Phần 1: Những vấn đề chung về luật so sánh
- Nếu theo đúng bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ “ so sánh luật” chứ không phải “luật so sánh”.
- Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học là “Luật học so sánh”
- Thuật ngữ “Luật so sánh” tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành luật, vì thế thuật ngữ này không được sử dụng một cách rộng rãi để đặt tên cho khóa học.
Sai: Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ Luật so sánh rất có thể sẽ gây hiểu lầm như khi ta thay “lịch sử pháp luật”bằng “luật lịch sử” hoặc thay “xã hội học pháp luật” bằng “luật xã hội” chẳng hạn. Hơn nữa thuật ngữ Luật so sánh còn tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành luật vì nó đem đến sự hoài nghi về sự tồn tại của một ngành luật mới – ngành luật so sánh – bên cạnh sự tồn tại của các ngành luật khác như luật hình sự, luật dân sự,… Tuy nhiên thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học. Xưa nay trên thế giới môn học này vẫn được đặt tên là “luật so sánh” (tiếng Anh: Comparative Law; tiếng Pháp: Droit Comparé; tiếng Đức: Rechtsvergleichung). Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho học phần này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại Việt Nam là ĐH Luật Hà Nội và ĐH Luật Thẩm phán.HCM đều là “Luật so sánh”.
- Định nghĩa về Luật so sánh của Micheal Bogdan được nhiều học giả ủng hộ vì định nghĩa này đã thể hiện được bản chất của Luật so sánh
- Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau được giải thích bởi sự khác biệt về vị trí, tính ứng dụng của lĩnh vực này tại các quốc gia.
- Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cũng là mục đích của luật so sánh.
- Luật so sánh không phải là 1 ngành luật trong hệ thống pháp luật
- Luật so sánh là một ngành khoa học độc lập
Đúng. đây là bản chất của luật so sánh, dựa trên các lập luận sau:
Thứ nhất, việc thường xuyên so sánh các hệ thống PL với nhau đã tạo ra một hệ thống tri thức độc lập với hệ thống tri thức của các ngành khoa học độc lập khác. Thứ hai, tương tự với các ngành khoa học khác, nhất là khoa học xã hội, khi thực hiện so sánh có thể phát sinh ra ngành khoa học độc lập, ví dụ: bên cạnh ngành triết học có ngành triết học so sánh, bên cạnh ngành xã hội học có ngành xã hội học so sánh, ngôn ngữ học có ngôn ngữ học so sánh. Thứ ba, các học giả đã chứng minh được “luật so sánh” và “phương pháp so sánh luật” là hoàn toàn khác nhau ==> không thể coi luật so sánh là 1 phương pháp nghiên cứu mà phải coi đó là 1 ngành khoa học độc lập
- Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh mang tính ổn định và có phạm vi ranh giới rõ ràng.
- Các nghiên cứu về luật nước ngoài là luật so sánh?
- Căn cứ vào định nghĩa Luật so sánh của Micheal Bogdan thì phạm vi nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng
- Do không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu nên luật so sánh không có phương pháp nghiên cứu riêng biệt.
- Luật so sánh được hiểu đơn giản là phương pháp so sánh các hệ thống pháp luật.
- Nghiên cứu pháp luật và so sánh pháp luật là hai loại hình họat động nghiên cứu khoa học không tách rời nhau và cùng có chung mục đích, phương pháp tiến hành.
- Tính tương đồng và (hoặc) khác biệt được giải thích trong khuôn khổ nội dung pháp luật thực định.
- Luật so sánh chỉ được tiếp nhận tại các nước XHCN và các nước trước đây thuộc khối XHCN vào những năm 90 của thế kỷ XX vì còn có rất nhiều tranh luận về tên gọi và bản chất của lĩnh vực này.
- Có thể sử dụng phương pháp so sánh cho bất kỳ đối tượng nào cần so sánh mà không nhất thiết phải tương đồng với nhau
- Phương pháp so sánh chức năng là p.p nghiên cứu độc lập của Luật so sánh.
- Phương pháp so sánh chức năng là phương pháp hiệu quả nhất.
- Phương pháp đặc thù chỉ có ở Luật so sánh.
- Khi xây dựng giả thuyết nghiên cứu cho 1 công trình so sánh luật bất kỳ, người nghiên cứu không nên sử dụng các thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp lý.
- Khi thực hiện các công trình so sánh luật, người nghiên cứu cần phải sử dụng văn bản pháp luật mới nhất của nước ngoài
- Ở giai đoạn cuối của quá trình so sánh cần đánh giá xem giải pháp nào phù hợp hơn và giải thích tại sao lại phù hợp hơn?
- Luật so sánh được xếp vào những ngành khoa học nghiên cứu các vấn đề chung nhất do chúng có cùng mục đích nghiên cứu.
- Luật so sánh được xếp cùng nhóm với các ngành khoa học pháp lý mang tính lý luận chung vì chúng có cùng phương pháp nghiên cứu.
- Hệ thống chính trị quốc gia là nhân tố duy nhất quyết định sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật?
- Yếu tố dân số là một cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật
- Do có cùng nguồn gốc pháp luật là Luật La Mã nên hệ thống pháp luật XHCN và hệ thống pháp luật Pháp-Đức có sự tương đồng về cấu trúc phân chia pháp luật thành luật công và luật tư.
- Cách phân nhóm các hệ thống PL của Rene David được nhiều học giả phương Tây đón nhận vì Rene David đã sử dụng 2 tiêu chí chính xác nhất để phân nhóm
- Theo tiêu chí của Rene David, hệ thống pháp luật được chia làm 4 nhóm
- Hệ thống PL là tổng thể các quy phạm PL của 1 quốc gia, vùng lãnh thổ là cách hiểu chính xác nhất về thuật ngữ này
- Rene David đã sáng tạo ra thuật ngữ “dòng họ PL” khi viết cuốn “Những hệ thống PL chính trong thế giới đương đại” vào thập niên 60 của thế kỷ 20.
- Số hệ thống pháp luật bằng số quốc gia?
- Kỹ thuật lập pháp là một tiêu chí phân nhóm hệ thống pháp luật theo quan điểm của Zweigert và Kotz
- Bản chất pháp luật được quyết định bởi yếu tố lịch sử.
PHẦN HAI
Chương II: Dòng họ Civil Law
- Ở Châu âu lục địa đã từng có hệ thống pháp luật chung thống nhất.
- Dòng họ Civillaw còn có tên là dòng họ pháp luật châu âu lục địa.
- Cả 4 phần của bộ tổng luật của hoàng đế Justinian ( Corpus Juris Civilis ) đều mang ý nghĩa ràng buộc đối với người La Mã
- Các nghiên cứu thược trường phái các nhà pháp điển hiện đại (Pandectist) chỉ có ý nghĩa nhiều với hệ thống pháp luật Đức
- Ở Châu âu lục điạ trước thế kỷ 18 đã từng có cuộc pháp điển hóa lớn được ghi nhận?
- Con đường mở rộng của dòng họ pháp luật Civil law là thông qua quá trình mở rộng thuộc địa và tự nguyện học hỏi của các quốc gia khác.
- Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa chỉ sử dụng một nguồn luật duy nhất là pháp luật thành văn.
- Mặc dù đều nằm trong Bộ tổng luật của Hoàng đế Justinian nhưng chỉ có những phần chứa đựng các văn bản quy phạm Pháp luật mới có ý nghĩa ràng buộc đối với người dân La Mã
- Từ thế kỷ 16, mô hình nhà nước của các quốc gia châu Âu lục địa đã dần ổn định, vì vậy các quốc gia này đã bắt đầu quan tâm phát triển các chế định thuộc lĩnh vực công pháp.
- Ins Tintutiones là sách giáo khoa luật La Mã
- Trường phái các nhà pháp điển hiện đại nghiên cứu luật la mã xuất hiện ở Đức thế kỷ 16
- Pháp luật chung cho toàn bộ Châu Âu đều được các nước ở Châu Âu tiếp thu một cách trực tiếp từ Luật La Mã.
SAI: Không có cái gọi là pháp luật chung cho toàn bộ Châu Âu. Đối với hệ thống pháp luật của các nướcà Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Ai-len, Na-uy, Thụy Điển) thì Luật La Mã có ảnh hưởng không đáng kể do cơ sở chung của hệ thống pháp luật các nước này là pháp luật của nước Đức cổ (theo truyền thống luật của địa phương và luật của thành phố). Dẫn chứng: nếu như các nước ở Châu âu lục địa như Pháp, Đức họ tiếp thu trực tiếp luật La Mã để tạo nên những bộ dân luật đồ sộ của nước mình (điển hình là các Bộ Dân Luật nổi tiếng của Pháp, Đức đều được xây dựng trên nền tảng của Dân luật La Mã – Corpus Juris Civilis) thì ở Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy… người ta lại ban hành các bộ luật chung để nhất thể hóa các luật dân sự, hình sự và luật tố tụng (theo hướng quay về với các giá trị truyền thống của pháp luật địa phương và thành phố) mà không hề có ý định tiếp thu luật La Mã để xây dựng các BLDS riêng của nước mình.
Ở một cách tiếp cận khác, nước Anh ở Châu Âu mặc dù cũng nằm trong sự kiểm soát của đế chế La Mã trong một thời gian khá dài nhưng pháp luật Anh dường như lại không bị ảnh hưởng bởi pháp luật La Mã, nó phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống các tòa án chứ không phải từ việc giảng dạy luật La Mã từ các trường đại học tổng hợp như ở châu âu lục địa
- Vai trò làm luật của các thẩm phán ở các quốc gia theo truyền thống Châu âu lục địa là khả thi trong một số trường hợp đặc biệt.
- Nguồn luật của các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Châu âu lục địa không bao gồm án lệ.
Sai. Nguồn của hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law bao gồm
+ nguồn sơ cấp là nguồn đóng vai trò chính : luật thành văn, tập quán pháp, những nguyên tắc chung của pháp luật
+ nguồn thứ cấp: phán quyết của tòa án (án lệ), các học thuyết pháp lý
- Ở các quốc gia thuộc dòng họ civil law, việc các thẩm phán của tòa án cấp dưới học theo thẩm phán của tòa án cấp trên cho thấy án lệ được chính thức thừa nhận ở các quốc gia này
- Văn bản pháp luật là hình thức pháp luật hoàn hảo nhất hiện nay.
- Chế định pháp lý điển hình của dòng họ civil law là chế định luật nghĩa vụ, chế định này có nội dung tương tự chế định ủy thác trong hệ thống PL Anh
- Pháp điển hóa tại châu âu được bắt đầu từ thế kỷ XIX với việc ra đời Bộ dân luật Napoleon.
- Chia hệ thống pháp luật ra thành công pháp và tư pháp là đặc trưng chỉ có riêng của dòng họ pháp luật Civil Law
- Luật La Mã cũng phân chia thành luật công và luật tư giống như dòng họ pháp luật Civil Law
- Bộ luật Napoleon là bộ luật kinh điển cho dân luật các nước thuộc dòng họ Civillaw?
- Bộ luật dân sự Pháp lại có “tính Đức” hơn cả Bộ luật dân sự Đức.
- Người pháp thích diễn đạt luật thành văn một cách dễ hiểu minh bạch?
- Bộ luật thương mại Pháp điều chỉnh tất cả các quy định của pháp luật thương mại
- Tòa Phá án của Pháp không phải là cơ quan xét xử cao nhất đối với cả các phán quyết các Tòa án ở Pháp?
- Thẩm phán Pháp đều được đào tạo tại trường thẩm phán Bosdeou?
- Tất cả các thẩm phán của các toà án ở Pháp đều phải trải qua các khoá đào tạo thẩm phán tại các trường đào tạo thẩm phán ở Pháp.
- Tất cả các bản án sơ thẩm về vụ việc dân sự, vụ án hình sự ở Pháp đều phải chuyển qua Tòa tư pháp phúc thẩm trước khi lên Tòa phá án.
- Trong hệ thống tòa án Đức, tòa án tư pháp liên bang và tòa án tư pháp tối cao là một.
- Ở Đức có đào tạo nghề luật có hai giai đoạn
- Ở dòng họ civil law, mức độ ảnh hưởng của luật La Mã đến luật công và luật tư là không giống nhau.
- Đối với các nước theo dòng họ PL civil law, điều ước quốc tế có giá trị pháp lý cao hơn các đạo luật quốc gia.
- Mặc dù bị ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết tam quyền phân lập, Hội đồng bảo hiến của Pháp vẫn có thể can thiệp vào hoạt động của Chính phủ bằng thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các hành vi của Chính phủ.
- Tham chính viện là cơ quan bảo hiến thứ 2 của Pháp.
- Tương tự tòa án có thẩm quyền chung, các tòa án chuyên biệt của Đức đều được tổ chức thành 3 cấp.
- Mặc dù Pháp và Đức cùng có hệ thống PL thuộc dòng họ civil law nhưng mức độ ảnh hưởng từ luật cổ đến Bộ luật dân sự Pháp và Bộ luật dân sự Đức không giống nhau.
Chương III: Dòng họ Common Law
- Dòng họ PL Anglo – Saxon là tên gọi khác của dòng hộ pháp luật Common Law
- Dòng họ pháp luật Common Law còn được gọi là dòng họ pháp luật án lệ
- Cũng giống như dòng họ pháp luật Civil Law, dòng họ pháp luật Common Law được mở rộng qua hai con đường là thông qua cưỡng bức thuộc địa và tự nguyện học hỏi.
- Trong đòng họ pháp luật Common Law, pháp luật thành văn được các cơ quan tư pháp ban hành.
- Nguyên nhân xuất hiện equity là do common law đã bộc lộ nhiều hạn chế ở cả luật nội dung và luật hình thức
- Chế định ủy thác là chế định đặc trưng của Common Law
- Pháp luật Anh – Mỹ sử dụng duy nhất là án lệ.
- Cũng giống như dòng họ pháp luật Civil Law, Common law cũng phân chia thành luật công và luật tư.
- Các thẩm phán trong dòng họ pháp luật Common Law chỉ có vai trò xét xử.
- Vì là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật nước Anh nên nguyên tắc Stare decisis – “tiền lệ phải được tuân thủ” có tính chất hoàn hảo, không nhược điểm.
- Luật thành văn là nguồn luật thứ yếu tại Anh.
- Mọi bản án của tòa án cấp trên đều là án lệ trong hệ thống pháp luật Anh
- Trong hệ thống pháp luật Anh, luật thành văn được ưu tiên áp dụng.
- Pháp luật của Anh hình thành từ thực tiễn xét xử.
Đúng. Sự ra đời của thông luật Anh (Common Law) bắt nguồn từ cơ chế xét xử lưu động có từ thời Vua Henry II thế kỷ XV. Đó là việc vào mùa hè các thẩm phán của Tòa án Hoàng gia tỏa đi khắp đất nước để tiến hành XX. Đến mùa đông thì họ lại tập trung về Wesminster để ngồi lại trao đổi rút kinh nghiệm. Như vậy, thông qua quá trình thực tiễn XX, các thẩm phán hoàng gia ra quyết định giải quyết tranh chấp theo 1 cách thức đặc biệt: phụ thuộc vào cách họ hiểu và nhận thức như thế nào về các tập quán địa phương. Cũng trong quá trình XX lưu động khắp đất nước, các Thẩm phán sẽ có cơ hội làm quen với nhiều tập quán khác nhau. Đến khi trở về Wesminter vào mùa đông thì các Thẩm phán lại có cơ hội gặp gỡ và trao đổi vễ những kinh nghiệm trong thực tiễn XX của mình. Những trao đổi này thường xoay quanh những vụ án mà họ đã XX, những tập quán mà họ đã áp dụng và cả những phán quyết mà họ đã đưa ra.
Trong quá trình thảo luận họ phân tích những điểm mạnh và cả những điểm yếu của các tập quán khác nhau để có thể áp dụng để giải quyết những vụ việc tương tự, từ đó hình thành thói quen khi XX các Thẩm phán thường tự nguyện tham khảo các phán quyết đã có sẵn để giải quyết các vụ việc có tính tương đồng về mặt tình tiết. Càng về sau các Thẩm phán Hoàng gia ngày càng áp dụng thường xuyên hơn các quyết định giống nhau trên khắp đất nước và cuối cùng Common Law (nghĩa là luật chung) đã dần thay thế cho các tập quán địa phương.
- Thông luật Anh hình thành từ các nhà lập pháp dựa trên các tập quán địa phương.
SAI: Thông luật Anh (Common Law) được hình thành bằng con đường nội tại và doà chính các thẩm phán của Tòa án Hoàng gia tạo ra. Sự ra đời của thông luật Anh (Common Law) bắt nguồn từ cơ chế xét xử lưu động có từ thời Vua Henry II thế kỷ XV. Đó là việc vào mùa hè các thẩm phán của TA Hoàng gia tỏa đi khắp đất nước để tiến hành XX. Đến mùa đông thì họ lại tập trung về Wesminster để ngồi lại trao đổi rút kinh nghiệm. Như vậy, thông qua quá trình thực tiễn XX, các thẩm phán hoàng gia ra quyết định giải quyết tranh chấp theo 1 cách thức đặc biệt: phụ thuộc vào cách họ hiểu và nhận thức như thế nào về các tập quán địa phương. Cũng trong quá trình XX lưu động khắp đất nước, các thẩm phán sẽ có cơ hội làm quen với nhiều tập quán khác nhau. Đến khi trở về Wesminter vào mùa đông thì các thẩm phán lại có cơ hội gặp gỡ và trao đổi vễ những kinh nghiệm trong thực tiễn XX của mình.
Những trao đổi này thường xoay quanh những vụ án mà họ đã XX, những tập quán mà họ đã áp dụng và cả những phán quyết mà họ đã đưa ra. Trong quá trình thảo luận họ phân tích những điểm mạnh và cả những điểm yếu của các tập quán khác nhau để có thể áp dụng để giải quyết những vụ việc tương tự, từ đó hình thành thói quen khi XX các thẩm phán thường tự nguyện tham khảo các phán quyết đã có sẵn để giải quyết các vụ việc có tính tương đồng về mặt tình tiết. Càng về sau các thẩm phán Hoàng gia ngày càng áp dụng thường xuyên hơn các quyết định giống nhau trên khắp đất nước và cuối cùng Common Law (nghĩa là luật chung) đã dần thay thế cho các tập quán địa phương.
- Các tòa án ở Mỹ cũng tuân theo nguyên tắc tiền lệ pháp (Stare Decicis), nhưng linh hoạt, mềm dẻo hơn so với Anh
- So với ở Anh thì quyền lực tư pháp ở Mĩ kém tập trung hơn
- Ở Mỹ, chỉ cần có bằng tốt nghiệp tường đương với bằng tốt nghiệp trung học phổ thông ở Việt Nam là có thể ghi danh vào trường luật.
- Tại Mỹ, việc bảo hiến không được giao cho một cơ quan chuyên trách.
- Tại Mỹ, nguồn luật không bao gồm tập quán pháp
- Tại Mỹ tồn tại rất nhiều hệ thống pháp luật, tương ứng với các bang sẽ có một hệ thống pháp luật.
- Ở Mỹ tồn tại rất nhiều hệ thống pháp luật nên không tránh khỏi những chồng chéo giữa các bộ luật.
- Hiến pháp Mỹ chỉ gói gọn trong 7 điều
Chương V: Pháp luật Hồi Giáo
- Pháp luật Hồi Giáo mang tính ổn định và mềm dẻo, thích ứng với sự phát triển của xã hội
- Một quốc gia mà đa số dân theo Hồi giáo thì được coi là thuộc hệ thống pháp luật Hồi giáo.
- Các quy định của luật Hồi giáo hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của nhà nước
- Phạm vi điều chỉnh của luật Hồi giáo là rất rộng
- Luật Hồi giáo có nguồn tương tự như các dòng họ pháp luật khác trên thế giới
- Vì là nguồn luật quan trọng nhất nên toàn bộ nội dung kinh Koran là luật