Các hình thức đồng phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015

[VPLUDVN] Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Đồng phạm là thuật ngữ quen thuộc trong luật hình sự nước ta, tuy nhiên trong thực tiễn việc xác định yếu tố đồng phạm gặp rất nhiều khó khăn do tính phức tạp của tội phạm và các yếu tố khác tác động, vì vậy việc nghiên cứu vấn đề đồng phạm trong luật hình sự nước ta là rất cần thiết.

Đồng phạm là một khái niệm nói lên quy mô tội phạm thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia.

Việc có nhiều người tham gia không phải là điều kiện đủ để kết luận là có đồng phạm mà nhiều người tham gia đó phải cấu kết với nhau cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

Ví dụ: A rủ B cùng thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy SH của C, nhưng khi A lấy trộm cái xe máy xong thì B lại lẻn vào nhà lấy cái điện thoại của vợ C. Như vậy tuy cùng là hành vi trộm cắp tài sản nhưng A, B không phải đồng phạm vì không cùng thực hiện một hành vi phạm tội.

Phạm tội có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Đây còn là một hinh thức đồng phạm có sự phân công, sắp xếp, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều kiển của người cầm đầu.

Ví dụ: Trong một kế hoạch bắt cóc, A bàn bạc và phân công nhiệm vụ cho B dò la tin tức, theo dõi thói quen sinh hoạt của nạn nhân, C đứng ngoài canh cửa và báo động khi có nguy hiểm, D phá khóa và bịt miệng nạn nhân bằng vải tẩm thuốc mê, E đánh lạc hướng người đi đường, A cùng F vào nhà bắt cóc nạn nhân, K có nhiệm vụ lấy ô tổ chở nạn nhân và tất cả cùng tẩu thoát.

Các kiểu người đồng phạm

(i) Người thực hành:Là người trực tiếp thực hiện tội phạm,trực tiếp có hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm như: Trực tiếp dung sung bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận lối hộ,..

Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Dù là đồng phạm giản đơn hay phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện.

(ii) Người tổ chức:Là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Chỉ trong trường hợp phạm tội có tổ chức mới có người tổ chức.

Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi xướng việc tội phạm; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm…

(iii) Người xúi dục:Là người kính động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vị có người khác xúi dục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm.

Nếu việc xúi dục không liên quan trực triếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm.

Tuy nhiên, nếu xúi dục trẻ em dưới 14 tuổi phạm tội, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi dục được coi là hành vi thực hành

thông qua hành vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không phải chịu trách nhiệm hình sự trở thành công cụ để người xúi dục thực hiện tội phạm. Nếu xúi dục trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xúi dục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi dục người chưa thành niên tội phạm”

(iv) Người giúp sức:Là người tạo điều những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng; nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện tội phạm hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do tội phạm mà có…

Trường hợp: Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành. Được hiểu như sau:

Ví dụ: A và B là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản, nhưng sau khi A bị chủ nhà phát hiện, đã dùng dao giết người. Trường hợp này A sẽ chịu trách nhiệm hình sự về 2 tội là tội trộm cắp tài sản và tội giết người, B sẽ chỉ là đồng phạm với A về tội trộm cắp tài sản.

Các hình thức đồng phạm

(i) Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan, đồng phạm được phân loại thành đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm không có thông mưu trước.

Đồng phạm không có thông mưu trước: là hình thức đồng phạm mà giữa những người đồng phạm không có sự bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau về việc tham gia thực hiện tội phạm.Ví dụ: Trong một vụ trộm cắp tài sản, A nhờ B là xe ôm chở đến ngôi nhà chủ nhân đi vắng để thực hiện hành vi trộm cắp, đến nơi A nói với B bên trong nhà có nhiều tài sản có giá trị và rủ B cùng tham gia, B đồng ý. Cả hai cùng thực hiện hành vi trộm cắp đó là đồng phạm không có sự thông mưu trước.

Đồng phạm có thông mưu trước: là hình thức đồng phạm mà những người đồng phạm đã có sự bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau về hành vi tội phạm sẽ cùng nhau tham gia thực hiện.Ví dụ: Trường hợp A và B là bạn, cùng thỏa thuận trước ở nhà để chuẩn bị thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì được coi là đồng phạm có thông mưu trước.

(ii) Căn cứ vào dấu hiệu khách quan, đồng phạm được phân loại thành đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.

Đồng phạm giản đơn: là hình thức đồng phạm không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ, vai trò chặt chẽ trước. Tất cả những người đồng phạm cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm đều có vai trò là người thực hành.Ví dụ: A rủ B và C vào công ty lấy trộm một thùng hàng có giá trị.

Đồng phạm phức tạp: là hình thức đồng phạm có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể đối với từng người khi tham gia thực hiện hành vi phạm tội. Trong đó có một hoặc một số người tham gia có vai trò là người thực hành, còn những người khác giữ vai trò tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức.Ví dụ: A vạch rõ kế hoạch vào công ty lấy trộm thùng hàng có giá trị, rồi sai đàn em của mình là B và C thực hiện kế hoạch. Trong đó B là người canh giữ bên ngoài và chuẩn bị xe để tẩu thoát, còn C là người trực tiếp vào trong kho lấy trộm.

(iii) Căn cứ vào những đặc điểm khách quan và chủ quan của quan hệ giữa những người đồng phạm, đồng phạm được phân đồng phạm có tổ chức (phạm tội có tổ chức).

Phạm tội có tổ chức: là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp lý của nó được quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật Hình sự: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Thường là sự kết hợp của đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm phức tạp.

Đồng phạm không có tổ chức:Phạm tội không có tổ chức là hình thức đồng phạm không có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *