1. Khái niệm về hôn nhân
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật HN & GĐ nói riêng, việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về hôn nhân có ý nghĩa quan trọng. Nó phản ánh quan điểm chung nhất của Nhà nước về hôn nhân; tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản chất pháp lý của hôn nhân; xác định nội dung, phạm vi điều chỉnh của các qui phạm pháp luật HN & GĐ.
Trong thực tiễn khoa học Luật HN & GĐ ở Việt Nam và nước ngoài, nhiều khái niệm hôn nhân đã được các nhà làm luật, các nhà nghiên cứu luật học đưa ra, chẳng hạn:
– ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (Common law), phổ biến một khái niệm cổ điển mang quan niệm truyền thống về hôn nhân của Cơ đốc giáo, do Lord Penzance đưa ra trong phán quyết về vụ án Hyde v Hyde (1866): “Hôn nhân là sự liên kết tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà, mà không vì mục đích nào khác”(1). Ngoài khái niệm trên, hiện nay, một số luật gia ở Châu âu và Mỹ quan niệm: “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng” (2), hoặc: “Hôn nhân là hành vi hoặc tình trạng chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng” (3).
– ở Việt Nam, các giáo trình Dân luật dưới chế độ Sài gòn cũ chưa đưa ra khái niệm cụ thể về hôn nhân mà phần nhiều mới đưa ra khái niệm “giá thú”: “giá thú (hay hôn thú) là sự phối hợp của một người đàn ông và một người đàn bà theo thể thức luật định”(4) hoặc “giá thú” cũng được hiểu: “sự trai gái lấy nhau trước mặt viên hộ lại và phát sinh ra những nghĩa vụ tương hỗ cho hai bên về phương diện đồng cư, trung thành và tương trợ”(5). Theo một số luật gia Sài gòn, khái niệm “giá thú” bao gồm có hai nghĩa: theo nghĩa thứ nhất gia sthú là hành vi phối hợp vợ chồng (kết hôn). Theo nghĩa thứ hai là tình trạng của hai người đã chính thức lấy nhau làm vợ chồng và thời gian hai người ăn ở với nhau (6). Điều 3 Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964, Điều 99 Bộ dân luật 1972 ngày 20/12/1972 của Chính quyền Sài gòn cũ qui định: “Không ai được phép tái hôn nếu giá thú trước chưa đoạn tiêu”. Như vậy, phải chăng các khái niệm “giá thú” được nêu trên đã bao hàm cả khái niệm về hôn nhân?
Trong pháp Luật HN & GĐ Việt Nam hiện hành, khái niệm hôn nhân đã được nhà làm luật và các nhà nghiên cứu luật học quan tâm hơn. Luật HN & GĐ năm 2000 qui định: “hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn” (Điểm 6 Điều 8). Còn theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà nội hôn nhân được hiểu là: “sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hoà thuận”(7).
Theo chúng tôi, các khái niệm hôn nhân nói trên mặc dù còn chứa đựng những quan điểm khác nhau, song chúng có hai điểm chung sau:
* Nhà làm luật khi đưa ra khái niệm hôn nhân đều xuất phát từ vị trí của hôn nhân là một thiết chế xã hội (social institution): “Việc một người đàn ông và một người đàn bà cam kết sống chung với nhau với những quyền và nghĩa vụ đối với nhau cũng như đối với con cái”(8).
* Hôn nhân qua các khái niệm này đều phản ánh năm đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, Tính tự nguyện trong hôn nhân.
Hôn nhân là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, do đó việc thể hiện ý chí ưng thuận giữa các bên trong hôn nhân là một trong các điều kiện căn bản để hôn nhân có hiệu lực. Hiện nay, pháp luật về hôn nhân và gia đình của các nước đều ghi nhận: Không có hôn nhân khi không có sự tự nguyện.
Tuy nhiên, tính tự nguyện trong hôn nhân được xem xét với nhiều quan điểm khác nhau. Đối với nhà làm luật ở một số nước phương Tây, tự nguyện ở đây thường gắn với tự nguyện trong hợp đồng. Ví dụ: áp dụng chế độ đại diện trong kết hôn, nếu các bên nam, nữ kết hôn ở độ tuổi theo luật định bắt buộc phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ (thường ở độ tuổi chưa thành niên), thì việc kết hôn chỉ hợp pháp khi có sự đồng ý của những người này (điều 105 Bộ dân luật 1972 của Nguỵ quyền Sài gòn; Điều 148, 149 BLDS Cộng hoà Pháp; Điều 2 Chương 2 phần II Luật hôn nhân Thụy điển năm 1987; Luật hôn nhân Australia năm 1961…). Tự nguyện trong pháp luật phương tây còn đồng nghĩa với tự do thoả thuận, thông qua việc thừa nhận chế độ tài sản ước định trong quan hệ vợ chồng, khi các bên không thoả thuận được pháp luật mới áp dụng chế độ tài sản pháp định.
Nhà làm luật các nước XHCN cũng coi yếu tố tự nguyện trong hôn nhân là một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình (Điều 2 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000; Điều 2 Luật hôn nhân CHND Trung hoa…). Tuy nhiên, họ lại xác định tự nguyện trong hôn nhân là tự nguyện xuất phát từ tình cảm giữa nam và nữ, vậy nên họ không thừa nhận chế độ đại diện trong kết hôn, mà việc kết hôn phải do chính các bên nam, nữ quyết định. Mặt khác, mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình, chứ không vì mục đích tạo lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ dân sự, đồng thời để tránh những trường hợp hôn nhân dựa trên sự tính toán kinh tế, pháp luật XHCN không thừa nhận chế độ tài sản theo thoả thuận giữa vợ và chồng, mà chỉ thừa nhận chế độ tài sản pháp định dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng (xem chế độ tài sản của vợ chồng được qui định từ điều 27 đến điều 33 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000, điều 13 Luật hôn nhân CHND Trung hoa…).
Thứ hai: Tính bền vững (tính chất suốt đời) của hôn nhân.
Có quan điểm cho rằng, đặc điểm này chỉ tồn tại trong hôn nhân XHCN. Trên thực tế không hoàn toàn như vậy, đặc điểm bền vững của hôn nhân cũng đã được nhà làm luật tư sản đề cập đến từ rất lâu. Lord Penzance khi đưa ra khái niệm hôn nhân (năm 1866) đã khẳng định “sự liên kết tự nguyện suốt đời” của các bên trong hôn nhân. Pháp luật về hôn nhân của nhiều nước tư sản cũng ghi nhận đặc điểm này (ví dụ: Theo Luật hôn nhân năm 1961 của Australia: để việc kết hôn có hiệu lực pháp lý, các bên kết hôn phải có mục đích chung sống suốt đời)(9).
Tính bền vững của hôn nhân được các nhà làm luật đưa ra xuất phát từ những căn nguyên khác nhau: có thể do yếu tố tôn giáo (Đạo cơ đốc coi hôn nhân là một thiết chế bất biến gắn liền với suốt cuộc đời con người – xem khái niệm của Lord Penzance), tính bất biến hôn nhân theo quan niệm tôn giáo có thể hiểu theo hai nghĩa: hôn nhân không thể chấm dứt bằng ly hôn, do đó cấm ly hôn (quan điểm này hiện nay rất ít nước áp dụng) và hôn nhân có tính bền vững nhưng vẫn có thể chấm dứt bằng ly hôn (đây là quan điểm phổ biến hiện nay)
Tính bền vững của hôn nhân cũng có thể xuất phát từ đạo đức truyền thống và văn hoá của người phương đông coi trọng tình nghĩa vợ chồng và yếu tố bền vững trong hôn nhân và gia đình vv… – xem khái niệm của các luật gia dưới chế độ Sài gòn cũ.
Tính bền vững của hôn nhân cũng được đặt ra xuất phát từ các vấn đề của nền kinh tế – xã hội tư bản (nền kinh tế thị trường, sự đề cao chế độ tư hữu và tự do cá nhân…) đã và đang đẩy hôn nhân trong xã hội tư sản rơi vào tình trạng khủng hoảng (hôn nhân bền vững được thay thế bằng “hôn nhân thử”, tình trạng ly hôn tràn lan…). Tình hình đó, đã yêu cầu các nhà làm luật (đặc biệt, ở các nước phương tây) phải quan tâm và đề cao hơn nữa tính bền vững của hôn nhân.
Quan niệm phổ biến nhất (đặc biệt ở các nước XHCN) là do hôn nhân được xây dựng trên yếu tố tình cảm giữa các chủ thể và hôn nhân có mục đích là xây dựng gia đình (gia đình thưòng bắt đầu từ hôn nhân, từ quan hệ vợ chồng về tình cảm mà phát sinh các quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa anh, chị, em…) đó là những điều kiện đảm bảo cho sự liên kết hạnh phúc, bền vững trong hôn nhân, hôn nhân có bền vững thì gia đình và xã hội mới ổn định và phát triển (Xem khái niệm trong Từ điển giải thích luật học trường Đại học Luật Hà nội).
Pháp luật HN & GĐ Việt Nam luôn coi trọng tính bền vững của hôn nhân, vì truyền thống gia đình Việt Nam và xuất phát từ vai trò hôn nhân là cơ sở: xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 1 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000).
Thứ ba: Tính chất một vợ một chồng
Trong xu thế tiến bộ xã hội (đặc biệt sự bình quyền giữa nam và nữ), sự khẳng định cá nhân con người ngày càng lớn, đạo đức mới của con người không những phủ nhận kiểu hôn nhân một chồng nhiều vợ, hoặc một vợ nhiều chồng như trước, mà đòi hỏi tình yêu nam, nữ phải biểu hiện trong mối quan hệ thuỷ chung một vợ, một chồng.
Vậy nên, hiện nay chế độ một vợ một chồng đã được ghi nhận trong hầu hết pháp luật HN & GĐ của các nước (trừ một số nước ở Châu Phi, Trung cận đông, Trung á do ảnh hưởng của yếu tố tôn giáo và phong tục, tập quán vẫn thừa nhận chế độ đa thê trong pháp luật). Pháp luật HN & GĐ Việt Nam coi một vợ, một chồng là một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình XHCN và là một trong các điều kiện để thừa nhận việc kết hôn hợp pháp (điều 2 và khoản 1 điều 9 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000);
Thứ tư, Hôn nhân chỉ tồn tại giữa những người khác nhau về giới tính.
Thực chất và ý nghĩa của hôn nhân là mục đích xây dựng gia đình, thể hiện trong việc sinh đẻ, nuôi dưỡng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu vật chất và tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, hôn nhân là sự liên kết giữa những người khác giới tính là một đặc điểm vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội. Để bảo đảm mục đích của hôn nhân được thực hiện; đồng thời, để bảo vệ yếu tố đạo đức truyền thống và tính tự nhiên trong hôn nhân, pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính (Việt Nam qui định tại khoản 5 Điều 10 Luật HN & GĐ năm 2000). Trong đó, một số nước coi hành vi kết hôn giữa những người cùng giới tính là tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay do xuất phát từ nhiều nguyên nhân, đặc biệt do quá coi trọng quyền tự do cá nhân, có nước đã thừa nhận hôn nhân của những người cùng giới (Luật hôn nhân sửa đổi của Hà lan có hiệu lực từ ngày 01.04.2001 đã cho phép những người cùng giới tính kết hôn với nhau…). Việc thừa nhận hôn nhân đồng giới ở những nước này đã gặp sự phản đối của dư luận rộng rãi trên thế giới.
Thứ năm: Tính chịu sự qui định của pháp luật
Với vị trí là một thiết chế xã hội, hôn nhân có vai trò là cơ sở xây dựng gia đình – tế bào của xã hội. Điều đó không chỉ có ý nghĩa riêng tư mà còn có ý nghĩa xã hội. Bởi vì, trên cơ sở phát sinh quan hệ vợ chồng, các quan hệ thân thuộc trong gia đình (quan hệ trực hệ và quan hệ giữa những người có họ hàng khác) và các quan hệ thích thuộc (quan hệ giữa một bên vợ hoặc chồng với những người trong họ nhà vợ hay trong họ nhà chồng) được thiết lập và làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ đạo đức, pháp lý giữa các chủ thể trong gia đình. Việc phát sinh tồn tại và chấm dứt hôn nhân đều có những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các quan hệ gia đình (trong nhiều trường hợp hôn nhân có ảnh hưởng mang tính chất quyết định). Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: “Nếu hôn nhân không phải là cơ sở của gia đình thì nó sẽ không phải là đối tượng của lập pháp“(10). Vì vậy, cũng như các thiết chế xã hội khác hôn nhân phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật HN & GĐ các nước đều có các qui định chặt chẽ về kết hôn , quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về chấm dứt hôn nhân. Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000 qui định vấn đề kết hôn bao gồm điều kiện kết hôn, ghi thức kết hôn, huỷ kết hôn trái pháp luật tại Chương II từ Điều 9 đến Điều 17; qui định các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng tại Chương III từ Điều 18 đến Điều 33 và chấm dứt hôn nhân tại Chương X – Ly hôn từ Điều 85 đến Điều 99.
Ngoài năm đặc điểm trên, có quan điểm cho rằng hôn nhân còn có đặc điểm bình đẳng. Theo quan điểm của chúng tôi, bình đẳng không phải là đặc điểm chung cho hôn nhân ở các nước có điều kiện kinh tế – xã hội khác nhau. “Bình đẳng” là đặc điểm phản ánh rõ nét nhất bản chất giai cấp, yếu tố tôn giáo, phong tục, tập quán trong qui định về hôn nhân ở mỗi quốc gia. Có nước không thừa nhận sự bình đẳng trong hôn nhân (các nước hồi giáo ở Trung đông, Châu Phi và Trung á). Pháp luật HN & GĐ các nước phương tây thừa nhận bình đẳng trong hôn nhân, nhưng đó chỉ là sự bình đẳng về hình thức. Có nhà nghiên cứu cho rằng: “Quan điểm sở hữu thực chất không hề thay đổi: Người này coi người kia thuộc sở hữu của mình và ngược lại. Và sự trùng hợp các ý nguyện của đôi bên thoạt nhìn có vẻ như xuất phát từ tình yêu, từ niềm say mê, nhưng trong thực tế có thể chỉ là phản xạ đối với truyền thống cũ, khi mà người vợ không được phép có ý thực riêng, có ý kiến khác với người chồng” (11).
Dưới chế độ XHCN, bình đẳng có thể được coi là đặc điểm của hôn nhân XHCN. Bởi vì, nhà làm luật XHCN xác định vợ chồng bình đẳng là một trong các tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội và là một nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình XHCN (Điều 2, Điều 19 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000; Điều 2, Điều 9 Luật hôn nhân CHND Trung Hoa.. ), nội dung bình đẳng do pháp luật qui định trên cả quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng. Điều quan trọng hơn, các nước XHCN có điều kiện chính trị – kinh tế – văn hoá – xã hội và cơ chế pháp luật để bình đẳng trong hôn nhân được thực hiện trên thực tế.
Tóm lại, Trong giai đoạn phát triển của xã hội hiện nay, khái niệm hôn nhân mà nhà làm luật các nước đưa ra đã có sự tiếp cận nhau hơn. Tuy nhiên, hôn nhân là một hiện tượng xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc bản chất giai cấp, tôn giáo, phong tục, tập quán, nên nội dung các đặc điểm của hôn nhân ở các nước có điều kiện chính trị – kinh tế – xã hội khác nhau là khác nhau. Căn cứ vào các qui định về hôn nhân trong Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000, chúng ta có thể hiểu hôn nhân theo pháp luật HN & GĐ Việt Nam như sau: sự liên kết tự nguyện, bình đẳng, theo qui định pháp luật giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nhằm chung sống suốt đời với tư cách là vợ chồng, vì mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
2. Bản chất pháp lý của hôn nhân
Bản chất pháp lý của hôn nhân là một hợp đồng hay là một thiết chế pháp luật hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
ở các nước theo theo hệ thống pháp luật common law (đặc biệt ở Mỹ) tồn tại quan niệm phổ biến: hôn nhân là một loại hợp đồng dân sự bởi vì hôn nhân chính là sự thoả thuận giữa người đàn ông và một người đàn bà để thiết lập một quan hệ pháp lý và làm phát sinh và thực hiện các quyền, nghĩa vụ đối với nhau(12).
Bên cạnh quan điểm trên, nhiều luật gia phương tây (phổ biến ở các nước theo hệ thống pháp luật thành văn) xuất phát từ khái niệm hôn nhân bao hàm hai nghĩa: hành vi pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng (kết hôn) và tình trạng pháp lý của vợ chồng sau khi kết hôn, đứng trên quan điểm chiết chung cho rằng: bản chất của hôn nhân vừa là một hợp đồng vừa là một thiết chế pháp luật (có tài liệu dùng là định chế pháp luật)(13). Theo quan điểm này: hôn nhân là một hợp đồng nếu xem xét trên khía cạnh thứ nhất của khái niệm hôn nhân – hành vi làm phát sinh quan hệ hôn nhân phải dựa trên nguyên tắc tự do thoả thuận giữa hai bên nam và nữ. Hôn nhân là một thiết chế pháp luật nếu xem xét ở khía cạnh thứ hai của khái niệm hôn nhân – Tình trạng pháp lý sau khi kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, cũng như việc chấm dứt hôn nhân phải chịu sự qui định chặt chẽ của pháp luật.
ở các nước XHCN và Việt Nam quan niệm chính thống về mặt học lý cho rằng: Hôn nhân không phải là một hợp đồng mà là một sự liên kết đặc biệt giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Sự liên kết này không phụ thuộc vào tính toán vật chất, mà được dựa trên cơ sở tình yêu thương, quí trọng, bình đẳng và tự nguyện giữa vợ và chồng. Ngoài ra, mục đích của hôn nhân là xây dựng mối quan hệ bền vững, đảm bảo thoả mãn nhu cầu tinh thần và vật chất chất của đôi bên, sinh đẻ và giáo dục con cái.(14)
Theo chúng tôi, để xác định hôn nhân là một thiết chế pháp luật hay là một hợp đồng dân sự, cần xem xét trên các khía cạnh sau:
* Thứ nhất, có sự khác nhau giữa mục đích giao kết hợp đồng và mục đích kết hôn.
Theo pháp luật về hợp đồng, sự thoả thuận là yếu tố bắt buộc phải có trong hợp đồng, tuy nhiên đó mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để hợp đồng có hiệu lực. Để hợp đồng có hiệu lực, sự thoả thuận của các bên phải làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Trong hôn nhân có sự thoả thuận, nhưng thoả thuận đó không phải là thoả thuận trong hợp đồng. Vì mục đích của các bên kết hôn không phải để tạo lập, thay đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ dân sự nào, mà chỉ mong muốn lập một gia đình.
Chính vì có mục đích khác nhau, nên trong hợp đồng ngoài việc tuân thủ các điều kiện do luật định, các bên còn phải tuân thủ các điều kiện do họ đã thoả thuận ấn định. Còn trong hôn nhân, các bên kết hôn phải tuân thủ chặt chẽ các điều kiện do pháp luật ấn định, còn các điều kiện do các bên thoả thuận ra không có giá trị về mặt pháp lý.
Mặt khác, thường pháp luật về hợp đồng không qui định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, mà do các bên tự thoả thuận và ấn định; trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên cũng có thể thoả thuận thay đổi quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Còn trong hôn nhân, pháp luật lại qui định rất cụ thể các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về nhân thân và tài sản. Vợ chồng phải tuân thủ sự ấn định của pháp luật, không thể bằng những thoả thuận của mình làm thay đổi các quyền nghĩa vụ pháp lý đó (xem Chương III – Quan hệ giữa vợ và chồng của Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000; Chương V – Các nghĩa vụ phát sinh từ hôn nhân, Chương VI – quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau của BLDS Cộng hoà Pháp…)
* Thứ hai, pháp luật qui định về năng lực kết hôn khác với qui định về năng lực giao kết hợp đồng.
Năng lực giao kết hợp đồng chủ yếu được xác định trên hai điều kiện: độ tuổi (tuỳ theo từng loại hợp đồng mà pháp luật qui định các độ tuổi khác nhau) và khả năng nhận thức của chủ thể. Còn năng lực kết hôn ngoài điều kiện độ tuổi và năng lực nhận thức, còn được xác định trên các điều kiện khác không có trong pháp luật về hợp đồng:
– Các bên kết hôn phải khác nhau về giới tính. Khoản 5 điều 10 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000 qui định: cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính. Pháp luật nhiều nước cũng có qui định tương tự (BLDS của Cộng hoà Pháp, Luật hôn nhân năm 1961 của Australia, Luật hôn nhân CHND Trung Hoa…).
– Các bên kết hôn không đồng thời tồn tại nhiều quan hệ hôn nhân – điều kiện một vợ một chồng. Điều 10 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000, Điều 147 BLDS Cộng hoà Pháp, Điều 4 Chương 2 Luật hôn nhân Thuỵ điển năm 1987, Luật hôn nhân của Australia năm 1961…. qui định: Cấm việc kết hôn của người đang có vợ hoặc có chồng;
– Các bên kết hôn không có quan hệ họ hàng thân thuộc trong phạm vi luật định. Đây là điều kiện được qui định ở tất cả các nước, tuy nhiên, phụ thuộc vào yếu tố truyền thống đạo đức, phong tục, tập quán mà phạm vi quan hệ họ hàng thân thuộc thích thuộc được pháp luật các nước qui định khác nhau. Khoản 3 và 4 Điều 10 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000 qui định: Cấm việc kết hôn giữa những cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
* Thứ ba, việc kết hôn được thực hiện theo những ghi thức đặc biệt không có trong pháp luật về hợp đồng.
Pháp luật của tất cả các nước đều qui định để hôn nhân có giá trị pháp lý, việc kết hôn phải được tiến hành theo các ghi thức qui định trong pháp luật. Hiện nay, có hai ghi thức kết hôn phổ biến: ghi thức tôn giáo (thực hiện tại nhà thờ) và ghi thức dân sự (thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Có nước chỉ thừa nhận ghi thức dân sự (Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000; Điều 165, 166, 170, 171 BLDS Cộng hoà Pháp, điều 7 Luật hôn nhân nước CHND Trung Hoa …). Có nước lại thừa nhận cả ghi thức tôn giáo và ghi thức dân sự (Luật hôn nhân năm 1961 của Australia, Luật hôn nhân năm 1987 của Thụy Điển, Luật hôn nhân của Italia…). Có nước chỉ thừa nhận ghi thức tôn giáo (Luật hôn nhân của Tây Ban Nha…).
Chính vì việc kết hôn phải được tiến hành theo những ghi thức đặc biệt trên, nên trong quá trình thực hiện thủ tục kết hôn, cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền về đăng ký kết hôn có thể phát hiện và từ chối việc kết hôn nếu một hoặc hai bên xin đăng ký kết hôn vì phạm các điều kiện kết hôn theo luật định. Tức là có khả năng ngăn chặn việc kết hôn trái pháp luật ngay từ khi nó chưa xảy ra. Điều này thường không có trong hợp đồng, trên thực tế khi phát hiện có dấu hiệu trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp đồng đã được ký kết, khi đó mới đặt ra việc huỷ bỏ hợp đồng.
* Thứ tư, pháp luật qui định về huỷ kết hôn trái pháp luật khác với các qui định về huỷ hợp đồng.
Căn cứ để hủy kết hôn trái pháp luật và căn cứ hủy hợp đồng là khác nhau. Một hợp đồng bị huỷ khi có một trong hai căn cứ: Các bên vi phạm các điều kiện do luật định hoặc các bên vi phạm điều kiện do thoả thuận. Còn việc kết hôn sẽ bị hủy khi vi phạm một trong các điều kiện kết hôn theo luật định.
Khi phát hiện một hợp đồng có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc đạo đức xã hội, thì hợp đồng luôn bị huỷ bỏ và các bên trở lại tình trạng ban đầu trước khi giao kết hợp đồng. Còn trong hôn nhân, nếu việc kết hôn là trái pháp luật, thì việc huỷ bỏ việc kết hôn đó còn phải được xem xét trên rất nhiều góc độ, đặc biệt có tính toán đến lợi ích của gia đình, mà có thể không huỷ bỏ việc kết hôn. Mặt khác, nếu việc kết hôn bị huỷ, trong nhiều trường hợp các bên không thể trở lại tình trạng ban đầu như trước khi kết hôn, bởi họ còn có nghĩa vụ và quyền liên quan đến nhau (Ví dụ: quyền và nghĩa vụ đối với con chung vẫn còn sau khi việc kết hôn bị huỷ).
Về thủ tục, việc huỷ bỏ hợp đồng dân sự có thể theo tboả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc huỷ kết hôn trái pháp luật không theo thoả thuận giữa các bên hoặc không do một bên đơn phương đình chỉ thực hiện hoặc huỷ bỏ việc kết hôn như trong hợp đồng, mà việc đó phải diễn ra theo thủ tục tố tụng tại Toà án. Người khởi kiện không chỉ một trong hai bên kết hôn (thường một trong hai bên kết hôn chỉ có quyền khởi kiện yêu cầu huỷ khi họ bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép – Điều 15 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000, Điều 180 BLDS Cộng hoà Pháp…) mà còn có thể do các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thực hiện (Điều 15 Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000, Điều 182, 184, 191 BLDS Cộng hoà pháp….). Một việc kết hôn chỉ bị coi là trái pháp luật và bị huỷ bỏ khi có bản án hoặc quyết định của Toà án tuyên bố về việc đó.
* Thứ năm, các quy định về chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn khác với qui định về chấm dứt hợp đồng
Một hợp đồng có thể chấm dứt do các bên trong hợp đồng thoả thuận hoặc do ý chí đơn phương của một bên, mà không cần có phán quyết của Toà án. Trong khi đó, một quan hệ hôn nhân chỉ chấm dứt khi có bản án, quyết định của Toà án xử cho ly hôn hoặc công nhận thuận tình ly hôn (pháp luật của những nước thừa nhận hôn nhân là một hợp đồng cũng ghi nhận qui định này). Sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng là điều kiện tiên quyết để chấm dứt hợp đồng, còn trong hôn nhân, sự đồng thuận chấm dứt hôn nhân của vợ chồng (sự thuận tình ly hôn) chỉ là một trong các sự kiện làm phát sinh việc kiện về ly hôn, chứ không phải là căn cứ làm chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn. Pháp luật đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng, nhưng sự thoả thuận của hai vợ chồng vẫn có thể bị Toà án bác yêu cầu, nếu sự thuận tình ly hôn không xuất phát từ lợi ích chung của gia đình.
Với những điểm khác biệt cơ bản nói trên, theo chúng tôi, không thể đồng nhất hôn nhân với hợp đồng dân sự, mà nên xác định nó là một thiết chế pháp luật thì phù hợp với thực tiễn và lý luận hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong số các quan điểm về vấn đề này, rất mong có sự trao đổi ý kiến của đồng nghiệp và các bạn.
[j1] [j2] ——————
(1) Xem P. M . Promley. Family law. 5th edition. London Butterworth. 1976. Tr 15.
(2) Xem: Leonard & Elias. Berkely. Family law Dictionary. Cali. Nolo 1990.
(3) Xem: Dictionary of law – Third edition. Petter collin publishing. 2000.
(4) Xem: Nguyễn Quang Quýnh. Dân luật. Quyển 1 Bộ văn hoá giáo dục. Viện đại học Cần thơ xuất bản.1968. Tr239.
(5) Xem: Vũ Văn Mẫu và Lê Đình Chân. Danh từ và tài liệu Dân luật và Hiến luật. Tủ sách Đại học Sài gòn.1968. Tr 100.
(6) Xem Sdd 4. Tr 239
(7) Xem: Từ điển giải thích thuật ngữ luật học. Trường đại học Luật Hà nội. NXB Công an nhân dân. 1999. Tr 148 .
(8) Xem: Nguyễn Khắc Viện. Từ điển xã hội học. NXB Thế giới. 1994. Tr 137
(9) Xem: Kaye Healey. Marriage, The Spinney Press Australia 1996. Tr 4.
(10) Xem: C.Mác, Ph. Ăngghen – Tuyên ngôn Đảng cộng sản. NXB Sự thật, H. 1976, tr.47
(11) Xem: Szilagy Vilmos. Hôn nhân trong tương lai. NXB Phụ nữ. 1995. Tr 31 – 32
(12) Xem: American Bar association. You and Law.Publication international,Ltd.1990 và Sđd 1
(13) Xem: Sđd 1 và Nguyễn quang Quýnh. Dân luật. Quyển I. Viện Đại học Cần thơ. 1967. Tr 239 – 241
(14) Xem: Giáo trình Luật HN & GĐ . Trường Đại học Luật Hà nội. 2002. Tr 14 – 16.
Nguồn: Tạp chí luật học số 3/2002