hậu quả, tác động của hành vi, nhằm giúp phản ánh đúng bản chất phản cạnh tranh của hành vi, phù hợp với thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể:
“1. Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi sau đây: a) Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh; b) Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng; c) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng; d) Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác; đ) Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác; e) Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác; g) Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo quy định của luật khác.
2. Doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện hành vi sau đây: a) Hành vi quy định tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này; b) Áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng; c) Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng; d) Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm theo quy định của luật khác”.
5. Tập trung kinh tế (Chương V)
Đây là chương mới, được tách từ Mục 3 Chương II Luật Cạnh tranh năm 2004. Việc tách tập trung kinh tế thành một chương riêng xuất phát từ sự thay đổi về cách tiếp cận trong kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế theo hướng “tiền kiểm” nhằm ngăn ngừa việc tập trung kinh tế có thể hình thành nên sức mạnh thị trường, tiềm ẩn khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa, không phải mọi giao dịch tập trung kinh tế đều có bản chất hạn chế cạnh tranh. Do đó, việc đánh giá, xem xét khả năng gây hạn chế cạnh tranh của việc tập trung kinh tế khác với việc đánh giá, xem xét theo hướng “hậu kiểm” đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền.
– Về các hình thức tập trung kinh tế (Điều 29), được xây dựng trên cơ sở tổng hợp nội dung quy định tại Điều 16 và 17 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định về các hình thức và nội hàm của từng hình thức tập trung kinh tế, trong đó, có sửa đổi nội dung quy định về Mua lại doanh nghiệp như sau: “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp mua toàn bộ hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. Việc sửa đổi này nhằm làm rõ hình thức mua lại doanh nghiệp có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp, do trên thực tế nhiều doanh nghiệp tiến hành thành lập mới công ty con để tránh hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế của cơ quan cạnh tranh do doanh nghiệp mới chưa có ngành nghề kinh doanh trùng lắp và chưa có thị phần trên thị trường. Đồng thời, bổ sung đối tượng mua lại không chỉ là tài sản mà còn có thể là vốn góp của doanh nghiệp cho phù hợp với thực tiễn.
– Về tập trung kinh tế bị cấm (Điều 30) được sửa đổi theo hướng tiếp cận hoàn toàn mới, dựa trên bản chất gây tác động hoặc có thể gây tác động hạn chế cạnh tranh của giao dịch tập trung kinh tế. Theo đó, Luật không quy định cấm tập trung kinh tế một cách cứng nhắc dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan như trong Luật Cạnh tranh năm 2004 mà thay vào đó chỉ quy định cấm doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường, cụ thể: “Doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam”.
Với quy định như vậy, Luật đã thể hiện được quan điểm tiến bộ là luôn tôn trọng và cho phép doanh nghiệp được quyền thông qua hoạt động tập trung kinh tế để phát triển kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện quyền kiểm soát bằng pháp luật để đảm bảo việc tập trung kinh tế không gây tác động tiêu cực tới môi trường cạnh tranh và chỉ can thiệp trong trường hợp việc tập trung kinh tế có nguy cơ gây tổn hại cho môi trường cạnh tranh.
– Về thông báo tập trung kinh tế (Điều 33), Điều 20 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định các doanh nghiệp tập trung kinh tế phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế khi có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp sau khi tập trung kinh tế doanh nghiệp vẫn thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của pháp luật, và trường hợp được miễn trừ theo quy định tại Điều 19 Luật Cạnh tranh năm 2004. Việc xác định nghĩa vụ thông báo tập trung kinh tế dựa trên tiêu chí “thị phần kết hợp trên thị trường liên quan” là một trong những bất cập của Luật Cạnh tranh năm 2004, cần phải được sửa đổi, khắc phục. Do đó, Điều 33 Luật Cạnh tranh năm 2018đã không sử dụng “thị phần kết hợp” làm tiêu chí thông báo tập trung kinh tế, mà thay vào đó sử dụng các tiêu chí sau làm ngưỡng thông báo, bao gồm: “a) Tổng tài sản trên thị trường Việt Nam của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế; b) Tổng doanh thu trên thị trường Việt Nam của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế; c) Giá trị giao dịch của tập trung kinh tế; d) Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế”.
– Về thẩm định sơ bộ việc tập trung kinh tế (Điều 36) và thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế (Điều 38), trên cơ sở thay đổi cách tiếp cận về việc kiểm soát tập trung kinh tế dựa trên bản chất gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, Luật Cạnh tranh năm 2018quy định quy trình thẩm định tập trung kinh tế qua 02 giai đoạn: thẩm định sơ bộ và thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế, cụ thể:
+ Nội dung thẩm định sơ bộ việc tập trung kinh tế bao gồm: “…a) Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trên thị trường liên quan; b) Mức độ tập trung trên thị trường liên quan trước và sau khi tập trung kinh tế; c) Mối quan hệ của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trong chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định hoặc ngành, nghề kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế là đầu vào của nhau hoặc bổ trợ cho nhau” (khoản 1 Điều 36).
+ Nội dung thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế bao gồm: “…a) Đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế theo quy định tại Điều 31 của Luật này và các biện pháp khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh; b) Đánh giá tác động tích cực của việc tập trung kinh tế theo quy định tại Điều 32 của Luật này và các biện pháp tăng cường tác động tích cực của việc tập trung kinh tế; c) Đánh giá tổng hợp khả năng tác động hạn chế cạnh tranh và khả năng tác động tích cực của tập trung kinh tế để làm cơ sở xem xét, quyết định về việc tập trung kinh tế” (khoản 2 Điều 37).
– Về bổ sung thông tin về tập trung kinh tế (Điều 38), quy định về trách nhiệm bổ sung thông tin của các bên tham gia tập trung kinh tế trong quá trình thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế. Đây là quy định cần thiết nhằm tạo điều kiện cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đánh giá khách quan, chính xác việc tập trung kinh tế, cụ thể:
“1. Trong quá trình thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia yêu cầu doanh nghiệp nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế bổ sung thông tin, tài liệu nhưng không quá 02 lần. 2. Doanh nghiệp nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế có trách nhiệm bổ sung thông tin, tài liệu liên quan đến việc tập trung kinh tế và chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, chính xác của thông tin, tài liệu bổ sung theo yêu cầu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. 3. Trường hợp bên được yêu cầu không bổ sung hoặc bổ sung không đầy đủ thông tin, tài liệu theo yêu cầu, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia xem xét, quyết định trên cơ sở thông tin, tài liệu đã có. 4. Thời gian bổ sung thông tin, tài liệu quy định tại khoản 2 Điều này không được tính vào thời hạn thẩm định tập trung kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 37 của Luật này”.
– Về tham vấn trong quá trình thẩm định tập trung kinh tế (Điều 39), nhằm tăng cường sự phối hợp giữa Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia và các cơ quan quản lý nhà nước trong các ngành, lĩnh vực cụ thể trong việc xem xét, đánh giá, thẩm định tập trung kinh tế, Luật Cạnh tranh năm 2018 bổ sung quy định như sau: “1. Trong quá trình thẩm định tập trung kinh tế, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có quyền tham vấn cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực mà các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế đang hoạt động; trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia về việc tham vấn ý kiến, cơ quan được tham vấn có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về nội dung được tham vấn. 2. Trong quá trình thẩm định tập trung kinh tế, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có thể tiến hành tham vấn ý kiến của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khác có liên quan”.
– Về tập trung kinh tế có điều kiện (Điều 42), đây là quy định mới được bổ sung so với Luật Cạnh tranh năm 2004, cụ thể:
“Tập trung kinh tế có điều kiện là tập trung kinh tế được thực hiện nhưng phải đáp ứng một hoặc một số điều kiện sau đây: 1. Chia, tách, bán lại một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế. 2. Kiểm soát nội dung liên quan đến giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế. 3. Biện pháp khác nhằm khắc phục khả năng tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường. 4. Biện pháp khác nhằm tăng cường tác động tích cực của tập trung kinh tế.”
6. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm (Chương VI)
Trên cơ sở chuẩn hóa các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời rà soát, loại bỏ các hành vi không phù hợp về mặt bản chất, Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018 đã sửa đổi, bổ sung một số hành vi được quy định tại Điều 39 Luật Cạnh tranh năm 2004, cụ thể như sau:
“1. Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh dưới các hình thức sau đây: a) Tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó; b) Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó. 2. Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó. 3. Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin không trung thực về doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. 4. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó. 5. Lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức sau đây: a) Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác; b) So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung. 6. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó. 7. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của luật khác”.
7. Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (Chương VII)
Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trên quan điểm tổ chức lại các cơ quan cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh năm 2004 bao gồm: Cơ quan quản lý cạnh tranh (hiện nay là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng) và Hội đồng Cạnh tranh (bao gồm cả bộ phận giúp việc là Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh). Đây là điểm mới quan trọng nhằm tăng cường hiệu quả thực thi của cơ quan cạnh tranh. Mô hình Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phù hợp với xu hướng chung của thế giới, đồng thời giúp giảm đầu mối, tinh gọn bộ máy, đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với bối cảnh kinh tế và các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể Luật quy định:
– Về mô hình tổ chức (khoản 1 Điều 46), Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan thuộc Bộ Công Thương gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên. Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh và các đơn vị chức năng khác là bộ máy giúp việc của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Theo đó, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tổ chức, hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (Điều 47); thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là công chức của Bộ Công Thương, các Bộ, ngành có liên quan, các chuyên gia và nhà khoa học được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương, số lượng tối đa là 15 người (Điều 48); cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh thuộc Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có chức năng điều tra các hành vi vi phạm quy định tại Luật Cạnh tranh (khoản 1 Điều 50).
– Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (khoản 2 Điều 46), bao gồm: Tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cạnh tranh; tiến hành tố tụng cạnh tranh; kiểm soát tập trung kinh tế; quyết định việc miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và các nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và quy định của luật khác có liên quan.
– Về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh (khoản 2 Điều 50), bao gồm: thu thập, tiếp nhận thông tin nhằm phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh; tổ chức điều tra vụ việc cạnh tranh; kiến nghị áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh; thực hiện các biện pháp nghiệp vụ điều tra trong quá trình điều tra phù hợp với quy định của pháp luật; nhiệm vụ khác theo phân công của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.
8. Tố tụng cạnh tranh (Chương VIII)
Các quy định về trình tự, thủ tục trong tố tụng cạnh tranh trong Luật đã được hoàn thiện theo hướng đơn giản hơn, rút ngắn thời gian và có sự phân định rõ các khâu trong quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh, từ phát hiện, điều tra cho đến xử lý và giải quyết khiếu nại. Trong mỗi khâu sẽ gắn với trách nhiệm cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cạnh tranh. Đồng thời, Luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Điều này bảo đảm các hoạt động tố tụng cạnh tranh được rõ ràng, minh bạch để mọi cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp và toàn xã hội có thể theo dõi, giám sát. Cụ thể Luật quy định:
– Về chứng cứ (Điều 56), điều này cơ bản vẫn giữ nguyên nội dung của Điều 60 Luật Cạnh tranh năm 2004, có bổ sung nguồn chứng cứ thu thập được từ “Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử” (điểm a khoản 2) và việc xác định nguồn chứng cứ tại khoản 3.
– Về trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ trong giải quyết vụ việc cạnh tranh (Điều 57), điều này cơ bản vẫn giữ nguyên tinh thần của Điều 97 Luật Cạnh tranh năm 2004, tuy nhiên do có sự thay đổi về mô hình cơ quan cạnh tranh nên nội dung này được sửa đổi lại như sau:
“1. Cơ quan, người có thẩm quyền, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ quá trình điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh theo yêu cầu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. 2. Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin, tài liệu đang quản lý, nắm giữ liên quan đến vụ việc cạnh tranh theo yêu cầu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh”.
– Về cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành tố tụng cạnh tranh (Điều 58), trên cơ sở những thay đổi về mô hình cơ quan cạnh tranh, Luật Cạnh tranh năm 2018 đã tổng hợp Điều 74 về “Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh” và Điều 75 về “Người tiến hành tố tụng cạnh tranh” của Luật Cạnh tranh năm 2004 thành một điều chung, cụ thể:
“1. Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh bao gồm: a) Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; b) Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh; c) Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; d) Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh; 2. Người tiến hành tố tụng cạnh tranh bao gồm: a) Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; b) Chủ tịch Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh; c) Thành viên Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh; d) Thành viên Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; đ) Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh; e) Điều tra viên vụ việc cạnh tranh; g) Thư ký phiên điều trần”.
– Về thay đổi người tiến hành tố tụng cạnh tranh (Điều 65), điều này được xây dựng trên cơ sở kế thừa cơ bản và tổng hợp nội dung quy định tại các điều 83, 84 và 85 Luật Cạnh tranh năm 2004 về việc từ chối hoặc thay đổi thành viên Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, điều tra viên, thư ký phiên điều trần. Theo đó, Thành viên Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, điều tra viên vụ việc cạnh tranh, thư ký phiên điều trần phải từ chối tiến hành tố tụng cạnh tranh hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: là người thân thích với bên bị điều tra hoặc bên khiếu nại; là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc cạnh tranh; có căn cứ rõ ràng cho rằng họ không khách quan khi làm nhiệm vụ.
