Khái niệm luật hình sự? Vì sao Luật hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam?

[VPLUDVN] Luật hình sự Việt Nam ra đời và phát triển như thế nào? Luật hình sự có phải là một ngành luật độc lập hay không? 

1. Vì sao Luật hình sự là một ngành luật độc lập ?

Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm – loại vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao hơn hẳn so với các loại vi phạm pháp luật khác cho xã hội. Nhà nước sử dụng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp pháp luật hình sự. Biện pháp này được Nhà nước sử dụng thể hiện trước hết qua hoạt động xây dựng pháp luật mà kết quả là các văn bản quy phạm PLHS quy định về tội phạm và hình phạt được ra đời.

1.1. Khái niệm Luật Hình sự

“Luật Hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quy định tội phạm, xác định hình phạt với các tội phạm nhằm đấu tranh chống tội phạm, loại trừ mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội. Luật Hình sự bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy.”

1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự

Luật Hình sự được xem là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật vì nó có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng biệt.

Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật Hình sự tác động tới là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Luật Hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra – đó cũng chính là các quan hệ PLHS

Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Đây là căn cứ để phân biệt Luật Hình sự với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật.

2. Nguyên tắc khi xét xử độc lập giữ thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Một số vấn đề cơ bản về nguyên tắc độc lập xét xử

Theo Từ điển tiếng Việt: “Độc lập là đứng một mình, không dựa vào ai, không nhờ cậy ai, không bị ai kiềm chế”1. Nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được hiểu dưới hai khía cạnh là độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố bên trong.

Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Khoản 3 Điều 222 Bọ luật TTHS quy định “khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa”.

Nguyên tắc độc lập xét xử còn đòi hỏi sự độc lập của hội đồng xét xử với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân. “Cấp trên của quan tòa là luật pháp” (Các Mác) có nghĩa là, khi xét xử, Tòa án không có cấp trên, cấp trên của Hội đồng xét xử chính là pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động vào các thành viên của Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án và đều bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, của bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi quyết định, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý kiến bên ngoài làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án.

Nguyên tắc độc lập khi xét xử còn thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét xử. Hiện nay, Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, phải tách bạch từng mối quan hệ. Trong hoạt động nghiệp vụ, mối quan hệ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới là mối quan hệ tố tụng, chứ không phải là mối quan hệ quản lý hành chính. Tòa án cấp trên hướng dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử, nhưng không được quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể.

Nguyên tắc độc lập trong xét xử không mâu thuẫn gì với nguyên tắc sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1992. Vì pháp luật chính là sự thể chế hóa đường lối của Đảng, nên việc tuân thủ pháp luật cũng chính là phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Mọi sự can thiệp của các cấp ủy Đảng và đảng viên có chức vụ, quyền hạn vào việc xét xử của từng vụ án cụ thể của Hội đồng xét xử đều thể hiện nhận thức không đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ: “Đảng không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái luật; mọi vi phạm đều đưa ra xử lý theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý nội bộ, không được làm theo kiểu phong kiến, dân thì phải chịu hình phạt, quan thì xử theo lễ. Phải nghiêm trị tất cả những kẻ phạm tội bất kỳ ở cương vị nào và phải đảm bảo công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân”2.

3. Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong hoạt động xét xử ở Việt nam

Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án cần bắt đầu từ thẩm phán, những người đại diện cho công lý, bảo vệ công lý. Thẩm phán phải độc lập trong hoạt động xét xử theo nguyên tắc Hiến định: “…Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Cơ sở lý luận của nguyên tắc độc lập của thẩm phán trong hoạt động xét xử

Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã nâng cao trách nhiệm của các thẩm phán, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết luận của Viện Kiểm sát đưa ra.

Cơ sở lý luận của nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán gắn liền với việc tổ chức bộ máy Nhà nước theo cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực. Trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước Việt Nam những nguyên lý cơ bản của việc phân công quyền lực, kiểm soát và giám sát lẫn nhau. Tính độc lập của thẩm phán là một trong những biểu hiện rõ nét của cơ chế phân chia quyền lực ở Việt Nam. Về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, hoạt động của bộ máy Nhà nước sẽ mất đi những giá trị xã hội to lớn của nó nếu tính độc lập của thẩm phán không được đảm bảo. Sự vi phạm nguyên tắc này dẫn đến sự lạm dụng quyền lực, sư thoái hóa của quyền lực và xã hội dĩ nhiên sẽ gánh chịu những hậu quả to lớn của tình trạng này.

Tính độc lập của thẩm phán chính là sự gắn kết tuyệt đối các thẩm phán với luật pháp. Tính độc lập của thẩm phán bảo vệ quyền lực tư pháp trước sự can thiệp từ phía lập pháp và hành pháp. Montesquieu cho rằng: Quyền lực nào cũng bị đe dọa lạm dụng, như vậy người nào cũng có xu thế lạm dụng quyền lực mình đang có trong tay, cho tới khi chạm phải rào cản. Với quyền lực tư pháp, Montesquieu chủ trương khi xét xử thẩm phán không cần nhận chỉ thị từ đâu, mà chỉ tuân thủ luật pháp. Khi giải thích, áp dụng các chuẩn mực, thẩm phán không cần phải theo ý kiến đa số và cần hành động dựa vào pháp luật và niềm tin nội tâm.

Ở Việt Nam việc xét xử còn do các hội thẩm nhân dân thực hiện. Vì vậy, nguyên tắc xét xử độc lập động chạm đến không chỉ thẩm phán mà cả hội thẩm nhân dân. “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Độc lập xét xử được xem xét từ các khía các yếu tố bên trong lẫn yếu tố bên ngoài. Thông thường thì độc lập với yếu tố bên ngoài được hiểu là khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận của cơ quan điều tra, cáo trạng và quyết định truy tố của cơ quan điều tra, công tố. Tại phiên tòa, thẩm phán phải trực tiếp xem xét những chứng cứ của vụ án chứ không căn cứ vào các kết luận trong hồ sơ của vụ án. Thẩm phán chỉ được căn cứ vào những chứng cứ được xem xét tại phiên tòa để đưa ra bản án.

Ngoài mối quan hệ với cơ quan điều tra, viện kiểm sát, thẩm phán, hội thẩm nhân dân còn mối quan hệ với các luật sư, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội. Thực tế, trong rất nhiều trường hợp, thẩm phán, hội thẩm nhân dân bị ảnh hưởng, tác động từ phía luật sư, các tổ chức, cá nhân, các cơ quan Nhà nước, làm sai lệch quá trình tố tụng, ảnh hưởng không ít tới hoạt động tố tụng nhằm hướng tới việc xét xử có lợi cho mình. Do đó, thẩm phán phải luôn ý thức được rằng mình là người phải chịu trách nhiệm về nội dung, về tính công minh của bản án. Vì thế, thẩm phán phải có bản lĩnh và phải đứng vững trước những tác động từ các yếu tố bên ngoài. Như vậy, xét từ những yếu tố bên ngoài thì nguyên tắc: “khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không cho phép bất cứ ai, cơ quan Nhà nước nào can thiệp vào việc xét xử của tòa án dưới bất cứ lý do nào.

4. Tiếp tục bàn về sự độc lập của thẩm phán

Ngay từ thời cổ Hy Lạp, Arixtốt, Platon đã từng mơ ước đến một hình mẫu toà án độc lập, không thiên vị. Arixtốt quan niệm rằng: Trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có những yếu tố bắt buộc: Cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các tòa án, từ đó ông chia hoạt động nhà nước thành ba thành tố: nghị luận, chấp hành và xét xử[1]. Trải qua quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ cho đến nay, độc lập xét xử của Toà án đã trở thành nguyên tắc pháp

Thẩm phán có muốn độc lập không?

Trước hết công việc xét xử bao giờ cũng do con người – thẩm phán đảm nhiệm và thật viễn tưởng khi người ta lập trình hoạt động xét xử và giao cho máy móc đảm nhiệm. Những năm 70 của thế kỷ trước, Giáo sư X.X A-lec- xây- ép đã bàn đến vấn đề “Quan toà điện tử” khi ông đặt câu hỏi: Phải chăng có thể thay thế vị quan toà bằng những máy tính hiện đại có khả năng nắm bắt được cái tinh tế của pháp luật và ngay từ đầu đã cung cấp những quyết định theo yêu cầu của chúng ta ?”[2] . Sau khi lập luận một cách chắc chắn rằng: Sự vô tư, tính lôgic, trình độ chính xác, tính độc lập của các quyết định luôn lệ thuộc vào các tính cách cá nhân thẩm phán với tính tình ông ta; nếu ngồi ghế bị cáo thì bất cứ ai cũng muốn vị quan toà thay cho người máy quyết định số phận của họ, Giáo sư A- lếch- xây – ép kết luận: Quan hệ giữa con người với nhau phải được con người hiểu chứ không phải do máy móc phán xét. Các thẩm phán trong những tình huống phức tạp của mối quan hệ giữa con người với nhau, họ có thể hiểu được cái mà không máy tính nào hiểu được.[3] Vấn đề quan toà điện tử chỉ là viễn tưởng và trái với đạo lý của chúng ta.

Thẩm phán dù khi ngồi trên công đường xét xử trước hết và mãi mãi là một con người nói như Mác là một thực thể tự nhiên và xã hội, là tập hợp của tất cả các đặc tính tâm, sinh lý và đặc tính đạo đức xã hội . Họ hoàn toàn có thể mắc sai lầm, đôi khi dao động và dễ sa ngã.

Làm sao hạn chế được những tiêu cực của thẩm phán với tư cách con người bình thường ấy với một Thẩm phán – người đại diện của công lý mới là cả một vấn đề. Xem xét một số trường hợp rất ít Thẩm phán thời gian qua bị kỷ luật vì có tiêu cực trong công tác cho thấy: Những kẻ “chạy án” không hề đe doạ, không hề cưỡng bức…những Thẩm phán này[4]. Nói cách khác là các Thẩm phán hoàn toàn được độc lập xét trong mối quan hệ với bên ngoài. Thế nhưng, công lý đôi khi vẫn có thể mua được bằng tiền ngay tại toà án mà đau xót thay người bán lại chính là các quan tòa. Trường hợp này không nên đổ lỗi cho pháp luật, cho cơ chế không đảm bảo cho thẩm phán được độc lập. Các thẩm phán này đã không độc lập được với chính mình .

Để nguyên tắc xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật không chỉ là những con chữ câm lặng trong hiến pháp và trong các bộ luật có lẽ cần nhiều thứ. Song trước hết có lẽ cần phải xem thẩm phán có muốn độc lập xét xử hay không ? Điều này có vẻ như vô lý nhưng thực tế cho thấy khi một ai đó muốn né tránh trách nhiệm cá nhân, đổ lỗi cho tập thể thì họ không muốn độc lập. Mặt khác, khi luật pháp rõ ràng, trách nhiệm cá nhân không được đề cao, khi xảy ra hậu quả xấu vẫn có cơ hội để đổ lỗi cho ai đó thì rõ ràng đây là môi trường tốt cho những tiêu cực phát sinh. Những thẩm phán năng lực yếu, tư cách đạo đức kém thì không muốn độc lập. Đảm bảo cho thẩm phán độc lập xét xử ngoài ý nghĩa nâng cao chất lượng xét xử còn có ý nghĩa xác định lỗi và truy cứu trách nhiệm cá nhân.

Bên cạnh đó cần phải xem thẩm phán có đủ trình độ và bản lĩnh để thực thi quyền độc lập xét xử mà pháp luật và xã hội trao cho mình hay không? Tức là không chỉ “muốn”“có khả năng” mà còn “dám” độc lập xét xử hay không? Độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật- tưởng như đơn giản nhưng có làm thẩm phán, có đứng trước những vấn đề kiểu như có tội hay không có tội, chung thân hay tử hình… mới thấy trình độ và bản lĩnh cần đến như thế nào? Học hành không đến nơi đến chốn, không có dũng khí để bảo vệ chân lý, sợ trách nhiệm, ba phải, dĩ hoà vi quý… là những yếu tố chủ quan chi phối không nhỏ đến tính độc lập xét xử của Thẩm phán hơn bất kì các yếu tố khách quan nào. Không phải ngẫu nhiên mà pháp luật nhiều nước đòi hỏi thẩm phán độc lập xét xử không chỉ tuân theo pháp luật mà còn phải xét xử theo đúng lương tâm của mình.

5. Vai trò của Viện kiểm sát trong vụ án hành chính và vấn đề độc lập xét xử

Độc lập xét xử được coi là nguyên tắc đầu tiên và cơ bản nhất trong tổ chức và hoạt động của Tòa án. Độc lập xét xử phải được nhìn nhận từ hai góc độ: sự không phụ thuộc của quan tòa vào các thiết chế quyền lực nhà nước, và sự không phụ thuộc của quan tòa vào bất kỳ bên tham gia tố tụng nào.

Viện kiểm sát với tư cách một thiết chế quyền lực nhà nước: chức năng kiểm sát hoạt động xét xử hành chính

Chức năng kiểm sát hoạt động xét xử – trong đó có xét xử hành chính – được khẳng định trong Hiến pháp. Kiểm sát xét xử vốn là một nội dung trong hoạt động kiểm sát chung (KSC). Đây là hoạt động đặc thù của VKS, vốn chỉ tồn tại ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN). Có thể, sự cần thiết có một cơ quan độc lập, tập trung, đứng ra giám sát hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội bắt nguồn từ nguyên lý tổ chức quyền lực nhà nước XHCN. Nếu như trong quốc gia tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, việc giám sát các hoạt động của công quyền được đảm nhiệm bởi Tòa án, thông qua tố tụng hành chính, thì trong hệ thống tổ chức quyền lực XHCN, sự thiếu vắng vai trò của Tòa án trong kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước – mà chủ yếu là bộ máy hành chính – đã dẫn đến một khả năng “bù đắp” bởi sự tồn tại của chức năng KSC – mà một trong những đối tượng kiểm sát quan trọng là cơ quan hành chính. Theo quan sát của các học giả phương Tây, “từ góc độ lịch sử cho thấy, thiết chế VKS chỉ tồn tại trong những hệ thống hành chính XHCN, nơi vắng bóng vai trò của Tòa án hành chính, hoặc có Tòa án hành chính nhưng chỉ phôi thai hay không được coi trọng lắm”1. Hơn nữa, có vẻ như sự tồn tại của chức năng KSC hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc lớn của học thuyết về nhà nước và pháp luật XHCN: nguyên tắc tập trung dân chủ và vai trò xây dựng kiến tạo mới của Nhà nước. Theo nguyên tắc tập trung dân chủ, VKS, với chức năng khởi tố, truy tố các hành vi vi phạm pháp luật, đã thực sự chứng tỏ vai trò người lính gác gìn giữ, đảm bảo cho pháp luật được áp dụng một cách thống nhất và nghiêm túc trên toàn quốc. Mặt khác, chức năng này cũng phù hợp với vai trò của Nhà nước XHCN, một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước luôn giữ vai trò chủ động trong xây dựng và kiến tạo một xã hội mới. Trong Nhà nước đó, VKS, khác với Tòa án, không chỉ bị triệu hồi theo yêu cầu đương sự, mà còn có quyền tự phát hiện các vi phạm pháp luật và thực hiện quyền công tố.

Tuy nhiên, bên cạnh các lý do để duy trì chức năng KSXX , thì một câu hỏi được đặt ra: liệu KSXX – một chức năng vẫn được coi là cần thiết trong thời điểm hiện nay – có thể dẫn đến khả năng can thiệp vào hoạt động xét xử hành chính? Câu trả lời phụ thuộc vào tầm hoạt động cũng như những uy quyền của VKS trong quá trình xét xử VAHC.

Thứ nhất, VKS hiện diện hầu khắp trong các giai đoạn của quá trình tố tụng hành chính. Về nguyên tắc, theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (Pháp lệnh TTGQCVAHC), VKS có quyền tham gia vào bất cứ vụ án nào và từ bất kỳ giai đoạn tố tụng nào của xét xử hành chính nếu xét thấy cần thiết3. Với quy định này, quyền tự quyết được dành cho VKS. Hơn nữa, cũng theo Pháp lệnh TTGQCVAHC, có những vụ án bắt buộc phải có mặt VKS. Ở cấp xử sơ thẩm, VKS bắt buộc phải tham gia vào các vụ án do chính VKS khởi kiện, những vụ án trong đó đương sự là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, những vụ án liên quan đến việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt như đưa vào trại giáo dưỡng v.v.. Ở cấp phúc thẩm, VKS sẽ tiếp tục hiện diện trong những vụ việc mà VKS đã tham gia từ giai đoạn sơ thẩm. Riêng với cấp xử giám đốc thẩm và tái thẩm, sự có mặt của VKS là bắt buộc.

Thứ hai, không chỉ hiện diện hầu khắp trong các vụ xét xử hành chính, mà VKS còn có những thẩm quyền quan trọng có thể gây áp lực hoặc thậm chí can thiệp trực tiếp vào hoạt động này. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, VKS có quyền đề nghị chuyển giao để kiểm tra hồ sơ tố tụng (đặc biệt theo Điều lệ tạm thời về KSXX các VAHC ban hành kèm theo Quyết định số 51/QD ngày 17/6/1996 của Viện trưởng VKSNDTC, VKS không chỉ có quyền đọc các hồ sơ đó tại Tòa án mà còn có thể đọc tại trụ sở VKS). Tiếp đó, VKS có quyền ra lệnh cho Tòa án tiến hành các biện pháp điều tra bổ sung, nếu Viện cho rằng cần thiết, như: xác minh, thu thập chứng cứ, giám định v.v.. Trong trường hợp đặc biệt, VKS còn có thể tự mình tiến hành điều tra. Tại phiên tòa, sự tham gia của VKS là trực tiếp: không chỉ kiểm soát diễn tiến phiên tòa mà còn có thể đề nghị triệu tập bổ sung nhân chứng, người giám định hay phiên dịch. Cũng như thế, VKS có quyền cung cấp những chứng cứ bổ sung ngay tại phiên tòa. Đặc biệt là trong giai đoạn thẩm vấn, đại diện VKS có quyền đặt câu hỏi, tham gia xét hỏi trực tiếp. Cũng ở giai đoạn này, VKS có quyền rất lớn: đọc kết luận của mình, trong đó nêu rõ nhận định chủ quan, đường hướng xét xử của vụ án. Ở đây có thể nói rằng, vai trò của VKS tương tự với chức năng của “Ủy viên Chính phủ” trong tố tụng hành chính Pháp – nhân vật này có quyền tham dự phiên tòa hành chính và đọc kết luận của mình về vụ việc. Nhưng cũng nhấn mạnh rằng khác với tên gọi của mình, Ủy viên Chính phủ ở Pháp chính là một thẩm phán hành chính đặc biệt, nằm trong Tòa Hành chính, có vai trò đúc rút thực tiễn xét xử thành các bài học áp dụng pháp luật, thành học thuyết pháp lý.

Vai trò của “Ủy viên Chính phủ” trong phiên tòa hành chính Pháp đã tạo ra không ít tranh luận tại Cộng đồng châu Âu với lý do nghi ngờ về tính độc lập của Tòa án, ít nhất là về hình thức4. Còn ở Việt Nam, vai trò của đại diện VKS không chỉ dừng lại ở việc trình bày kết luận của mình trước HĐXX, mà VKS còn có quyền kháng nghị theo tất cả các thủ tục phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm. Đó là điều khác biệt so với pháp luật nuớc ngoài – vai trò kháng nghị chỉ dành cho đương sự. Có lẽ, quyền hạn này xuất phát từ vai trò của VKS: đảm bảo việc tuân thủ pháp luật thống nhất? Hiệu lực của kháng nghị là bắt buộc, bởi Tòa án luôn luôn phải tiến hành các thủ tục xét xử tiếp theo nếu bản án bị kháng nghị.

KSXX bảo đảm cho việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động của Tòa án, tuy nhiên, liệu có thể dẫn đến khả năng can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua con đường KSXX? Câu trả lời không thể luôn luôn là phủ định, vì lý do khá đơn giản, nếu không theo sát đường hướng xét xử nêu ra trong kết luận của đại diện VKS, phán quyết của Tòa án sẽ bị kháng nghị. Nói cách khác, VKS, thông qua quyền kháng nghị, có thể gây áp lực trực tiếp đối với việc xét xử của Tòa. Hơn nữa, những vấn đề mà VKS đề xuất, thông thường có ý nghĩa bắt buộc đối với các chủ thể liên quan.

KSC, nếu bị sử dụng sai mục đích, có thể can thiệp trực tiếp vào hoạt động xét xử của Tòa án và do vậy, ảnh hưởng trực tiếp đến nguyên tắc độc lập xét xử. Sự tồn tại của chức năng này liệu có thực sự cần thiết, đặc biệt khi mà nhiều con đường khác để kiểm sát sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử cũng như để bảo vệ quyền lợi của đương sự vẫn tồn tại, ví dụ: thông qua quyền kháng cáo của đương sự, thông qua kháng nghị của Tòa án cấp trên, thông qua chức năng giám sát tư pháp của cơ quan quyền lực nhà nước?


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *