100 Câu nhận định Luật so sánh theo chương (có đáp án)

Phần 1: Những vấn đề chung về luật so sánh

  1. Nếu theo đúng bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ “ so sánh luật” chứ không phải “luật so sánh”.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Có nhiều học giả đưa ra định nghĩa về luật so sánh “là so sánh các hệ thống PL khác nhau trên thế giới, nghiên cứu có hệ thống các truyền thống PL và các quy phạm PL nào đó trên cơ sở so sánh”. Như trong định nghã của Michael Bogdan, luật so sánh bao gồm: So sánh các hệ thống PL khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng; nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt đã được xác định; làm rõ những vấn đề mang tính phương pháp luận nảy sinh có liên quan đến các nhiệm vụ trên. Vì vậy, nếu đúng bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ “so sánh luật” (Legal Comparison), tuy nhiên do “thói quen” sử dụng luật ngữ “luật so sánh” nên các học giả vẫn chủ yếu sử dụng thuật ngữ “luật so sánh”
  1. Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học là “Luật học so sánh”
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Hiện trên thế giới vẫn đang tồn tại các tên gọi khác nhau: “luật so sánh – Comparative Law”, “luật học so sánh – Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh; hay “so sánh luật – Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức… Tuy nhiên, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại Việt Nam là Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật Thẩm phán.HCM đều là “Luật so sánh” (tiếng Anh là Comparative Law và tiếng Pháp là Droit Comparé). Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học.
  1. Thuật ngữ “Luật so sánh” tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành luật, vì thế thuật ngữ này không được sử dụng một cách rộng rãi để đặt tên cho khóa học.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn

Sai: Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ Luật so sánh rất có thể sẽ gây hiểu lầm như khi ta thay “lịch sử pháp luật”bằng “luật lịch sử” hoặc thay “xã hội học pháp luật” bằng “luật xã hội” chẳng hạn. Hơn nữa thuật ngữ Luật so sánh còn tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành luật vì nó đem đến sự hoài nghi về sự tồn tại của một ngành luật mới – ngành luật so sánh – bên cạnh sự tồn tại của các ngành luật khác như luật hình sự, luật dân sự,… Tuy nhiên thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học. Xưa nay trên thế giới môn học này vẫn được đặt tên là “luật so sánh” (tiếng Anh: Comparative Law; tiếng Pháp: Droit Comparé; tiếng Đức: Rechtsvergleichung). Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho học phần này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại Việt Nam là ĐH Luật Hà Nội và ĐH Luật Thẩm phán.HCM đều là “Luật so sánh”.

  1. Định nghĩa về Luật so sánh của Micheal Bogdan được nhiều học giả ủng hộ vì định nghĩa này đã thể hiện được bản chất của Luật so sánh
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Định nghĩa của Micheal Bogdan tuy nêu được đầy đủ các nội dung của luật so sánh nhưng lại không nêu rõ được bản chất của luật so sánh là 1 ngành khoa học độc lập.
  1. Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau được giải thích bởi sự khác biệt về vị trí, tính ứng dụng của lĩnh vực này tại các quốc gia.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau (“luật so sánh – Comparative Law”, “luật học so sánh – Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh hay “so sánh luật – Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức…) không phải do sự khác biệt về vị trí, tính ứng dụng của lĩnh vực này tại các quốc gia mà là do đây là thuật ngữ còn đang gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý trên thế giới. Thực tế cho thấy sự tranh cãi này của các học giả xoay quanh bản chất và các vấn đề có liên quan về nội dung của lĩnh vực học thuật này. Nhiều học giả cho rằng thuật ngữ “luật học so sánh” có nội dung tổng hợp hơn, rộng lớn hơn rất nhiều so với thuật ngữ “luật so sánh” (PGS. TS. Võ Khánh Vinh – Giáo trình luật học so sánh). Tuy nhiên ngày nay đa số các học giả đã chấp nhận việc sử dụng 2 thuật ngữ này có thể thay thế cho nhau, trong đó thuật ngữ “luật so sánh” ngày càng được sử dụng phổ biến hơn trên thế giới
  1. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cũng là mục đích của luật so sánh.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Theo Michael Bogdan thì 3 mục đích chính của Luật so sánh là: (i) tìm ra sự tương đồng vàà khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Như vậy nghiên cứu pháp luật nước ngoài chỉ là phương tiện chứ hoàn toàn không phải là mục đích. Nếu chỉ trình bày những hiểu biết về hệ thống pháp luật của nước ngoài mà không đặt nó trong sự so sánh với các hệ thống pháp luật khác, không xác định những điểm tương đồng và khác biệt của nó với các hệ thống pháp luật khác thì đó không phải là công trình so sánh luật.
  1. Luật so sánh không phải là 1 ngành luật trong hệ thống pháp luật
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng.  Luật so sánh không phải là 1 ngành luật hay lĩnh vực PL thực định trong hệ thống pháp luật quốc gia. Luật so sánh không có đối tượng điều chỉnh do nó không có quan hệ xã hội đặc thù, và vì vậy, nó không thể là ngành luật độc lập được. Vì vậy,  Luật so sánh không phải 1 hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh 1 lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội như luật dân sự, luật hình sự, luật hôn nhân gia đình.
  1. Luật so sánh là một ngành khoa học độc lập
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn

Đúng. đây là bản chất của luật so sánh, dựa trên các lập luận sau:

Thứ nhất, việc thường xuyên so sánh các hệ thống PL với nhau đã tạo ra một hệ thống tri thức độc lập với hệ thống tri thức của các ngành khoa học độc lập khác. Thứ hai, tương tự với các ngành khoa học khác, nhất là khoa học xã hội, khi thực hiện so sánh có thể phát sinh ra ngành khoa học độc lập, ví dụ: bên cạnh ngành triết học có ngành triết học so sánh, bên cạnh ngành xã hội học có ngành xã hội học so sánh, ngôn ngữ học có ngôn ngữ học so sánh. Thứ ba, các học giả đã chứng minh được “luật so sánh” và “phương pháp so sánh luật” là hoàn toàn khác nhau ==> không thể coi luật so sánh là 1 phương pháp nghiên cứu mà phải coi đó là 1 ngành khoa học độc lập

  1. Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh mang tính ổn định và có phạm vi ranh giới rõ ràng.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Hiện có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh. Các nước theo hệ thống pháp luật XHCN cho rằng đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh phải là pháp luật thực định, trong đó liệt kê các đối tượng mang tính cụ thể. Ngược lại các hệ thống pháp luật phương tây (như hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật của các nước Bắc Âu) lại cho rằng đối tượng nghiên cứu phải được xác định bằng cách khai quá hóa các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh, theo đó chính bản thân phương pháp nghiên cứu cũng sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh (Michael Bogdan). Nói cách khác Luật so sánh là ngành khoa học pháp lý cộng sinh không hề có phạm vi, ranh giới rõ ràng.
  1. Các nghiên cứu về luật nước ngoài là luật so sánh?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Vì khi so sánh chúng ta phải có ít nhất hai hệ thống luật khác nhau.  Phải là so sánh các đối tượng của PL trong nước với PL nước ngoài hoặc của PL nước ngoài với nhau chứ không phải đối tượng của PL trong nước với nhau vì nó không là đối tượng của luật so sánh
  1. Căn cứ vào định nghĩa Luật so sánh của Micheal Bogdan thì phạm vi nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng: hiện nay trên thế giới có hàng trăm hệ thống PL (mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều có ít nhất 1 hệ thống pháp luật, ở các quốc gia liên bang thì mỗi bang lại có 1 hệ thống PL riêng như Hoa Kỳ), mà không có 2 hệ thống PL nào trùng hoàn toàn với nhau nên số lượng đối tượng nghiên cứu là rất lớn. Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL: trong mỗi hệ thống PL đều có rất nhiều các chế định, các nguyên tắc, các quy phạm nên có rất nhiều nội dung để luật so sánh nghiên cứu
  1. Do không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu nên luật so sánh không có phương pháp nghiên cứu riêng biệt.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Tuy không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu (do đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng và không có phạm vi ranh giới rõ ràng) nhưng không phải vì thế mà Luật so sánh không có các phương pháp nghiên cứu riêng biệt. Có thể kể ra các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh như: i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh quy phạm (so sánh văn bản); và (iii) p.p so sánh chức năng,..Trong đó, phương pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu chủ đạo của ngành khoa học luật so sánh
  1. Luật so sánh được hiểu đơn giản là phương pháp so sánh các hệ thống pháp luật.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Về bản chất, Luật so sánh là ngành khoa học độc lập, có sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có phương pháp so sánh luật. Còn phương pháp so sánh luật, là 1 phương pháp nghiên cứu luật và được áp dụng trong nhiều ngành khoa học khác, trong đó có ngành khoa học luật so sánh. Xét về mục đích, Luật so sánh nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa những đối tượng so sánh; lý giải nguồn gốc của những điểm tương đồng và khác biệt đó; đánh giá các giải pháp pháp lý dành cho các đối tượng so sánh. Phương pháp so sánh luật nhằm tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh mà không cần lý giải, không cần đánh giá.
  1. Nghiên cứu pháp luật và so sánh pháp luật là hai loại hình họat động nghiên cứu khoa học không tách rời nhau và cùng có chung mục đích, phương pháp tiến hành.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Mục đích của nghiên cứu pháp luật và của so sánh pháp luật là hoàn toàn khác nhau. Mục đích của nghiên cứu pháp luật đơn thuần chỉ là tìm hiểu về nó trong khi mục đích của so sánh pháp luật là sử dụng chính những kết quả nghiên cứu pháp luật để: (i) tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài (Michael Bogdan).
  1. Tính tương đồng và (hoặc) khác biệt được giải thích trong khuôn khổ nội dung pháp luật thực định.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Một trong các nguyên tắc quan trọng khi tiến hành các họat động nghiên cứu pháp luật nước ngoài đó là: “Phải nghiên cứu pháp luật nước ngoài trong tính toàn diện và tổng thể của vấn đề”. “Tính toàn diện” được thể hiện qua 2 góc độ, góc độ lý luận và góc độ thực tiễn, đồng thời để tăng độ chính xác của công trình nghiên cứu thì cần phải sử dụng cả 2 phương pháp tiếp cận: trực tiếp và gián tiếp. “Tính tổng thể” được hiểu: Một là, phải đặt vấn đề trong bối cảnh lịch sử cụ thể của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia đó; Hai là, phải xem xét trong chính sách pháp luật cụ thể của mỗi quốc gia. Tóm lại, có làm được như vậy mới nhận biết và giải thích chính xác tính tương đồng và khác biệt của các hệ thống pháp luật khác nhau
  1. Luật so sánh chỉ được tiếp nhận tại các nước XHCN và các nước trước đây thuộc khối XHCN vào những năm 90 của thế kỷ XX vì còn có rất nhiều tranh luận về tên gọi và bản chất của lĩnh vực này.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Có thể lấy VN làm điển hình. Luật so sánh đã được tiếp nhận tại VN từ khá sớm.à Hiến pháp 1959 được xem như là một trong những sản phẩm của so sánh pháp luật được thực hiện bởi các nhà làm luật VN. Ở phương diện so sánh học thuật, trong giai đoạn từ 1954-1975 tại miền Nam VN đã có một số công trình nghiên cứu luật so sánh mà đáng chú ý nhất là cuốn sách “Những ứng dụng của luật so sánh” của TS. Ngô Bá Thành xuất bản năm 1965 tại Sài gòn. Giai đoạn sau 1975 thì hiến pháp 1980 cũng là một trong số các kết quả của các công trình so sánh luật trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của các nước theo khối XHCN. Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật của VN giai đoạn này có rất nhiều điểm tương đồng với pháp luật của Liên Xô.
  1. Có thể sử dụng phương pháp so sánh cho bất kỳ đối tượng nào cần so sánh mà không nhất thiết phải tương đồng với nhau
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Nguyên lý chung khi sử dụng phương pháp so sánh: các đối tượng so sánh phải tương đồng, tương ứng với nhau. Trong luật so sánh phải tuân thủ nguyên lý đó nên các đối tượng trong 1 công trình so sánh luật phải thực hiện cùng chức năng
  1. Phương pháp so sánh chức năng là p.p nghiên cứu độc lập của Luật so sánh.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng: Luật so sánh có 3 p.p nghiên cứu đặc thù là: (i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p SS qui phạm; và (iii) p.p so sánh chức năng. Trong đó p.p so sánh chức năng dựa trên chức năng điều chỉnh các quan hệ XH của các hiện tượng pháp lý, từ đó xác định những nguyên tắc pháp lý được sử dụng để trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh các quan hệ XH đó, đồng thời xác định những yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… đã tác động đến các giải pháp pháp lý đó như thế nào.
  1. Phương pháp so sánh chức năng là phương pháp hiệu quả nhất.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Thực tiễn nghiên cứu cho thấy phương pháp so sánh chức năng chỉ là p.p được sửà dụng thường xuyên và phổ biến nhất chứ không phải hiệu quả nhất. Mỗi p.p đều có những ưu, nhược điểm riêng. Việc áp dụng p.p nào sẽ phụ thuộc vào phạm vi và cấp độ nghiên cứu khác nhau. Trong các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh thì không có phương pháp nào được xem là tối ưu, hiệu quả nhất bởi các phương pháp còn phụ thuộc vào trình độ của người nghiên cứu. Cách tốt nhất là lồng ghép các phương pháp lại với nhau.
  1. Phương pháp đặc thù chỉ có ở Luật so sánh.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Phương pháp đặc thù gồm: (i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh quy phạm; và (iii) p.p so sánh chức năng. Trong đó, có thể dễ dàng nhận thấy p.p so sánh lịch sử không những chỉ có ở Luật so sánh mà còn được áp dụng để nghiên cứu rộng rãi trong các lĩnh vực khoa học pháp lý khác chẳng hạn như nghiên cứu về lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật chẳng hạn.