– Về người tham gia tố tụng cạnh tranh (Điều 66), so với Điều 64 Luật Cạnh tranh năm 2004, điều này thay “Luật sư” bằng “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” theo hướng mở rộng người tham gia tố tụng cạnh tranh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị điều tra, phù hợp với pháp luật về tố tụng dân sự.
– Bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra (Điều 67). Theo đó, bên khiếu nại là tổ chức, cá nhân có hồ sơ khiếu nại quy định tại Điều 77 của Luật này được Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tiếp nhận, xem xét để điều tra; bên bị điều tra là tổ chức, cá nhân bị Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia quyết định tiến hành điều tra trong các trường hợp quy định tại Điều 80 của Luật này; bên bị khiếu nại là tổ chức, cá nhân bị khiếu nại về hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
– Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điều 68). Theo quy định tại Điều 67 Luật Cạnh tranh năm 2004, chỉ có luật sư tham gia tố tụng (theo quy định của pháp luật về luật sư) mới có thể tham gia tố tụng cạnh tranh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại hoặc bên bị điều tra. Quy định này đã giới hạn các cá nhân (ngoài luật sư) có thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự theo quy định của pháp luật hiện hành như trợ giúp viên pháp lý hoặc cá nhân được uỷ quyền. Do vậy, để phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, đảm bảo quyền của các bên khi tham gia tố tụng cạnh tranh, Luật Cạnh tranh năm 2018đã quy định: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người được bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu bằng văn bản tham gia tố tụng cạnh tranh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (khoản 1 Điều 68).
– Về cung cấp thông tin về hành vi vi phạm (Điều 75), Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định một trong những nguồn thông tin đầu vào làm căn cứ để Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia quyết định điều tra vụ việc cạnh tranh, đó là những thông tin được cung cấp bởi mọi tổ chức, cá nhân khi phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh.
– Về khiếu nại vụ việc cạnh tranh (Điều 77), nhìn chung, quy định tại Điều 77 của Luật giữ nguyên những nội dung cơ bản của Điều 58 Luật Cạnh tranh năm 2004. Tuy nhiên, có sự điều chỉnh về thời hiệu khiếu nại, từ 02 năm lên “03 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện”, do: các vụ việc hạn chế cạnh tranh không giống các hành vi vi phạm hành chính thông thường, mà có xu hướng kéo dài liên tục, bền vững, mức độ và phạm vi ảnh hưởng cũng rất lớn, bên cạnh đó, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh lại có xu hướng “ngầm hóa” nhằm che dấu hành vi vi phạm, nên rất khó bị phát hiện và chứng minh, đến khi hành vi bị phát hiện thì phần lớn đã quá thời hiệu 2 năm. Việc tăng thời hiệu khiếu nại như Luật Cạnh tranh năm 2018giúp việc áp dụng pháp luật cạnh tranh đảm bảo tính nghiêm minh, không bỏ sót vi phạm.
– Về căn cứ ra quyết định điều tra vụ việc cạnh tranh (Điều 80), được sửa đổi, bổ sung thêm nguồn cung cấp thông tin là tổ chức, cá nhân. Theo đó, Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh ra quyết định điều tra vụ việc cạnh tranh trong trường hợp: “tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh” (khoản 1 Điều 77) và “Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong thời hạn 03 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện” (khoản 2 Điều 80).
– Về thời hạn điều tra vụ việc cạnh tranh (Điều 81), Luật Cạnh tranh năm 2018không còn chia quá trình điều tra thành hai giai đoạn (điều tra sơ bộ và điều tra chính thức) nên quy định về thời hạn điều tra không còn tách thành hai điều riêng như tại Điều 87 và 90 Luật Cạnh tranh năm 2004, mà chỉ có một quy định duy nhất về thời hạn điều tra vụ việc cạnh tranh. Cụ thể:
“1. Thời hạn điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh là 09 tháng kể từ ngày ra quyết định điều tra; đối với vụ việc phức tạp thì được gia hạn một lần nhưng không quá 03 tháng. 2. Thời hạn điều tra vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế là 90 ngày kể từ ngày ra quyết định điều tra; đối với vụ việc phức tạp thì được gia hạn một lần nhưng không quá 60 ngày. 3. Thời hạn điều tra vụ việc cạnh tranh không lành mạnh là 60 ngày kể từ ngày ra quyết định điều tra; đối với vụ việc phức tạp thì được gia hạn một lần nhưng không quá 45 ngày. 4. Việc gia hạn điều tra phải được thông báo đến bên bị điều tra và các bên liên quan chậm nhất là 07 ngày làm việc trước ngày kết thúc thời hạn điều tra”.
– Về lấy lời khai (Điều 83), đây là quy định mới quy định về một nghiệp vụ điều tra quan trọng của Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh là lấy lời khai của bên khiếu nại, bên bị điều tra, người làm chứng, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan để xác minh và thu thập các thông tin, chứng cứ cần thiết giúp giải quyết vụ việc cạnh tranh. Trên cơ sở quy định tại Điều 91 Luật Cạnh tranh năm 2004 về “Biên bản điều tra” và Điều 78 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP về “Lấy lời khai của bên khiếu nại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng”, Luật Cạnh tranh năm 2018quy định về các nguyên tắc chung khi tiến hành lấy lời khai như: người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, địa điểm tiến hành lấy lời khai, biên bản ghi lời khai,…
– Về đình chỉ điều tra (Điều 86), quy định cơ chế xử lý nhanh để rút ngắn thời gian, chi phí giải quyết vụ việc, hạn chế việc khiếu kiện kéo dài ra Tòa án. Trên sơ sở kết quả thương lượng, thỏa hiệp của bên khiếu nại và bên bị điều tra về việc một bên chấm dứt hành vi, cam kết khắc phục hậu quả và một bên rút đơn khiếu nại, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh xem xét, chấp thuận cam kết và quyết định đình chỉ điều tra.
– Tách quy định về xử lý vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế (Điều 89) và xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh (Điều 90),xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh (Điều 91). Xuất phát từ thực tiễn là các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và tập trung kinh tế do tính chất vụ việc thường đơn giản, hành vi vi phạm dễ nhận biết nên việc xử lý đối với các vụ việc này cũng cần được thực hiện nhanh chóng, tránh thủ tục kéo dài như các vụ việc hạn chế cạnh tranh.
– Về khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (Điều 96),trên cơ sở sửa đổi quy định tại Điều 107 Luật Cạnh tranh năm 2004 về việc khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, Luật Cạnh tranh năm 2018 quy địnhtrong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, tổ chức, cá nhân không nhất trí với một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.
– Về hậu quả của việc khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (Điều 99), bổ sung thêm một khoản mang tính chất dự phòng, đó là: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy việc thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định đó. Quyết định tạm đình chỉ của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia hết hiệu lực kể từ ngày quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực pháp luật”. Quy định này là cần thiết, đặc biệt là trong các trường hợp buộc chia tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp, hoặc trong các trường hợp buộc cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, thường có tác động, phạm vi ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp và thị trường.
– Để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động tố tụng cạnh tranh, đồng thời, kế thừa các quy định tiến bộ của Luật Cạnh tranh năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Cạnh tranh năm 2018quy định một mục mới là Mục 6 Chương VIII (từ Điều 104 đến Điều 107) về “Công bố các quyết định của Ủy banCạnh tranh Quốc gia” và Mục 7 Chương VIII (Điều 108, Điều 109) về hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh.
9. Về xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh (Chương IX)
Chương IX “Xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh” của Luật Cạnh tranh năm 2018kế thừa những quy định tiến bộ, phù hợp tại Mục 8 Chương V Luật Cạnh tranh năm 2004, có sửa đổi, bổ sung một số quy định sau:
– Bổ sung nguyên tắc xử lý vi phạm tại Điều 110 Luật Cạnh tranh năm 2018, theo đó, “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật” (khoản 1 Điều 110).
– Về phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh (Điều 111), trên cơ sở tách bạch việc xử lý đối với các nhóm hành vi có tính chất khác nhau (gồm: cạnh tranh không lành mạnh; vi phạm quy định về tập trung kinh tế; hạn chế cạnh tranh; và các hành vi khác vi phạm pháp luật cạnh tranh), Luật Cạnh tranh năm 2018đã xác định các mức phạt tiền tối đa khác nhau được áp dụng đối với các nhóm hành vi nêu trên. Cụ thể:
+ Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền là 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng thấp hơn mức phạt tiền thấp nhất đối với các hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.
+ Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế là 05% tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
+ Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh là 2.000.000.000 đồng.
+ Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi khác vi phạm quy định của Luật này là 200.000.000 đồng.
+ Mức phạt tiền tối đa quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này áp dụng đối với hành vi vi phạm của tổ chức; đối với cá nhân có cùng hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, mức phạt tiền tối đa bằng một phần hai mức phạt tiền tối đa đối với tổ chức.
– Bổ sung quy định về chính sách khoan hồng (Điều 112). Luật Cạnh tranh năm 2004 không quy định về chính sách khoan hồng, mà mới chỉ có quy định về các tình tiết giảm nhẹ mức độ xử lý vi phạm. Xét về bản chất, các tình tiết giảm nhẹ không thể thay thế cho chính sách khoan hồng và ngược lại, mặc dù có một số điểm giống nhau như đều trên cơ sở tự nguyện hợp tác của các đối tượng và cùng được giảm mức độ xử lý vi phạm. Tuy nhiên, tình tiết giảm nhẹ không tạo đủ động lực cho sự khai báo và phát hiện các hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Đồng thời, thực tiễn 14 năm thi hành Luật Cạnh tranh cho thấy, quy định về tình tiết giảm nhẹ không giúp khám phá ra nhiều vụ việc vi phạm do chưa tạo được động cơ và áp lực lớn để doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trình báo và cung cấp thông tin về thỏa thuận mà họ tham gia. Vì vậy, cần phải bổ sung các quy định về chính sách khoan hồng để tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật.
Xuất phát từ sự cần thiết nêu trên, Luật Cạnh tranh năm 2018đã bổ sung quy định về chính sách khoan hồng. Theo đó, doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm quy định tại Điều 12 của Luật này được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng. Việc bổ sung quy định này sẽ tạo cơ chế thúc đẩy doanh nghiệp vi phạm tự nguyện khai báo và cung cấp thông tin về hành vi vi phạm, phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trong điều tra, tăng khả năng phát hiện, điều tra và xử lý đối với các hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh.
– Về thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (Điều 114). Nhìn chung, điều này giữ nguyên nội dung cơ bản của Điều 121 Luật Cạnh tranh năm 2004. Tuy nhiên, do sự thay đổi về trình tự, thủ tục điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh nên Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định lại như sau: “1. Sau 15 ngày kể từ ngày quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực pháp luật mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì bên được thi hành, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định. 2. Trường hợp quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành thì Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định”.
– Về thi hành quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (Điều 115), đây là quy định mới so với Luật Cạnh tranh năm 2004. Theo đó, Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định: “1. Sau 15 ngày kể từ ngày quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực pháp luật mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành hoặc không khởi kiện ra Toà án theo quy định tại Điều 103 của Luật này thì bên được thi hành, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định. 2. Trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành thì bên được thi hành, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định”.
10. Điều khoản thi hành (Chương X)
– Về sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ quy định trong một số luật khác (Điều 116), để đảm bảo hiệu lực thi hành của các quy định và tính thống nhất của hệ thống pháp luật, điều này quy định về việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các quy định sau:
+ Sửa đổi, bổ sung Điều 1, điểm e khoản 2 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 56, Điều 26, Điều 27, điểm đ khoản 1 Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự.
+ Bãi bỏ khoản 6 Điều 19 của Luật Viễn thông số 41/2009/QH12.
+ Bãi bỏ điểm 4.1 tiểu mục 04, mục II, Phần A thuộc Phụ lục số 01 ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13.
– Về điều khoản chuyển tiếp (Điều 118), để đảm bảo hiệu lực thi hành của Luật, tránh xảy ra các khoảng trống pháp lý trong việc điều tra, xử lý các vụ việc cạnh tranh tại thời điểm Luật Cạnh tranh năm 2018 có hiệu lực, Điều này quy định: “Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 được tiếp tục xem xét, giải quyết như sau:
1. Hành vi vi phạm đang bị điều tra, xử lý mà được xác định không vi phạm quy định của Luật này thì được đình chỉ điều tra, xử lý;
2. Hành vi vi phạm đang bị điều tra, xử lý, giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà vẫn bị xác định vi phạm quy định của Luật này thì tiếp tục bị điều tra, xử lý, giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật này. Trường hợp hình thức xử lý hoặc mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm theo quy định của Luật này cao hơn quy định của Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 thì áp dụng quy định của Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11”.
CỤC PHÁP CHẾ VÀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH, TƯ PHÁP BỘ CÔNG AN Nguồn: congan.thuathienhue.gov.vn/ |