[VPLUDVN] – Yêu cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên là một yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của vụ án được quy định tại khoản 4 Điều 29 BLTTDS năm 2015. Trong phạm vi bài viết, tác giả trình bày và phân tích một số quy định tại khoản 4 nêu trên và một số bất cập trong thực tiễn.
1.Một số vấn đề chung về xác định cha mẹ con theo thủ tục tư pháp
1.1. Khái niệm cha, mẹ con dưới góc độ pháp lý
Dưới góc độ pháp lý khái niệm cha mẹ con luôn gắn liền với những sự kiện pháp lý nhất định. Quan hệ giữa cha mẹ và con về mặt pháp lý chỉ được phát sinh khi được sự chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tức là về mặt sinh học- xã hội có thể đạt tồn tại một quan hệ cha mẹ và con với tư cách là cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ.
Dưới góc độ pháp lý tư cách là cha mẹ đẻ con đẻ chỉ được chính thức thừa nhận thông qua những thủ tục pháp lý nhất định vì mối quan hệ này có xuất phát điểm là sự kiện sinh đẻ nhằm bảo đảm tính huyết hệ tự nhiên giữa hai thế hệ sinh ra kế tiếp nhau.
Cha đẻ, mẹ đẻ trong mối quan hệ với con là người trực tiếp sinh ra người con, có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Con đẻ trong mối quan hệ với cha mẹ là người được cha mẹ sinh ra có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Khái niệm con được xác định trong một số trường hợp đặc biệt:
-Con trong giá thú là con có cha mẹ đăng kí kết hôn hợp pháp
-Con ngoài giá thú là con có cha mẹ không đăng kí kết hôn hợp pháp
1.2. Xác định cha, mẹ con trong quan hệ pháp luật
Trong việc xác định cha mẹ con luôn nảy sinh các mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau: giữa chủ thể và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong đó các bên chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhằm được những lợi ích và mục đích nhất định. Trước tiên đây là những quan hệ xã hội tồn tại một cách tất yếu, khách quan. Những mối quan hệ này được các quy phạm pháp luật nội dung và các quy phạm luật Hình thức điều chỉnh. Trong quá trình xác định cha mẹ con các bên chủ thể cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào pháp luật nội dung tức là căn cứ vào các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình để xem xét có hay không có tư cách làm cha, mẹ, con.
Như vậy với tư cách là quan hệ pháp luật: xác định cha mẹ con là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tìm kiếm, nhận diện tư cách làm cha, mẹ, con về mặt huyết thống của các chủ thể được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.[1]
Từ đây chúng ta có thể hiểu xác định cha, mẹ con theo thủ tục tư pháp là việc giải quyết vụ án dân sự, vị việc dân sự của chủ thể có yêu cầu do cơ quan có thẩm quyền là Tòa án giải quyết.
2. Xác định cha mẹ con theo quy định pháp luật hiện hành
2.1. Cách xác định cha mẹ con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp
*Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân
Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình: Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.
Thời điểm bắt đầu thời kì hôn nhân: Theo thủ tục đăng kí kết hôn, hai bên cùng kí vào giấy chứng nhận đăng kí kết hôn. Đó chính là ngày mà thời điểm bắt đầu thời kì hôn nhân.
Thời điểm chấm dứt hôn nhân: Chấm dứt hôn nhân khi có một trong các sự kiện sau:
+ Chấm dứt hôn nhân do vợ chồng chết. Như vậy ngày một trong hai bên vợ chồng chết được xác định là ngày chấm dứt hôn nhân xác định theo ngày thực tế vợ hoặc chồng chết được ghi trong giấy chứng tử.
+ Chấm dứt hôn nhân khi có quyết định của tòa án tuyên bố vợ chồng chết.
+ Chấm dứt hôn nhân do ly hôn: ngày chấm dứt hôn nhân sẽ là ngày bản án xử cho ly hôn hoặc quyết định thuận tình ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật.
*Căn cứ vào sự kiện sinh đẻ:
Quá trình sinh đẻ con người mang tính chất sinh học xã hội; đó là năng lực đẻ con; sự kiện sinh đẻ luôn gắn liền với yếu tố xã hội mà trước hết là hôn nhân và gia đình. Do vậy pháp luật gắn sự kiện này trong việc xác định cha mẹ con. Theo nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha mẹ con theo Điều 88. Xác định cha, mẹ. “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng”. Có nghĩa là pháp luật chú trọng tới quá trình thai nghén và sinh con của người vợ; miễn rằng người vợ và chỉ có người vợ là người mang thai và sinh ra đứa trẻ đó.Pháp luật không thừa nhận việc mang thai hộ hay chửa đẻ thuê; người vợ phải là người thực hiện toàn bộ quá trình sinh đẻ.
*Căn cứ vào sự thừa nhận của cha mẹ và con
Đây là trường hợp đặc biệt chỉ áp dụng trong trường hợp người vợ sinh con trước ngày đăng ký kết hôn. Tức là người vợ đã thực hiện toàn bộ quá trình sinh đẻ trước khi kết hôn, trong trường hợp này sau khi sinh con hai bên nam nữ có đăng ký kết hôn thì đây chính là điều kiện tiên quyết để vợ chồng thừa nhận đứa trẻ và đứa trẻ được trở thành con chung của vợ chồng một cách hợp pháp.
2.2. Cách xác định cha mẹ con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp
*Căn cứ vào thời điểm thụ thai thời gian mang thai và thời điểm sinh con
Việc xác định thời điểm thụ thai và mang thai chỉ mang tính chất tương đối; thời gian mang thai có thể là khoảng 9 tháng 10 ngày; tối đa là 10 tháng tối thiểu có thể là 6 đến 7 tháng. Do đó để xác định được thời gian mang thai phải căn cứ vào thời điểm sinh con; thế trạng của đứa trẻ và người mẹ của đứa trẻ đó. Do đó để xác định được thời điểm thụ thai phải xác định vào thời điểm khi đứa trẻ được ra đời để tính ngược trở lại.
*Căn cứ vào khoảng thời gian hai bên nam nữ quan hệ tình dục
Sau khi xác định được thời điểm thụ thai, sẽ phải xác định trong khoảng thời gian có thể thụ thai thì hai bên nam nữ có quan hệ sinh lý với nhau hay không? Có thể trong khoảng thời gian có thể thụ thai họ chung sống như vợ chồng hoặctrường hợp hai bên nam nữ đã kết hôn trái pháp lập mà sau đó việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì có thể căn cứ vào thời kỳ chung sống như vợ chồng, kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận kết hôn đến thời điểm việc kết hôn trái pháp luật đó bị hủy bởi một quyết định có hiệu lực pháp luật.
*Căn cứ vào mối quan hệ giữa cha mẹ và con trên thực tế
Tức là sự phủ nhận quan hệ cha mẹ và còn bằng các hành vi của mình đối với trẻ như chăm sóc nuôi dưỡng. Ngoài ra có thể căn cứ vào tư cách, phẩm chất của người mẹ. Đây được coi là một căn cứ không chính thức nhưng điều này là rất quan trọng khi người mẹ đứa trẻ không có hôn nhân hợp pháp; những hành vi ứng xử và những mối quan hệ xung quanh của người phụ nữ được coi là yếu tố tích cực để xem xét thì xác định cha con.
2.3. Xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng phương pháp khoa học
*Căn cứ vào thời kì hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh
Thời kì hôn nhân không chỉ là căn cứ để xác định cha, mẹ, con được sinh ra bằng phương pháp khoa học mà còn là điều kiện bắt buộc để cặp vợ chồng vô sinh được phép áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản. Có thể thấy rằng thời kỳ hôn nhân là một căn cứ quan trọng nhất để xác định tư cách người cha người mẹ đối với đứa con được sinh ra theo phương pháp khoa học. Đặc biệt là khi trường hợp sinh con bằng phương pháp khoa học có sự tham gia của bên thứ ba là: Người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi.
*Căn cứ vào sự tự nguyện của cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân, của người cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi
Khác với sự thừa nhận con sinh ra bằng đường tự nhiên, việc con sinh ra theo phương pháp khoa học, các chủ thể phải thể hiện ý chí của mình ngay từ thời điểm bắt đầu tiến hành áp dụng hỗ trợ sinh sản. Điều này nhằm ràng buộc trách nhiệm và là một trong những căn cứ quan trọng xác định quan hệ cha mẹ và con trong tương lai; thể hiện sự tự nguyện tiến hành biện pháp hỗ trợ sinh sản bằng văn bản. Tức là phải có đơn đề nghị thực hiện hỗ trợ sinh sản và tất cả các quy định để thể hiện sự tự nguyện của những chủ thể có liên quan; đảm bảo sự tự nguyện sẽ là cơ sở để xác định trách nhiệm của từng chủ thể đối với quá trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; trách nhiệm đối với đứa con trong tương lai.[2]
*Căn cứ vào sự kiện sinh đẻ
Người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh sẽ là người thực hiện toàn bộ quá trình sinh đẻ từ khi thụ thai cho đến khi sinh con. Tuy nhiên, về nguyên tắc phải nằm trọn trong thời kì hôn nhân chứ không thể xảy ra trước ngày đăng kí kết hôn. Theo quy định của pháp luật hôn nhân thì cặp vợ chồng vô sinh sau thời gian bắt buộc sống chung liên tục với nhau không sử dụng các biện pháp tránh thai nào mà không thụ thai và sinh con thì mới áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản.
Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra. Việc xác định cha mẹ con dựa vào sự tự nguyện của ngừoi phụ nữ độc thân đối với việc sinh con bằng phương pháp khoa học và sự kiện sinh đẻ của người đó. Vì vậy trong trường hợp này chỉ có quan hệ mẹ con duy nhất.
Việc xác định cha mẹ con bằng phương pháp này không hoàn toàn dựa trên nguồn gốc sinh học của đứa trẻ. Ngoài việc dựa vào quan hệ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh, sự kiện sinh đẻ, cần phải kèm theo các điều kiện và những nguyên tắc nghiêm ngặt của quá trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được cặp vợ chồng; người phụ nữ độc thân đồng ý bằng văn bản trước khi tiến hành sinh con. Đứa trẻ đó có thể mang mã gen của cả cha lẫn mẹ có thể mang mã gen chỉ của cha hoặc mẹ thậm chí là không mang mã gen của cha và mẹ. Chính cặp vợ chồng vô sinh; người phụ nữ độc thân là người đã đem lại sự sống cho đứa trẻ và cũng chính họ là người mong muốn có đứa trẻ chứ không phải là người cho tinh trùng, cho trứng, cho phôi.
Do đó, pháp luật quy định không tồn tại bất kì quyền và nghĩa vụ pháp lý nào giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với đứa trẻ. Như vậy nguyên tắc giữ bí mật luôn có quan hệ mật thiết trong việc xác định cha mẹ con trong phương pháp này; việc bảo đảm nguyên tắc bí mật chính là bảo đảm cho việc ổn định các mối quan hệ cha mẹ và con.
3.Thực tiễn xác định cha mẹ con theo thủ tục tư pháp và một số kiến nghị
3.1. Những vướng mắc khi xác định cha mẹ con theo thủ tục tư pháp
a) Sự tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các cơ quan được giao xác định cha mẹ con
Xác định cha mẹ con trong hôn nhân và gia đình là việc xác nhận mối quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con: Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì phải căn cứ trên cơ sở tình trạng hôn nhân của người mẹ để xác định cha cho con. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Khi người vợ sinh con trong thời kỳ hôn nhân thì đứa trẻ được khai sinh tại Ủy ban nhân dân; người chồng của mẹ đứa trẻ được khai là cha của đứa trẻ. Như vậy việc xác định cha cho con trong trường hợp này được thực hiện tại cơ quan hành chính nhà nước đó là Ủy ban nhân dân.
Trường hợp người chồng của người mẹ đứa trẻ không thừa nhận đứa trẻ là con của họ thì có quyền yêu cầu Tòa án xác định. Đây thuộc trường hợp có tranh chấp và được giải quyết theo thủ tục tư pháp. Khi khởi kiện ra Tòa án người chồng phải đưa ra những chứng cứ để chứng minh rằng họ không phải là cha của đứa trẻ. Vấn đề khó khăn trong việc xác định thẩm quyền được đặt ra với trường hợp xác nhận cha mẹ cho con ngoài hôn nhân ; con ngoài giá thú thường do người phụ nữ không có chồng sinh ra hoặc tuy người phụ nữ đang có chồng nhưng người chồng đã chứng minh, chứng tỏ rằng người con đó không phải là con của họ.
Như vậy việc cha mẹ nhận con có thể thông qua thủ tục hành chính trong trường hợp không có tranh chấp và không thuộc trường hợp pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Căn cứ theo quy định pháp luật hiện hành việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh yêu cầu xác nhận cha mẹ con còn phụ thuộc vào tính chất vụ việc có tranh chấp hay không có tranh chấp và các quy định của pháp luật khác.
Trường hợp có tranh chấp: Thẩm quyền giải quyết của Tòa án được thực hiện theo khoản 4 Điều 28 BLTTDS 2015.
Trường hợp không có tranh chấp nhưng theo quy định pháp luật hôn nhân và gia đình do Tòa án giải quyết. Tại Điều 29 BLTTDS 2015 đã ghi nhận Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc xác định cha mẹ con mà pháp luật hôn nhân và gia đình đã quy định.
b) Thủ tục tố tụng để thụ lí giải quyết vụ án trong trường hợp cha mẹ con đã chết
Có những vụ án đương sự khởi kiện ra Tòa án yêu cầu xác định cha mẹ cho con mà người cha hoặc người mẹ được yêu cầu xác định là cha, mẹ của cháu bé đã chết hoặc trong trường hợp cả người cha người mẹ của cháu đều đã chết. Điều này không chỉ liên quan đến thủ tục tố tụng, từ việc thụ lý thông báo thụ lý, hòa giải đến việc đưa ra xét xử tại phiên tòa mà còn liên quan đến vấn đề xác định chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện.
Vấn đề bất cập đó chính là những người thân của người chết đó không đồng ý cung cấp mẫu để giám định ADN thì chưa có cơ chế nào hữu hiệu để xác định được quan hệ trong trường hợp này. Hoặc nếu có khai quật tử thi lên thì cũng sẽ gặp nhiều khó khăn.
c) Quy định về người có quyền yêu cầu Tòa án xác định quan hệ cha mẹ con
Bất cập này chỉ ra trong trường hợp cha mẹ đã chết mà người chết đó không có yêu cầu xác định cha, mẹ, con nhưng người thân thích của người đã chết lại muốn làm đơn đề nghị xác định đứa trẻ là cháu, là người thân của họ thì lại chưa có căn cứ pháp lý để họ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khi đó việc xác định tư cách chủ thể khởi kiện, theo Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định các nhóm chủ thể có quyền trực tiếp yêu cầu Tòa án giải quyết việc xác định cha mẹ con.
Ví dụ người tự nhận là ông bà nội của cháu bé không thể tự khởi kiện yêu cầu xác định cháu bé là con đẻ của con trai đã chết của mình do không thuộc trường hợp quy định của pháp luật liệt kê.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật
Thứ nhất, để đảm bảo sự việc được giải quyết đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục và thống nhất trong việc xác định thẩm quyền giải quyết cần bổ sung quy định tại Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình theo hướng bổ sung thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục việc dân sự đối với trường hợp không có tranh chấp để đương sự có lựa chọn cơ quan giải quyết phù hợp và thuận tiện. Đồng thời cũng có sự thống nhất và phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình với BLTTDS năm 2015.
Cụ thể Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được sửa đổi bổ sung như sau:
Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch; Tòa án nhân dân có thẩm quyền xác định cha, mẹ con theo quy định pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự trong trường hợp không có tranh chấp”.
Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợpcó tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Thứ hai: Để cơ quan có thẩm quyền xác định được đâu là sự việc có tranh chấp nào là sự việc không có tranh chấp cần sớm ban hành quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Thứ ba, Luật Hôn nhân và gia đình cần quy định rõ hơn các trường hợp xác định cha mẹ con theo thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp; pháp luật hiện hành chỉ quy định chung chung về quyền nhận cha, mẹ, con mà chưa phân định rõ thẩm quyền giải quyết.
[1] Nguyễn Thị Lan, Xác định cha, mẹ, con theo Luật HNGĐ Việt Nam – Cơ sở lí luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học
[2] Xem luận án tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, xác định cha mẹ con trang 139
Nguồn: Tapchitoaan.vn