  1. Khi xây dựng giả thuyết nghiên cứu cho 1 công trình so sánh luật bất kỳ, người nghiên cứu không nên sử dụng các thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp lý.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Vì công trình so sánh luật là so sánh luật giữa các quốc gia khác nhau, sẽ có những thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp lý khác nhau dẫn đến dễ gây nhầm lẫn nếu sử dụng.
  1. Khi thực hiện các công trình so sánh luật, người nghiên cứu cần phải sử dụng văn bản pháp luật mới nhất của nước ngoài
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Vì tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. VD so sánh bộ luật dân sự Pháp và bộ luật dân sự Đức khi mới ra đời thì sẽ sử dụng 2 BLDS từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải sử dụng 2 BLDS hiện hành.
  1. Ở giai đoạn cuối của quá trình so sánh cần đánh giá xem giải pháp nào phù hợp hơn và giải thích tại sao lại phù hợp hơn?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Ở giai đoạn cuối của quá trình so sánh cần đánh giá kết quả so sánh, giải thích nguồn gốc của những điểm tương đồng, điểm khác biệt, phân tích, đánh giá ưu, nhược của các giải pháp pháp lý, nhận xét về hiệu quả của các giải pháp pháp lý. Tại giai đoạn này, nhà nghiên cứu hoàn toàn có thể đưa ra ý kiến chủ quan của mình.
  1. Luật so sánh được xếp vào những ngành khoa học nghiên cứu các vấn đề chung nhất do chúng có cùng mục đích nghiên cứu.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Luật so sánh được xếp vào nhóm những ngành khoa học nghiên cứu các vấn đề chung nhất của hệ thống pháp luật cùng với các lĩnh vực nghiên cứu khác như: lịch sử nhà nước & pháp luật, xã hội học pháp luật …Tuy nhiên mục đích nghiên cứu của chúng là hoàn toàn khác nhau. So với Lịch sử nhà nước & pháp luật thì Luật so sánh cũng có cùng đối tượng nghiên cứu, cũng sử dụng phương pháp so sánh lịch sử giống như Luật so sánh nhưng Luật so sánh lại có mục đích nghiên cứu hoàn toàn khác. Mục đích của Luật so sánh là tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật (Michael Bogdan).
  1. Luật so sánh được xếp cùng nhóm với các ngành khoa học pháp lý mang tính lý luận chung vì chúng có cùng phương pháp nghiên cứu.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Luật so sánh được xếp vào nhóm những ngành khoa học pháp lý mang tính lý luận chung như: Lý luận lịch sử nhà nước & pháp luật, XH học pháp luật … Mặc dù Lý luận lịch sử NN&pháp luật và Luật so sánh cùng sử dụng phương pháp nghiên cứu giống nhau là p.p so sánh lịch sử nhưng không phải vì thế mà chúng được xếp chung thành 1 nhóm. Sở dĩ chúng được xếp cùng 1 nhóm là bởi vì chúng có cùng đối tượng nghiên cứu: đó là chuyên nghiên cứu những vấn đề chung có ảnh hưởng tới toàn thể hoặc gần như toàn thể hệ thống pháp luật trên thế giới (Michael Bogdan).
  1. Hệ thống chính trị quốc gia là nhân tố duy nhất quyết định sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL gồm: Hệ thống chính trị và tư tưởng, sự phát triển của nền kinh tế: VD hệ thống PL của nước phát triển khác với hệ thống PL của nước đang phát triển; hay nước chậm phát triển; tôn giáo; yếu tố lịch sử và địa lý; lịch sử: VD các quốc gia từng là thuộc địa => chịu ảnh hưởng lớn của hệ thống PL chính quốc; vị trí địa lý và khí hậu; yếu tố về dân số; VD ảnh hưởng tới PL về hôn nhân gia đình; an sinh xã hội; tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên quan đến PL về thuế, sở hữu trí tuệ, … của mỗi quốc gia; những yếu tố ngẫu nhiên: có những trường hợp hệ thống PL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) mà không thuộc các yếu tố đã nêu trên
  1. Yếu tố dân số là một cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL gồm: Hệ thống chính trị và tư tưởng, sự phát triển của nền kinh tế: VD hệ thống PL của nước phát triển khác với hệ thống PL của nước đang phát triển; hay nước chậm phát triển; tôn giáo; yếu tố lịch sử và địa lý; lịch sử: VD các quốc gia từng là thuộc địa => chịu ảnh hưởng lớn của hệ thống PL chính quốc; vị trí địa lý và khí hậu; yếu tố về dân số; VD ảnh hưởng tới PL về hôn nhân gia đình; an sinh xã hội; tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên quan đến PL về thuế, sở hữu trí tuệ, … của mỗi quốc gia; những yếu tố ngẫu nhiên: có những trường hợp hệ thống PL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) mà không thuộc các yếu tố đã nêu trên
  1. Do có cùng nguồn gốc pháp luật là Luật La Mã nên hệ thống pháp luật XHCN và hệ thống pháp luật Pháp-Đức có sự tương đồng về cấu trúc phân chia pháp luật thành luật công và luật tư.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai: Mặc dù hệ thống pháp luật XHCN chịu nhiều ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Châu âu lục địa nhất là cácà chế định pháp luật dân sự có nguồn gốc từ Dân luật La Mã (Corpus Juris Civilis) tuy nhiên hệ thống pháp luật XHCN không có sự phân chia thành luật công và luật tư. Theo Michael Bogdan thì điều này được giải thích bởi hệ thống pháp luật XHCN có 2 đặc tính cơ bản: (i)nó dựa trên nền tảng học thuyết Mác_Lê Nin về pháp luật; và (ii) nó gắn chặt với nền kinh tế kế hoạch. Ở các nước XHCN chỉ có thể có luật công mà không có luật tư là bởi vì học thuyết Mác-Lê Nin cho rằng quyền lực nhà nước là thống nhất. Hơn nữa tại các quốc gia XHCN người ta chỉ công nhận hình thức duy nhất là “công hữu về tư liệu sản xuất”, theo đó mọi hình thức sở hữu tư nhân đều bị triệt tiêu, và do vậy luật tư không có đất để phát triển cũng là lẽ tất yếu.
  1. Cách phân nhóm các hệ thống PL của Rene David được nhiều học giả phương Tây đón nhận vì Rene David đã sử dụng 2 tiêu chí chính xác nhất để phân nhóm
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Vì sự phân nhóm các hệ thống PL trên thế giới chỉ là tương đối, nên không thể có tiêu chí phân nhóm chính xác nhất
  1. Theo tiêu chí của Rene David, hệ thống pháp luật được chia làm 4 nhóm
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Rene David dựa vào 2 tiêu chí là Hệ tư tưởng và Kỹ thuật lập pháp và cho ra 4 nhóm: nhóm PL Đức – La Mã (hay nhóm Rome – Giecmanh), nhóm PL xã hội chủ nghĩa, nhóm PL dựa trên tôn giáo và truyền thống (những nước Hồi giáo, Phật giáo và một số nước châu Phi), nhóm PL Anh – Mỹ (common law)
  1. Hệ thống PL là tổng thể các quy phạm PL của 1 quốc gia, vùng lãnh thổ là cách hiểu chính xác nhất về thuật ngữ này
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Có nhiều cách hiểu hệ thống PL khác nhau (có 3 cách hiểu), việc sử dụng cách hiểu nào là tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu.
  1. Rene David đã sáng tạo ra thuật ngữ “dòng họ PL” khi viết cuốn “Những hệ thống PL chính trong thế giới đương đại” vào thập niên 60 của thế kỷ 20.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Motesquire mới là người sáng tạo ra thuật ngữ “dòng họ PL” từ thế kỷ 18. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại dược Rene David sử dụng trong tác phẩm “Những hệ thống PL chính trong thế giới đương đại” vào thập niên 60 của thế kỷ 20 nhiều đến mức công chúng lầm tưởng Rene David là người sáng tạo ra thuật ngữ “dòng họ PL”
  1. Số hệ thống pháp luật bằng số quốc gia?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Số lượng hệ thống pháp luật trên thế giới là rất nhiều, trên 200 hệ thống pháp luật. Chỉ tính riêng tại Mỹ, mỗi bang được ban hành một hệ thống pháp luật nên tính ra trong một quốc gia đã có 50 hệ thống pháp luật.
  1. Kỹ thuật lập pháp là một tiêu chí phân nhóm hệ thống pháp luật theo quan điểm của Zweigert và Kotz
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Theo quan điểm của Zweigert và Kotz, có 5 tiêu chí để phân nhóm các hệ thống pháp luật bao gồm: nguồn gốc lịch sử phát triển của hệ thống PL, nguồn luật, kiểu tư duy pháp lý đặc thù, cấu trúc PL, hệ tư tưởng
  1. Bản chất pháp luật được quyết định bởi yếu tố lịch sử.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Suy cho cùng thì việc so sánh bản chất pháp luật của các hệ thống pháp luật trên thế giới thực chất là tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật để từ đó lý giải nguồn gốc của sự tương đồng và khác biệt đó. Bằng cách áp dụng phương pháp so sánh lịch sử ta nhận thấy sự tương đồng và khác biệt vềbản chất pháp luật chính là do yếu tố lịch sử quyết định. Nói cách khác yếu tố LS nói lên đặc trưng cơ bản của từng hệ thống pháp luật.

PHẦN HAI

Chương II: Dòng họ Civil Law

  1. Ở Châu âu lục địa đã từng có hệ thống pháp luật chung thống nhất.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Luật La Mã năm 450 TCN.
  1. Dòng họ Civillaw còn có tên là dòng họ pháp luật châu âu lục địa.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Vì dòng họ pháp luật này ra đời đầu tiên ở các quốc gia thuộc châu Âu lục địa, sau đó lan rộng ra các quốc gia khác trên toàn thế giới
  1. Cả 4 phần của bộ tổng luật của hoàng đế Justinian ( Corpus Juris Civilis ) đều mang ý nghĩa ràng buộc đối với người La Mã
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Mặc dù trong Bộ tổng luật này, có phần chứa văn bản quy phạm pháp luật, có phần chỉ chứa kiến thức về khoa học pháp lý, nhưng đối với người dân La Mã thì toàn bộ 4 phần của Corpus Juris Civilis đều mang ý nghĩa ràng buộc, tức là coi những kiến thức pháp lý là chuẩn mực và có giá trị giống như luật (do đó mới có tên gọi là Bộ tổng luật)
  1. Các nghiên cứu thược trường phái các nhà pháp điển hiện đại (Pandectist) chỉ có ý nghĩa nhiều với hệ thống pháp luật Đức
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Ra đời ở Đức, thế kỷ 16, sử dụng phương pháp nghiên cứu hiện đại: nghiên cứu luật La Mã gắn với điều kiện thực tiễn lúc bấy giờ, tuy nhiên lại chỉ “gắn” với điều kiện, hoàn cảnh của nước Đức, chứ không phải của toàn châu Âu. Vậy nên, kết quả nghiên cứu có ý nghĩa nhiều hơn đối với hệ thống PL Đức, không có ảnh hưởng lớn với châu Âu
  1. Ở Châu âu lục điạ trước thế kỷ 18 đã từng có cuộc pháp điển hóa lớn được ghi nhận?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Ở châu Âu từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 là cuộc Đại pháp điển hóa pháp luật. Bắt đầu với Bản tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789, đã đặt nền móng cho luật Hiến pháp của Pháp và của tất cả các quốc gia trên thế giới sau này. Nước Đức cũng đã pháp điển hóa những bộ luật quan trọng, như Bộ luật thương mại 1866, Bộ luật hình sự 1871, Bộ luật TTHS 1877, Bộ luật TTDS 1877, Bộ luật dân sự 1896,…. Ảnh hưởng của cuộc Đại pháp điển này là rất lớn đối với các thuộc địa của Pháp, Đức, và của các quốc gia khác như Nhật, Hàn, Thái Lan, Hi Lạp, …
  1. Con đường mở rộng của dòng họ pháp luật Civil law là thông qua quá trình mở rộng thuộc địa và tự nguyện học hỏi của các quốc gia khác.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Dòng họ pháp luật Civid Law được mở rộng thông qua hai con đường. Thông qua quá trình mở rộng thuộc địa của các cường quốc ở châu Âu, họ áp đặt hệ thống PL civil law cho thuộc địa. Thứ hai là do các quốc gia tự nguyện học hỏi văn minh pháp lý ở châu Âu lục địa: vì coi châu Âu lục địa là mô hình lý tưởng.
  1. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa chỉ sử dụng một nguồn luật duy nhất là pháp luật thành văn.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Nguồn luật của Hệ thống pháp luật Châu ân Lục địa hay còn được gọi là Hệ thống Dân luậtà (Civil Law) khá đa dạng bao gồm: (i) luật thành văn (statute law) với tư cách là nguồn cơ bản; (ii) án lệ (case law hay judge-made law); và (iii) tập quán pháp luật (legal custom – hay La coutume trong tiếng Pháp); ngoài ra còn có các học thuyết pháp luật (legal doctrine) và các nguyên tắc pháp luật (legal principles). Như án lệ chẳng hạn, ở các nước thuộc dòng họ Civil Law, án lệ tuy không được coi là nguồn cơ bản của pháp luật nhưng lại được áp dụng hạn chế trong 1 số trường hợp khi mà THẨM PHÁN nhận thấy việc áp dụng luật thành văn (vốn bao gồm các qui định đã quá cổ và không còn phù hợp – vd: BLDS Pháp) là bất khả thi hoặc cần phải được giải thích theo quan điểm của cơ quan XX mới được xem là phù hợp với những bước phát triển trong xã hội hiện đại.
  1. Mặc dù đều nằm trong Bộ tổng luật của Hoàng đế Justinian nhưng chỉ có những phần chứa đựng các văn bản quy phạm Pháp luật mới có ý nghĩa ràng buộc đối với người dân La Mã
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Vì tất cả các bộ phận của Bộ tổng luật đều có ý nghĩa ràng buộc đối với người dân La Mã.
  1. Từ thế kỷ 16, mô hình nhà nước của các quốc gia châu Âu lục địa đã dần ổn định, vì vậy các quốc gia này đã bắt đầu quan tâm phát triển các chế định thuộc lĩnh vực công pháp.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Việc các quốc gia châu Âu lục địa dần ổn định chỉ là góp phần thúc đẩy các quốc gia này phát triển các chế định thuộc lĩnh vực công pháp, con nguyên nhân chính là nhờ các nhà nghiên cứu thuộc trường pháp PL tự nhiên (đề cao các quyền con người là tự nhiên, vốn có) và sự thành công của các cuộc cách mạng tư sản.
  1. Ins Tintutiones là sách giáo khoa luật La Mã
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Đây là 1 tác phẩm khoa học luật, ra đời từ thế kỷ 3 trước CN, đến thế kỷ 2 trước CN mới được phát hiện, đến nay vẫn chưa rõ tác giả. Đây không phải là một văn bản quy phạm pháp luật, mà là một tác phẩm khoa học luật và được coi là một thành tố của luật La Mã.

  1. Trường phái các nhà pháp điển hiện đại nghiên cứu luật la mã xuất hiện ở Đức thế kỷ 16
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Trường phái này ra đời ở Đức vào thế kỷ 16. Sử dụng phương pháp nghiên cứu hiện đại: nghiên cứu luật La Mã gắn với điều kiện thực tiễn lúc bấy giờ, tuy nhiên lại chỉ “gắn” với điều kiện, hoàn cảnh của nước Đức, chứ không phải của toàn châu Âu. Vậy nên, kết quả nghiên cứu có ý nghĩa nhiều hơn đối với hệ thống PL Đức, không có ảnh hưởng lớn với châu Âu
  1. Pháp luật chung cho toàn bộ Châu Âu đều được các nước ở Châu Âu tiếp thu một cách trực tiếp từ Luật La Mã.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn

SAI: Không có cái gọi là pháp luật chung cho toàn bộ Châu Âu. Đối với hệ thống pháp luật của các nướcà Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Ai-len, Na-uy, Thụy Điển) thì Luật La Mã có ảnh hưởng không đáng kể do cơ sở chung của hệ thống pháp luật các nước này là pháp luật của nước Đức cổ (theo truyền thống luật của địa phương và luật của thành phố). Dẫn chứng: nếu như các nước ở Châu âu lục địa như Pháp, Đức họ tiếp thu trực tiếp luật La Mã để tạo nên những bộ dân luật đồ sộ của nước mình (điển hình là các Bộ Dân Luật nổi tiếng của Pháp, Đức đều được xây dựng trên nền tảng của Dân luật La Mã – Corpus Juris Civilis) thì ở Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy… người ta lại ban hành các bộ luật chung để nhất thể hóa các luật dân sự, hình sự và luật tố tụng (theo hướng quay về với các giá trị truyền thống của pháp luật địa phương và thành phố) mà không hề có ý định tiếp thu luật La Mã để xây dựng các BLDS riêng của nước mình.

Ở một cách tiếp cận khác, nước Anh ở Châu Âu mặc dù cũng nằm trong sự kiểm soát của đế chế La Mã trong một thời gian khá dài nhưng pháp luật Anh dường như lại không bị ảnh hưởng bởi pháp luật La Mã, nó phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống các tòa án chứ không phải từ việc giảng dạy luật La Mã từ các trường đại học tổng hợp như ở châu âu lục địa

  1. Vai trò làm luật của các thẩm phán ở các quốc gia theo truyền thống Châu âu lục địa là khả thi trong một số trường hợp đặc biệt.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
ĐÚNG: Các trường hợp đặc biệt điển hình nhất là tại Pháp và Đức. Tại Pháp, tuy án lệà không có tính ràng buộc chính thức nhưng trong một số trường hợp thì thẩm phán cũng có quyền làm luật. Ở Pháp, các bản án của Tòa phá án (Cour de Cassation) thuộc nhánh tòa tư pháp trong 1 số trường hợp sẽ trở thành án lệ và sẽ được áp dụng chung trên toàn quốc. Các bản án này luôn được nghiên cứu kỹ lưỡng và thường được các tòa án cấp dưới và chính Tòa Phá Án tuân thủ. Bên nhánh tòa hành chính thì Tham chính viện (Conseil d’Etat) cũng có thẩm quyền đưa ra ý kiến hướng dẫn giải quyết vụ việc theo yêu cầu của các tòa án hành chính sơ thẩm hoặc của tòa hành chính phúc thẩm. Tại Đức, các thẩm phán của Tòa án Hiến pháp vừa có chức năng xét xử vừa có chức năng làm luật. Những bản án liên quan đến các vấn đề về hiến pháp của Tòa án Hiến pháp sẽ là 1 nguồn luật tại Đức. Như vậy thẩm phán ở các quốc gia theo truyền thống châu Âu lục địa trong 1 số trường hợp đặc biệt cũng có chức năng làm luật.
  1. Nguồn luật của các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Châu âu lục địa không bao gồm án lệ.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn

Sai. Nguồn của hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law bao gồm

+ nguồn sơ cấp là nguồn đóng vai trò chính : luật thành văn, tập quán pháp, những nguyên tắc chung của pháp luật

+ nguồn thứ cấp: phán quyết của tòa án (án lệ), các học thuyết pháp lý

  1. Ở các quốc gia thuộc dòng họ civil law, việc các thẩm phán của tòa án cấp dưới học theo thẩm phán của tòa án cấp trên cho thấy án lệ được chính thức thừa nhận ở các quốc gia này
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Mặc dù có việc ở các quốc gia thuộc dòng họ civil law, các thẩm phán của tòa án cấp dưới học theo thẩm phán của tòa án cấp trên, nhưng án lệ vẫn chưa được chính thức thừa nhận, là vì nguyên tắc Tiền lệ pháp (Stare Decicis) không được thừa nhận ở các quốc gia này.
  1. Văn bản pháp luật là hình thức pháp luật hoàn hảo nhất hiện nay.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
SAI. Mỗi hình thức pháp luật này đều có những ưu và nhược điểm nhất định và không có hình thức nào là hoàn hảo nhất: ưu điểm của hình thức pháp luật này chính là nhược điểm của hình thức pháp luật kia và ngược lại. Do đó không thể nói ở thời điểm hiện tại, văn bản pháp luật là hình thức pháp luật hoàn hảo nhất. Hơn nữa, hiện nay do xu hướng hội tụ pháp luật nên các nước sử dụng hình thức pháp luật chủ yếu là tiền lệ pháp (các nước thuộc dòng họ Common law) và các nước sử dụng hình thức pháp luật chủ yếu là luật thành văn (dòng họ Civil Law) đều tìm cách thu hẹp khoảng cách giữa hai hình thức pháp luật này. Ở VN ta mặc dù không trực tiếp thừa nhận ánlệ, nhưng theo tôi biết, đã có những đề án liên quan đến việc gián tiếp cho phép thừa nhận án lệ tại VN, mà mộttrong những bước đi đầu tiên là chủ trương xuất bản định kỳ tuyển tập các bản án Giám đốc thẩm của HĐTHẨM PHÁNTAND-TC; tiếp đó là bản án GĐT của toà hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính của TAND Tối cao vàcuối cùng là một số bản án của toà phúc thẩm TAND Tối cao, coi đó là nguồn thông tin tham khảo cho các THẨM PHÁN (lưu ý rằng “Công bố phán quyết của toà án” là một trong những yêu cầu của Hiệp định TRIPS mà Việt Nam phải tuân thủ khi gia nhập WTO).
  1. Chế định pháp lý điển hình của dòng họ civil law là chế định luật nghĩa vụ, chế định này có nội dung tương tự chế định ủy thác trong hệ thống PL Anh
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
 Sai. Vì chế định ủy thác trong PL Anh có nội dung tương tự với phần “làm giàu bất chính” trong chế định luật nghĩa vụ của civil law (chứ không phải tương tự với toàn bộ chế định luật nghĩa vụ).
  1. Pháp điển hóa tại châu âu được bắt đầu từ thế kỷ XIX với việc ra đời Bộ dân luật Napoleon.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Pháp điển hóa tại Châu Âu đã bắt đầu từ thế kỷ thứ XII bởi vì hệ thống pháp luật châu Âu lục địa được hình thành từ thế kỷ XII trên cơ sở tiếp thu Luật La Mã. Tại Châu Âu vào thế kỷ XII và XIII diễn ra phong trào Văn hóa Phục hưng, trong đó có việc khôi phục truyền thống pháp luật La Mã (Corpus Juris Civilis). Sau khi tìm được nguyên văn Bộ Dân Luật Corpus Juris Civilis, các học giả đã bắt tay vào nghiên cứu, giải thích cũng như hiện đại hóa những nội dung luật cũ cho phù hợp với tình hình xã hội thời đó. Nơi nổi tiếng nhất trong việc nghiên cứu, truyền bá Bộ Dân luật La Mã này là các trường ĐH ở vùng Bắc nước Ý trong đó nổi tiếng nhất là ĐH Bologna. Từ trường ĐH này, các nhà luật học của các nước Châu Âu đã trở về nước của họ, truyền bá và gieo rắc tư tưởng cũng như nội dung của Dân luật La Mã. Họ mở trường luật ở Paris, Oxford, Prague, Heidelberg, Conpenhague; họ làm luật sư cho giáo hội, cho các vua chúa các vùng lãnh thổ khắp Châu Âu. Nhờ cùng được đào tạo chung theo 1 nội dung, luật gia của các nước Châu Âu đã tạo nên những Bộ dân luật của nước họ dựa trên nền tảng chung của Luật La Mã.
  1. Chia hệ thống pháp luật ra thành công pháp và tư pháp là đặc trưng chỉ có riêng của dòng họ pháp luật Civil Law
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Civil law đều chia thành công pháp và tư pháp. Đây là 1 đặc trưng của dòng họ civil law (các dòng họ PL khác không có). Ở Việt Nam thì chia thành các ngành luật, không có sự phân chia rõ ràng thành công pháp và tư pháp. Các nhà làm luật cho rằng không thể gộp chung luật công và luật tư, hơn nữa là để xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc cụ thể, trong các nước theo civil law tồn tại hệ thống tòa hành chính (giải quyết quan hệ công) và hệ thống tòa tư pháp (giải quyết quan hệ tư).
  1. Luật La Mã cũng phân chia thành luật công và luật tư giống như dòng họ pháp luật Civil Law
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Luật La Mã là bỏ quan hệ công ra khỏi hệ thống PL vì theo các luật gia La Mã (chủ yếu là giai cấp cấm quyền) phạm vi áp dụng của luật công là chính quyền, tức là nếu ban hành thì sẽ ràng buộc chính mình. Nên họ loại bỏ luật công do không muốn có những quy định ràng buộc chính mình
  1. Bộ luật Napoleon là bộ luật kinh điển cho dân luật các nước thuộc dòng họ Civillaw?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng.  Đối với Pháp: không chỉ có ý nghĩa về mặt PL mà còn có ý nghĩa về mặt văn hóa, được coi là bản “Hiến pháp dân sự” của người Pháp ; ngoài ra bộ luật rất gần gũi với người dân, được coi là “sách gối đầu giường” của mỗi người dân Pháp, thậm chí nhiều nhà văn còn học cách hành văn của bộ luật này. Đối với thế giới: ảnh hưởng lớn đến PL nhiều quốc gia, như Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, các nước Đông Phi, Bắc Phi,… Đặc biệt các nước Mỹ La-tin chịu ảnh hưởng rất lớn. Cá biệt có Thụy Sỹ bê nguyên thành luật nước mình. Bộ luật dân sự Napoleon 1804 được coi là bộ luật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.
  1. Bộ luật dân sự Pháp lại có “tính Đức” hơn cả Bộ luật dân sự Đức.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Vì bộ luật dân sự Pháp lấy rất nhiều tập quán Giec-manh của Đức vào, nên mang đậm tính Đức. Còn trong Bộ luật dân sự Đức lại không đưa các tập quán Giec-manh vào nên có ít tính Đức.
  1. Người pháp thích diễn đạt luật thành văn một cách dễ hiểu minh bạch?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Thể hiện qua Bộ luật Napoleon. Một trong các đặc điểm của Bộ luật dân sự Napoleon 1804 là đánh dấu sự phát triển của kỹ thuật lập pháp rất cao: logic, ngôn ngữ dễ hiểu, gần gũi, quy phạm PL chi tiết nhưng mềm dẻo, linh hoạt
  1. Bộ luật thương mại Pháp điều chỉnh tất cả các quy định của pháp luật thương mại
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Các quy định chủ yếu được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự Napoleon
  1. Tòa Phá án của Pháp không phải là cơ quan xét xử cao nhất đối với cả các phán quyết các Tòa án ở Pháp?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng.  Tòa phá án là tòa án cấp cao nhất của tư pháp (tương đương với Tòa án tối cao ở VN). “Phá án” không phải là khám phá vụ án, mà là “phá bỏ, phá hủy” bản án. Tòa phá án không trực tiếp xét xử vụ việc, mà chỉ xem xét các tòa án cấp dưới áp dụng luật nội dung, luật hình thức có sai sót không, nếu phát hiện sai sót thì “phá hủy” bản án đó và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho 1 tòa án khác cùng cấp để xét xử lại.
  1. Thẩm phán Pháp đều được đào tạo tại trường thẩm phán Bosdeou?
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Cử nhân luật tại Pháp nếu muốn trở thành thẩm phán tòa tư pháp thì theo học tại trường Bosdeou. Với thẩm phán tòa án hành chính: Học viện hành chính quốc gia Paris.
  1. Tất cả các thẩm phán của các toà án ở Pháp đều phải trải qua các khoá đào tạo thẩm phán tại các trường đào tạo thẩm phán ở Pháp.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Cử nhân luật tại Pháp nếu muốn trở thành thẩm phán tòa tư pháp thì theo học tại trường Bosdeou. Với thẩm phán tòa án hành chính: Học viện hành chính quốc gia Paris.
  1. Tất cả các bản án sơ thẩm về vụ việc dân sự, vụ án hình sự ở Pháp đều phải chuyển qua Tòa tư pháp phúc thẩm trước khi lên Tòa phá án.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Vì bản án của Tòa đại hình có thể kháng cáo, kháng nghị lên thẳng Tòa phá án mà không cần phải qua Tòa tư pháp phúc thẩm.
  1. Trong hệ thống tòa án Đức, tòa án tư pháp liên bang và tòa án tư pháp tối cao là một. 
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Vì tòa án cấp bang của Đức chỉ đến cấp phúc thẩm, còn tòa án tối cao thuộc cấp liên bang. Vì vậy có thể nói Tòa án tư pháp liên bang và Tòa án tư pháp tối cao đều có nghĩa như nhau.
  1. Ở Đức có đào tạo nghề luật có hai giai đoạn
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Đào tạo nghề luật ở Đức gồm hai giai đoạn: giai đoạn một là đào tạo cử nhân và giai đoạn hai là đào tạo nghề
  1. Ở dòng họ civil law, mức độ ảnh hưởng của luật La Mã đến luật công và luật tư là không giống nhau.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Vì luật La Mã chỉ ảnh hưởng đến luật tư, luật công thời La Mã không phát triển.
  1. Đối với các nước theo dòng họ PL civil law, điều ước quốc tế có giá trị pháp lý cao hơn các đạo luật quốc gia.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Vì hầu hết các nước theo civil law đều không đặt lợi ích quốc tế cao hơn lợi ích quốc gia, nên Hiến pháp có giá trị pháp lý cao hơn điều ước quốc tế, và giá trị pháp lý của điều ước quốc tế cao hơn các đạo luật khác của quốc gia. Ngoại trừ 2 quốc gia là Pháp và Hà Lan coi điều ước quốc tế có giá trị cao hơn cả Hiến pháp.
  1. Mặc dù bị ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết tam quyền phân lập, Hội đồng bảo hiến của Pháp vẫn có thể can thiệp vào hoạt động của Chính phủ bằng thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các hành vi của Chính phủ.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Hội đồng bảo hiến Pháp chỉ có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật, còn Tham chính viện mới có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến các hành vi của Chính phủ
  1. Tham chính viện là cơ quan bảo hiến thứ 2 của Pháp.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Tham chính viện mới có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến các hành vi của Chính phủ.
  1. Tương tự tòa án có thẩm quyền chung, các tòa án chuyên biệt của Đức đều được tổ chức thành 3 cấp.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Vì tòa án tài chính chỉ được tổ chức thành 2 cấp.
  1. Mặc dù Pháp và Đức cùng có hệ thống PL thuộc dòng họ civil law nhưng mức độ ảnh hưởng từ luật cổ đến Bộ luật dân sự Pháp và Bộ luật dân sự Đức không giống nhau.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Vì mức độ ảnh hưởng từ luật cổ đến BLDS Pháp cao hơn rất nhiều so với BLDS Đức (đến mức BLDS Pháp được coi là “có tính Đức” hơn cả BLDS Đức)

 

Chương III: Dòng họ Common Law

  1. Dòng họ PL Anglo – Saxon là tên gọi khác của dòng hộ pháp luật Common Law
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng.  Anglo và Saxon là các tộc người Đức cổ, đã xâm chiếm nước Anh và thay thế cho người La Mã cai trị nước Anh, và đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng hệ thống PL Anh
  1. Dòng họ pháp luật Common Law còn được gọi là dòng họ pháp luật án lệ
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Tên gọi dòng họ PL án lệ là để so sánh với PL thành văn của dòng họ civil law. Tuy nhiên ngày nay thì PL thành văn ngay cả ở Anh, Mỹ cũng đã có vai trò ngang với án lệ
  1. Cũng giống như dòng họ pháp luật Civil Law, dòng họ pháp luật Common Law được mở rộng qua hai con đường là thông qua cưỡng bức thuộc địa và tự nguyện học hỏi.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Common Law chỉ có 1 con đường duy nhất là con đường ép buộc thông qua cưỡng bức thuộc địa. Điều này khác với Civil Law có 2 con đường mở rộng là thông qua cưỡng bức thuộc địa và tự nguyện học hỏi
  1. Trong đòng họ pháp luật Common Law, pháp luật thành văn được các cơ quan tư pháp ban hành.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Nếu PL thành văn của các nước châu Âu lục địa được ban hành bởi cơ quan lập pháp thì Common law do cơ quan tư pháp ban hành.
  1. Nguyên nhân xuất hiện equity là do common law đã bộc lộ nhiều hạn chế ở cả luật nội dung và luật hình thức
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Luật nội dung: Phán quyết của các thẩm phán Tòa hoàng gia không còn chính xác: lý do vì thẩm phán chỉ dựa vào tuyển tập án lệ để ra phán quyết, nhưng đến thế kỷ 15 các quan hệ xã hội đã thay đổi rất nhiều so với trước đó dẫn đến hạn chế khi xét xử. Luật hình thức: Nguyên đơn chỉ cần chọn sai trát là bị mất quyền khởi kiện: có đến gần 100 trát, người dân thường không thể có kiến thức sâu sắc về PL nên đây là quy định gây rất nhiều bức xúc trong dân chúng
  1. Chế định ủy thác là chế định đặc trưng của Common Law
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Chế định ủy thác là chế định đặc trưng của common law (chế định đặc trưng của civil law là luật nghĩa vụ). Chế định ủy thác được coi là thành tựu lớn nhất của Tòa đại pháp, của equity.
  1. Pháp luật Anh – Mỹ sử dụng duy nhất là án lệ.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
SAI. Cũng như các nước thuộc dòng họ Common Law coi trọng án lệ (case law), ở Anh tuy luật thành văn không phải nguồn cơ bản nhưng chúng vẫn được sử dụng như một nguồn luật. Các văn bản pháp luật của Anh bao gồm các văn bản pháp luật do Nghị viện trực tiếp ban hành được gọi là các “Đạo luật công” nhằm bổ sung hoặc thay thế án lệ trên nhiều lĩnh. Thậm chí luật do Nghị viện Anh ban hành còn có hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm ra vì được làm ra nhằm bổ sung hoặc thay thế án lệ. Đạo luật thành văn có thể phủ nhận hiệu lực trong tương lai của 1 án lệ nào đó và thậm chí còn có hiệu lực hồi tố, có thể làm cho bản án nào đó đã tuyên trở nên vô hiệu. Hiến pháp Mỹ, với tư cách là một hiến pháp thành văn, là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý tối cao đối với người Mỹ, là đạo luật cơ bản của quốc gia.
  1. Cũng giống như dòng họ pháp luật Civil Law, Common law cũng phân chia thành luật công và luật tư.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Common Law không có sự phân chia PL thành luật công và luật tư. Mặc dù trong lịch sử nước Anh đã từng có thời kỳ có sự phân chia hệ thống PL thành luật công và luật tư, nhưng chỉ nhằm mục đích xác định các thủ tục tố tụng tương ứng, chứ không nhằm mục đích như với Civil law.
  1. Các thẩm phán trong dòng họ pháp luật Common Law chỉ có vai trò xét xử.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Ngoài vai trò xét xử, các thẩm phán có vai trò quan trọng trong sáng tạo quy phạm PL
  1. Vì là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật nước Anh nên nguyên tắc Stare decisis – “tiền lệ phải được tuân thủ” có tính chất hoàn hảo, không nhược điểm.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Trong một số trường hợp thông luật Anh (Common Law) vẫn bộc lộ một số nhượcà điểm và các nhược điểm này được bổ khuyết bởi chế định luật công bằng (Equity Law).
  1. Luật thành văn là nguồn luật thứ yếu tại Anh.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Không thể nói luật thành văn là nguồn luật thứ yếu tại Anh. Trong vài thập kỷ gần đây, tại Anh, án lệ (case law) đã không còn là một nguồn luật duy nhất (mặc dù nó vẫn là nguồn luật cơ bản và chính thống) mà thực tế là luật thành văn đã ngày càng trở nên một nguồn luật quan trọng, thậm chí là nguồn luật quan trọng hàng đầu, đặc biệt đối với các lĩnh vực không có án lệ. Hơn nữa, thực tiễn hội nhập về kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới nói chung và các nước có hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Common Law nói riêng đã buộc các quốc gia phải thực hiện các cam kết quốc tế mà họ đã ký kết hoặc tham gia. Trong tiến trình đó, các quốc gia (trong đó có Anh) phải nội luật hóa các cam kết quốc tế bằng cách sửa đổi luật hiện hành có liên quan hoặc ban hành luật mới nếu chưa có luật điều chỉnh trên lĩnh vực đó. Việc làm này chỉ có thể được tiến hành một cách nhanh gọn và dứt khoát bằng con đường xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thành văn.
  1. Mọi bản án của tòa án cấp trên đều là án lệ trong hệ thống pháp luật Anh
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Chỉ có những bản án được xuất bản mới trở thành án lệ (trong Tuyển tập án lệ) trong hệ thống pháp luật Anh. Các phần của bản án được coi là án lệ phải gồm 2 phần. Thứ nhất, Ratio Decidendi: chứa các quy phạm pháp luật, nguyên tắc pháp lý để đưa ra phán quyết. Phần này có giá trị ràng buộc đối với các thẩm phán áp dụng để xét xử sau này. Thứ hai, Obiter Dictum: bình luận, nhận xét của thẩm phán để lý giải thêm. Phần này chỉ có giá trị tham khảo.
  1. Trong hệ thống pháp luật Anh, luật thành văn được ưu tiên áp dụng.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Luật thành văn ở Anh chỉ được ưu tiên áp dụng trong một số trường hợp nhằm bổ sung hoặc thay thế án lệ trên một số lĩnh vực cụ thể. Các văn bản pháp luật của Anh trước tiên bao gồm các văn bản pháp luật do Nghị viện trực tiếp ban hành được gọi là các “Đạo luật công” nhằm bổ sung hoặc thay thế án lệ trên nhiều lĩnh vực. Có thể đưa ra đây 1 số ví dụ: Về luật nội dung có Đạo luật Tòa địa hạt 1984 (County Courts Act 1984); Về luật hình thức có: Các quy tắc tố tụng dân sự 1998 (Civil Procedure Rules 1998 gọi tắt là CPR), Đạo luật Tòa án 1971 (Courts Act 1971) hay Đạo luật cải tổ hiến pháp 2005 (Constitutional Reform Act 2005)…. Trong các trường hợp như vậy, luật do Nghị viện Anh ban hành sẽ có hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm ra vì chúng được làm ra nhằm bổ sung hoặc thay thế án lệ. Và chỉ trong các trường hợp này, Đạo luật do Nghị viện ban hành mới có thể phủ nhận hiệu lực trong tương lai của 1 án lệ và thậm chí còn có hiệu lực hồi tố, làm cho bản án nào đó đã tuyên trở nên vô hiệu.
  1. Pháp luật của Anh hình thành từ thực tiễn xét xử.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn

Đúng. Sự ra đời của thông luật Anh (Common Law) bắt nguồn từ cơ chế xét xử lưu động có từ thời Vua Henry II thế kỷ XV. Đó là việc vào mùa hè các thẩm phán của Tòa án Hoàng gia tỏa đi khắp đất nước để tiến hành XX. Đến mùa đông thì họ lại tập trung về Wesminster để ngồi lại trao đổi rút kinh nghiệm. Như vậy, thông qua quá trình thực tiễn XX, các thẩm phán hoàng gia ra quyết định giải quyết tranh chấp theo 1 cách thức đặc biệt: phụ thuộc vào cách họ hiểu và nhận thức như thế nào về các tập quán địa phương. Cũng trong quá trình XX lưu động khắp đất nước, các Thẩm phán sẽ có cơ hội làm quen với nhiều tập quán khác nhau. Đến khi trở về Wesminter vào mùa đông thì các Thẩm phán lại có cơ hội gặp gỡ và trao đổi vễ những kinh nghiệm trong thực tiễn XX của mình. Những trao đổi này thường xoay quanh những vụ án mà họ đã XX, những tập quán mà họ đã áp dụng và cả những phán quyết mà họ đã đưa ra.

Trong quá trình thảo luận họ phân tích những điểm mạnh và cả những điểm yếu của các tập quán khác nhau để có thể áp dụng để giải quyết những vụ việc tương tự, từ đó hình thành thói quen khi XX các Thẩm phán thường tự nguyện tham khảo các phán quyết đã có sẵn để giải quyết các vụ việc có tính tương đồng về mặt tình tiết. Càng về sau các Thẩm phán Hoàng gia ngày càng áp dụng thường xuyên hơn các quyết định giống nhau trên khắp đất nước và cuối cùng Common Law (nghĩa là luật chung) đã dần thay thế cho các tập quán địa phương.

  1. Thông luật Anh hình thành từ các nhà lập pháp dựa trên các tập quán địa phương.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn

SAI: Thông luật Anh (Common Law) được hình thành bằng con đường nội tại và doà chính các thẩm phán của Tòa án Hoàng gia tạo ra. Sự ra đời của thông luật Anh (Common Law) bắt nguồn từ cơ chế xét xử lưu động có từ thời Vua Henry II thế kỷ XV. Đó là việc vào mùa hè các thẩm phán của TA Hoàng gia tỏa đi khắp đất nước để tiến hành XX. Đến mùa đông thì họ lại tập trung về Wesminster để ngồi lại trao đổi rút kinh nghiệm. Như vậy, thông qua quá trình thực tiễn XX, các thẩm phán hoàng gia ra quyết định giải quyết tranh chấp theo 1 cách thức đặc biệt: phụ thuộc vào cách họ hiểu và nhận thức như thế nào về các tập quán địa phương. Cũng trong quá trình XX lưu động khắp đất nước, các thẩm phán sẽ có cơ hội làm quen với nhiều tập quán khác nhau. Đến khi trở về Wesminter vào mùa đông thì các thẩm phán lại có cơ hội gặp gỡ và trao đổi vễ những kinh nghiệm trong thực tiễn XX của mình.

Những trao đổi này thường xoay quanh những vụ án mà họ đã XX, những tập quán mà họ đã áp dụng và cả những phán quyết mà họ đã đưa ra. Trong quá trình thảo luận họ phân tích những điểm mạnh và cả những điểm yếu của các tập quán khác nhau để có thể áp dụng để giải quyết những vụ việc tương tự, từ đó hình thành thói quen khi XX các thẩm phán thường tự nguyện tham khảo các phán quyết đã có sẵn để giải quyết các vụ việc có tính tương đồng về mặt tình tiết. Càng về sau các thẩm phán Hoàng gia ngày càng áp dụng thường xuyên hơn các quyết định giống nhau trên khắp đất nước và cuối cùng Common Law (nghĩa là luật chung) đã dần thay thế cho các tập quán địa phương.

  1. Các tòa án ở Mỹ cũng tuân theo nguyên tắc tiền lệ pháp (Stare Decicis), nhưng linh hoạt, mềm dẻo hơn so với Anh
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Khi xem xét án lệ trong quá khứ, thẩm phán tại Mỹ đặt sự quan tâm lên các chính sách của liên bang, tiểu bang tại thời điểm xảy ra án lệ trong quá khứ đó, để xem án lệ đó có phù hợp để áp dụng cho hiện tại. Đây là đặc điểm rất tiến bộ trong việc áp dụng án lệ của Mỹ so với Anh, tạo ra sự chủ động, kích thích sự sáng tạo của thẩm phán Mỹ do đó thẩm phán Mỹ rất thoải mái khi tạo ra án lệ mới cho những vụ việc cũ nếu họ chứng minh được hoàn cảnh thay đổi, chính sách thay đổi, làm cho cách giải quyết cũ không còn phù hợp.
  1. So với ở Anh thì quyền lực tư pháp ở Mĩ kém tập trung hơn
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Vì hệ thống tòa án của Mỹ là hệ thống kép: gồm Hệ thống tòa án liên bang, và Hệ thống tòa án bang (tổng cộng 52 hệ thống tòa án). Các hệ thống tòa án có thẩm quyền độc lập: độc lập giữa các tiểu bang với nhau (vụ việc xảy ra ở bang nào thì bang đó có thẩm quyền, không phụ thuộc vào công dân đó thuộc bang nào), độc lập giữa tiểu bang và liên bang
  1. Ở Mỹ, chỉ cần có bằng tốt nghiệp tường đương với bằng tốt nghiệp trung học phổ thông ở Việt Nam là có thể ghi danh vào trường luật.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Đào tạo luật ở Mỹ được coi là đào tạo sau đại học, người tốt nghiệp 1 văn bằng đại học rồi mới được xem xét đào tạo luật. Vì Mỹ quan niệm bậc học đại học là để tiếp thu những kiến thức nền tảng để phục vụ cho việc tiếp thu những kiến thức pháp lý trong từng chuyên ngành hẹp. VD người muốn hành nghề luật sư trong lĩnh vực kinh doanh thường có bằng về thương mại hoặc quản trị kinh doanh; người muốn hành nghề luật sư về thuế thường có bằng về tài chính – ngân hàng; người muốn có bằng luật sư về môi trường thường có bằng về sinh học – hóa học, …
  1. Tại Mỹ, việc bảo hiến không được giao cho một cơ quan chuyên trách.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Khác với Pháp, Đức có cơ quan chuyên trách bảo vệ hiến pháp, các cơ quan bảo hiến này hoạt động độc lập, không nằm trong nhánh lập pháp, hành pháp, hay tư pháp. Còn ở Mỹ không có cơ quan chuyên trách bảo vệ hiến pháp, mà chức năng bảo hiến được giao cho tất cả các tòa án (tức là giao cho cơ quan tư pháp).
  1. Tại Mỹ, nguồn luật không bao gồm tập quán pháp
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Mỹ là quốc gia non trẻ, dân cư bản địa là người da đỏ đã bị đồng hóa theo người da trắng nên những tập quán của người da đỏ không còn được áp dụng. Cư dân Mỹ đa sắc tộc, đến từ khắp nơi trên thế giới nên không thể áp dụng tập quán (vì chắc chắn sẽ không thể có được sự đồng thuận chung, sẽ gây mâu thuẫn nếu áp dụng). Tuy nhiên PL Mỹ vẫn thừa nhận tập quán pháp, nhưng chỉ là những tập quán chung áp dụng trong thương mại quốc tế
  1. Tại Mỹ tồn tại rất nhiều hệ thống pháp luật, tương ứng với các bang sẽ có một hệ thống pháp luật.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Nhà nước Mỹ gồm 50 bang, nhưng lại có 52 hệ thống PL khác nhau: 50 hệ thống pháp luật tương ứng với 50 bang, 1 hệ thống pháp luật chung của Liên bang, 1 hệ thống pháp luật của quận Clumbia.
  1. Ở Mỹ tồn tại rất nhiều hệ thống pháp luật nên không tránh khỏi những chồng chéo giữa các bộ luật.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Mặc dù có nhiều hệ thống pháp luật nhưng lại không xảy ra chồng chéo. Lý do vì được tổ chức rất khoa học: phân chia theo lĩnh vực: tiểu bang và liên bang có sự phân chia thẩm quyền rõ ràng. Hầu hết các luật tư do tiểu bang ban hành, như luật về hợp đồng, công ty, giao dịch, thừa kế, sở hữu, … Liên bang chủ yếu ban hành các luật công và một số luật tư mang tầm quốc gia như luật hàng hải, phá sản, tiền tệ, thuế, … Mỗi tiểu bang có hệ thống PL riêng thuộc thẩm quyền của mình. Nếu luật liên bang không điều chỉnh đầy đủ thì tiểu bang có quyền ban hành luật bổ sung những thiếu sót đó. Các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của bang thì liên bang không được can thiệp, không được ban hành luật điều chỉnh. Luật bang nào chỉ được áp dụng trong phạm vi bang đó và các bang tôn trọng pháp luật của nhau.
  1. Hiến pháp Mỹ chỉ gói gọn trong 7 điều
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Hiến pháp Mỹ được ban hành năm 1787, rất ngắn gọn (chỉ gồm 7 điều), đến nay vẫn còn hiệu lực. Ngoài ra còn có Tuyên ngôn nhân quyền năm 1791.

Chương V: Pháp luật Hồi Giáo

  1. Pháp luật Hồi Giáo mang tính ổn định và mềm dẻo, thích ứng với sự phát triển của xã hội
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Luật Hồi giáo mang tính ổn định và có tính mềm dẻo: mặc dù đã ra đời cách nay 1300 năm, nhưng luật Hồi giáo vẫn còn phù hợp với các quốc gia hồi giáo hiện nay. Điều đó cho thấy sự thích ứng của luật Hồi giáo rất cao với sự phát triển của xã hội
  1. Một quốc gia mà đa số dân theo Hồi giáo thì được coi là thuộc hệ thống pháp luật Hồi giáo.
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Inđonesia ở Đông Nam Á và Thổ Nhĩ Kỳ ở Châu Âu tuy có đa số dân theo Hồi giáo nhưng không phải là 1 quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Hồi giáo bởi lẽ để thuộc hệ thống pháp luật Hồi Giáo thì một quốc gia phải thỏa mãn đầy đủ 2 điều kiện: (i) Hồi giáo phải là tôn giáo chính thống hay quốc đạo của quốc gia đó; và (ii) pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng của Đạo Hồi và các qui định của nó. Như vậy, Indonesia và Thổ Nhĩ Kỳ tuy thỏa mãn điều kiện thứ nhất nhưng không được coi là thuộc hệ thống pháp luật Hồi Giáo do không thoả mãn được điều kiện thứ hai: có nghĩa là pháp luật buộc phải được xây dựng trên cơ sở Thánh kinh Coran.
  1. Các quy định của luật Hồi giáo hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của nhà nước
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Các quy định của luật Hồi giáo hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của nhà nước, không quyền lực nào có thể thay đổi được luật Hồi giáo: luật Hồi giáo ra đời gắn với nhà tiên tri Mohammed, và đây là nhà tiên tri duy nhất của đạo hồi (không có nhà tiên tri thứ 2).
  1. Phạm vi điều chỉnh của luật Hồi giáo là rất rộng
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Đúng. Luật Hồi giáo có phạm vi điều chỉnh rộng: điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống, điều chỉnh cả những vấn đề rất “nhỏ, hẹp” như quan hệ trong gia đình, cho đến những quan hệ “vĩ mô” như việc đối nội, đối ngoại của quốc gia, cả việc hợp tác quốc tế giữa các quốc gia.
  1. Luật Hồi giáo có nguồn tương tự như các dòng họ pháp luật khác trên thế giới
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Luật Hồi giáo có 4 loại nguồn: nguồn cơ bản: kinh Koran, Sunna và nguồn phụ trợ: Ijma, Qias
  1. Vì là nguồn luật quan trọng nhất nên toàn bộ nội dung kinh Koran là luật
Nội dung đang xem
Nội dung hướng dẫn
Hướng dẫn
Sai. Chỉ có 3% nội dung của Kinh Koran được coi là luật. Nội dung của Kinh Koran rất rộng, bao gồm luật gia đình, luật dân sự, luật hình sự, luật thương mại, … và cả luật quốc tế

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *