[VPLUDVN] Theo quy định tại Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình 2014:
“1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.”
Theo quy định trên, khi một bên bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì người kia có quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng hoặc người chết để lại di chúc có chỉ định người khác quản lý hoặc những người thừa kế thỏa thuận người quản lý. Nếu gia đình người đã chết yêu cầu chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng chị sẽ được chia đôi nếu trước đó vợ chồng không có thỏa thuận khác.
Thứ hai: Vấn đề di sản của người đã chết
Về vấn đề di sản của người đã chết sẽ chia thành 2 trường hợp sau:
1. Trường hợp 1: Nếu người chết và để lại di chúc:
Trường hợp tài sản chung của vợ chồng đã được chia đôi hoặc theo thỏa thuận trước đó của hai vợ chồng thì số tài sản thuộc về người đã chết sẽ được chia theo di chúc. Kể cả trường hợp trong di chúc chị không được hưởng thừa kế thì người còn sống vẫn được chi di sản theo quy định của Điều 669 Bộ luật dân sự 2005 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
– Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
– Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”
2. Trường hợp 2: Nếu như người chết mà không có di chúc
Khi người chết mà không để lại di chúc thì di sản của họ sẽ được chia theo pháp luật. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo đBộ luật dân sự 2015 sẽ được hưởng di sản của người chết: Đó là: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.