Khái niệm đồng phạm và các đấu hiệu của đồng phạm

[VPLUDVN] Tội phạm có thể chỉ do một người thực hiện nhưng cũng có thể do nhiều người cùng gây ra. Trường hợp có nhiều người cố ý cùng thực hiện tội phạm được gọi là đồng phạm. Trong luật hình sự, đồng phạm được coi là hình thức phạm tội đặc biệt.

1. Khái niệm đồng phạm

Cơ sở và phạm vi trách nhiệm hình sự trong đồng phạm có điểm khác so với trường hợp phạm tội riêng lẻ và do vậy có những điều luật riêng quy định bổ sung về trách nhiệm hình sự của đồng phạm cũng như của từng loại người đồng phạm và quy định những nguyên tắc xử lí có tính chất riêng cho trường hợp phạm tội này. Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cổ ý cùng thực hiện một tội phạm ”

Với cách quy định này, người có hành vi tổ chức, hành vi xúi giục hoặc hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm chi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã xác định vụ án thỏa mãn các dấu hiệu của đồng phạm. Trong trường hợp có nhiều người tham gia vào vụ phạm tội nhưng không có đủ dấu hiệu cùa đồng phạm (có thể là không phổ biến) thì không có sơ sở pháp lí cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi tổ chức, xúi giục và giúp sức (thực hiện tội phạm). Giáo trình được viết theo trật tự trình bày của Điều 17 BLHS. Đúng ra, các hành vi thực hiện tội phạm, và hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức thực hiện tội phạm phải được trình bày trước để làm rõ những hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự và cũng để có cơ sở trình bày hình thức phạm tội đặc biệt là đồng phạm.

2. Phân tích các dấu hiệu của đồng phạm

Theo nội dung này, đồng phạm đòi hỏi có những dấu hiệu sau:

2.1 Những dấu hiệu về mặt khách quan

Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu:

– Có từ hai người trở lên và

– Cùng thực hiện tội phạm.

Về dấu hiệu thứ nhất: Đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Đó là điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự (có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự). Dấu hiệu chủ thể đặc biệt không đòi hỏi phải có ở tất cả những người đồng phạm mà chỉ đòi hỏi ở một loại người đồng phạm là người thực hành.(1)

Về dấu hiệu thứ hai: Cùng thực hiện tội phạm có nghĩa, người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi sau:

– Hành vi thực hiện tội phạm (thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm). Người có hành vi này được gọi là người thực hành;

– Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (tổ chức thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm). Người có hành vi này được gọi là người tổ chức;

– Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm (xúi giục người khác thực hiện hành vi được mô tả trong C cấu thành tội phạm). Người có hành vi này được gọi là người xúi giục;

– Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm (giúp sức người khác thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm). Người có hành vi này được gọi là người giúp sức.

Trong vụ đồng phạm có thể có đủ bốn loại hành vi tham gia nhưng không đòi hỏi nhất thiết phải như vậy và có thể chỉ có một loại hành vi tham gia. Người đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi nhưng cũng có thể tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu nhưng cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc.

Bằng những hành vi cụ thể như trình bày trên, tất cả những người đồng phạm đều có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Những hành vi đó được thực hiện trong mối liên kết thống nhất với nhau. Hành vi của mỗi người là một phần của hành vi phạm tội chung. Có thể tất cả những người đồng phạm đều trực tiếp thực hiện tội phạm và tổng họp các hành vi của họ tạo thành hành vi phạm tội có đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhất định nhưng cũng có thê chỉ có một hoặc một sô người trực tiếp thực hiện tội phạm còn những người khác chỉ có hành vi “góp phàn” vào việc thực hiện tội phạm. Hậu quả thiệt hại của tội phạm là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người tham gia vào việc thực hiện tội phạm đưa lại. Giữa hành vi của mỗi người và hậu quả thiệt hại của tội phạm đều có quan hệ nhân quả. Hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả thiệt hại còn hành vi của những người khác (tổ chức, xúi giục, giúp sức) phải thông qua hành vi của người thực hành để gây ra hậu quả đó.

2.2 Những dấu hiệu về mặt chủ quan

về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Ngoài ra, đối với những tội có dấu hiệu mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải có cùng mục đích phạm tội đó.

a. Dấu hiệu lỗi

Khi thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Lỗi cô ý trong đồng phạm được thể hiện như sau:

* về lí trí: Mỗi người đều biết hành vi của mình có tính gây thiệt hại cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi như vậy cùng với mình.

Nếu chỉ biết mình có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội mà không biết người khác cũng có hành vi như vậy với mình thì chưa thoả mãn dấu hiệu lỗi cố ý trong đồng phạm và dọ vậy không có đồng phạm. Ví dụ’. Khi mượn xe của B để dùng làm phương tiện cho việc ttộm cắp tài sản (phân đạm) ttong kho của một công ti, A đã nói dối là cần xe vào việc hợp pháp. B biết ý định thật của A nhưng do thù tức thủ kho nên đã vờ vô tình cho mượn. Trong vụ án này, A chỉ biết mình có hành vi trộm cắp mà không biết B có hành vi giúp sức cho mình. Do vậy, A và B không đồng phạm với nhau.

Về lí trí, mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả thiệt hại của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.

* về ý chí: Những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả thiệt hại xảy ra.[1] [2] Những trường hợp không mong muốn có sự liên kết hành vi để cùng gây ra hậu quả thiệt hại như trường hợp nhiều người cùng múc trộm dầu trong bể chứa của cơ quan nhưng giữa họ không có sự rủ rê nhau là trường hợp phạm tội riêng lẻ. Cũng chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ, khi các hậu quả thiệt hại mà những người có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội mong muốn không đồng nhất với nhau.

b. Dấu hiệu mục đích phạm tội

Ngoài hai dấu hiệu cùng thực hiện và cùng cố ý, đồng phạm còn đòi hỏi dấu hiệu cùng mục đích phạm tội trong trường hợp đồng phạm những tội có mục đích phạm tội là dấu hiệu được mô tả ttong cấu thành tội phạm.

Ví dụ: Đồng phạm những tội thuộc Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Được coi là cùng mục đích khi những người tham gia đều có chung mục đích được phản ánh trong cấu thành tội phạm hoặc biết rõ và tiếp nhận mục đích đó. Trường họp người chở thuê cho những người khác trốn đi nước ngoài, mặc dù đã biết rõ những người này có mục đích chông lại chính quyền nhân dân là ví dụ về trường hợp biết rõ và tiếp nhận mục đích của nhau. Trong trường hợp này, người chở thuê bị coi là người đồng phạm (người giúp sức) về tội phạm được quy định tại Điều 121 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 mặc dù họ không có mục đích chống lại chính quyền nhân dân.

Nếu không thoà mãn dấu hiệu cùng mục đích sẽ không có đồng phạm. Trong trường hợp này, những người tham gia sẽ chịu trách nhiệm hình sự độc lập với nhau.

Ví dụ: A thuê B giết người với mục đích chống lại chính quyền nhân dân nhưng B không biết mục đích đó,. Trong trường hợp này không có đồng phạm về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).

3. Căn cứ xác định vụ án đồng phạm.

– Căn cứ khách quan:

+ Căn cứ vào số lượng người tham gia trong vụ án, căn cứ vào tính liên kết về hành vi cùng thực hiện một tội phạm, căn cứ vào hậu của do vụ án đồng phạm gây ra.

+ Căn cứ và số lượng người trong vụ án: Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định trong vụ án đồng phạm phải có từ hai người trở lên, những người này đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

+ Căn cứ vào tính liên kết về hành vi: Những người trong vụ án đồng phạm phải cùng nhau thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt chẽ với hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội phạm thuận lợi, nói cách khác hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi của đồng phạm kia. Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại chung của tội phạm.

+ Căn cứ vào hậu quả tác hại: Hậu quả tác hại do tội phạm gây ra trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra. Hành vi của mỗi người trong vụ án đề là nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có người trực tiếp, người gián tiếp gây ra hậu quả tác hại. Đây là đặc điểm về quan hệ nhân quả trong vụ án đồng phạm.

– Căn cứ chủ quan:

Tất cả những người trong vụ án đồng phạm phải có hình thức lỗi cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Tất cả họ đều thấy rõ hành vi của toàn bộ những người trong vụ án đềy nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng phạm đều thấy trước hành vi của mình và hành vi của người đồng phạm khác trong vụ án đồng phạm là nguy hiểm, thấy trước hành vi của tất cả những người đòng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại. Vụ án có yếu tố đồng phạm khác vụ án thông thường do một người thực hiện ở những điểm sau đây:

Vụ án có yếu tố đồng phạm có hai người trở lên, còn vụ án khác chỉ có một người thực hiện.

Thông thường vụ án đồng phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm hơn vụ án do một người thực hiện.

Vụ án đồng phạm có hình thức lỗii cố ý, còn vụ án do một người thực hiện có thể cố ý hoặc vô ý.

Hành vi của những người trong vụ án đồng phạm có sự liên kết chặt chẽ để cùng thực hiện một tội phạm, còn hành vi của người phạm tội đơn lẻ không liên kết với ai.

Hậu quả tác hại trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra, hậu quả tác hại trong vụ án do một người thực hiện là hậu quả riêng do chính hành vi của người đó gây ra.

4. Hình phạt đối với đồng phạm trong vụ án trộm cắp tài sản.

Bộ luật hình sự có quy định:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Tài sản là bảo vật quốc gia;

g) Tái phạm nguy hiểm.

Phạm tội có tổ chức là một hình thức cao của đồng phạm, có sự cấu kết chặt chẽ và phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.

Như vậy nếu trộm cắp tài sản có tính tổ chức thì những người tham gia vào vụ trộm cắp nào được xác định là đồng phạm.

5. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm.

Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 như sau:
Điều 58. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm.
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Toà án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.”
Như vậy, mức án cho mỗi đồng phạm được quyết định dựa trên nhiều yếu tố. Bạn cần xem xét đầy đủ các yếu tố liên quan quy định tại Điều 58 nêu trên để xác định rõ hơn trách nhiệm hình sự với mỗi đồng phạm.
Sưu tầm và Biên tập

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *