[VPLUDVN] Quyết định hình phạt là xác định loại và mức hình phạt cụ thể (kể cả hình phạt bổ sung nếu có) trong phạm vi luật cho phép để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể.
1. Quy định luật hình sự trước đây về quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là một hoạt động trong quá trình áp dụng luật hình sự, dựa trên kết quả của hoạt động định tội danh trước đó. Quyết định hình phạt đúng có ý nghĩa đặc biệt đối với hiệu quả của hình phạt. Để có cơ sở pháp lí và định hướng cho việc quyết định hình phạt, luật hình sự có hệ thống các quy định liên quan đến vấn đề này, tạo thành chế định quyết định hình phạt, trong luật hình sự. Chế định này được quy định tương đối hoàn chỉnh trong luật hình sự Việt Nam kể từ khi có Bộ luật hình sự năm 1985. Chế định này tiếp tục được hoàn thiện trong các lần sửa đổi, bổ sung và trong Bộ luật hình sự năm 1999. Để có thể quyết định được hình phạt, toà án phải dựa vào các căn cứ sau:
1) Các quy định của Bộ luật hình sự;
2) Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội;
3) Nhân thân người phạm tội;
4) Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các căn cứ trên đây vừa có tính độc lập tương đối vừa có quan hệ chặt chẽ với nhau. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, Toà án xác định khung hình phạt được phép áp dụng (trong trường hợp không được miễn trách nhiệm hình sự và không được miễn hình phạt). Các quy định của Bộ luật hình sự là căn cứ quyết định bao gồm các quy định có liên quan đến hình phạt và quyết định hình phạt của các điều luật trong Phần chung cũng như Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Dựa vào các căn cứ tiếp theo, Toà án có thể xác định được mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, khả năng giáo dục, cải tạo cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội. Từ đó, Toà án xác định được hình phạt cụ thể trong khung hình phạt đã xác định.
Để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, Toà án phải dựa vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có:
1) Tính chất của hành vi phạm tội (thủ đoạn, công cụ, phương tiện, cách thức sử dụng công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện, phạm tội có tổ chức hay chỉ là đồng phạm thông thường hay là phạm tội riêng lẻ…);
2) Mức độ thực hiện tội phạm – chuẩn bị, chưa đạt hay đã hoàn thành;
3) Tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra;
4) Mức độ lỗi (tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội…);
5) Hoàn cảnh phạm tội;
6) Những tình tiết về nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội…
Xem xét nhân thân người phạm tội khi quyết định hình phạt chỉ đòi hỏi xem xét những đặc điểm nhất định liên quan đến mục đích của hình phạt. Cụ thể, ngoài những đặc điểm về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cần phải xem xét những đặc điểm sau:
1) Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của họ;
2) Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ do vậy đòi hỏi Toà án phải xem xét đến khi quyết định hình phạt, để đảm bảo hình phạt đã tuyên có tính thực tế, phù hợp với các nguyên tắc của Luật hình sự cũng như đáp ứng được mục đích trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội…
Theo luật hình sự Việt Nam, những tình tiết về nhân thân có ý nghĩa khi quyết định hình phạt là: phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự, tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không có tính chuyên nghiệp; là người chưa thành niên hay đã thành niên phạm tội; có thái độ tự thú hoặc hối cải lập công chuộc tội hay là có thái độ ngoan cố…, là người thuộc đối tượng của các chính sách lớn của Nhà nước (chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo…), là người có hoàn cảnh đặc biệt (bị bệnh hiểm nghèo, già yếu, phụ nữ có thai hay nuôi con nhỏ, là người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn…).
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là căn cứ quyết định hình phạt được quy định cụ thể tại Điều 46 và Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999 là nhằm mục đích hướng dẫn cho Toà án khi xem xét mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cũng như khi xem xét nhân thân của người phạm tội. Đó là những tình tiết điển hình phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội tủa hành vi phạm tội cũng như nhân thân người phạm tội.
Nội dung của quyết định hình phạt trên đây là quyết định hình phạt cho trường hợp phạm tội bình thường. Bên cạnh đó còn có những trường hợp phạm tội không bình thường khác. Đối với những trường hợp này, việc quyết định hình phạt cũng có những nội dung đặc biệt khác. Quyết định hình phạt trong những trường hợp không bình thường đó bao gồm:
1) Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Trong trường hợp này, việc quyết định hình phạt còn phải dựa vào mức độ thực hiện tội phạm và nguyên nhân làm cho tội phạm không hoàn thành;
2) Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Trong trường hợp này, việc quyết định hình phạt còn phải dựa vào tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm;
3) Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Trong trường hợp này, phải quyết hình phạt riêng cho từng tội và tổng hợp các hình phạt này thành hình phạt chung theo nguyên tắc sau: nếu các hình phạt là tù có thời hạn thì hình phạt chung là hình phạt tù có mức độ bằng tổng các mức độ của các hình phạt đó nhưng không được quá 30 năm; nếu các hình phạt chính là phạt tiền thì hình phạt chung là tổng các khoản phạt tiền đó; nếu các hình phạt chính khác loại nhau và trong đó có hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình thì hình phạt chung là chung thân hoặc tử hình. Hình phạt tiền không được phép tổng hợp với hình phạt khác mà tồn tại song song; nếu các hình phạt bổ sung là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn luật định trừ hình phạt tiền được quyết định như trường hợp là hình phạt chính cũng như trừ hình phạt không có mức độ tối thiểu, tối đa thì không có việc tổng hợp hình phạt.
4) Nếu các hình phạt bổ sung là khác loại thì các hình phạt đó đều song song tổn tại.
2. Khái niệm quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là khái niệm có thể được nghiên cứu từ hai góc độ khác nhau từ góc độ luật hình sự và từ góc độ luật tố tụng hình sự. Luật hình sự đề cập tất cả các vấn đề liên quan đến nội dung của quyết định hình phạt còn luật tố tụng hình sự đề cập quyết định hình phạt là hoạt động của toà án ttong giai đoạn xét xử. Trong luật hình sự Việt Nam, khái niệm quyết định hình phạt được coi là khái niệm cơ bản và quan trọng sau các khái niệm tội phạm và hình phạt vì đây là những khái niệm thể hiện tập trung nhất chính sách hình sự của Nhà nước.
Từ góc độ luật hình sự có thể định nghĩa quyết định hình phạt như sau:
Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
Quyết định hình phạt chỉ đặt ra đối với các trường hợp chủ thể chịu trách nhiệm hình sự không được miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt, tức là đối với các trường hợp cần thiết phải áp dụng hình phạt nhằm trừng trị và giáo dục chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
Đa số các điều luật về tội phạm cụ thể quy định chế tài gồm nhiều loại hình phạt chính khác nhau. Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự là sự lựa chọn một trong số các hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt có các mức khác nhau trong khung hình phạt được quy định. Nếu chế tài được quy định chỉ có một loại hình phạt chính và có các mức khác nhau thì quyết định hình phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt được quy định.
Quyết định hình phạt bổ sung có nội dung tương tự như quyết định hình phạt chính. Đó là việc lựa chọn loại hình phạt bổ sung, có thể là một hoặc nhiều loại nếu luật quy định có thể áp dụng nhiều loại hình phạt bổ sung và xác định mức hình phạt trong khung quy định để áp dụng kèm theo hình phạt chính.
Như vậy, quyết định hình phạt bao gồm quyết định hình phạt chính và quyết định hình phạt bổ sung. Quyết định hình phạt theo nghĩa này được coi là theo nghĩa hẹp và cũng là nghĩa thông thường.
Quyết định hÌỊih phạt còn có thể được hiểu theo các nghĩa rộng khác nhau. Theo đó, quyết định hình phạt còn có thể bao gồm thêm quyết định biện pháp tư pháp với mục đích thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt (như quyết định trả lại tài sản, buộc công khai xin lỗi hoặc bắt buộc chữa bệnh…). Quyết định hình phạt cũng có thể được hiểu là quyết định biện pháp xử lí đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Theo nghĩa này, quyết định hình phạt Jà hoạt động tiếp theo hoạt động định tội của toà án, bao gồm quyết định miễn hình phạt và quyết định hình phạt theo nghĩa rộng ttên. Theo đó, điều luật quy định về miễn hình phạt cũng được xếp ữong chương “Quyết định hình phạt” (Điều 59 Chương vni BLHS).
Khái niệm quyết định hình phạt có thể được hiểu theo nhiều nghĩa nhưng nội đung cơ bản vẫn là quyết định hình phạt chính.
Quyết định hình phạt liên quan chặt chẽ với việc xác định tội phạm hay còn được gọi là định tội danh. Việc xác định tội phạm đúng tạo tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng. Dựa trên cơ sở định tội đúng có thể xác định được đúng loại và mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự nhằm đạt được mục đích của hình phạt.
Như vậy, có thể nói quyết định hình phạt có ý nghĩa hai mặt. Một mặt, cùng với định tội, quyết định hình phạt là sự thể hiện cao nhất, tập trung nhất việc áp dụng pháp luật hình sự vào đẩu tranh chống tội phạm. Mặt khác, quyết định hình phạt tạo cơ sở quan ttọng để đạt được mục đích của hình phạt.
Ghi chú: Bài viết được được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.