Ly hôn có yếu tố nước ngoài

1.1. Ly hôn có yếu tố nước ngoài là gì?

Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định ly hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm các trường hợp cụ thể như:

– Ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;

– Ly hôn giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam khi họ có yêu cầu.

Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam.

Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.

1.2. Thẩm quyền giải quyết ly hôn với người nước ngoài

Theo khoản 3 Điều 35 và Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố nước thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Trong trường hợp đặc biệt được quy định tại khoản 4 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, nếu việc ly hôn diễn ra với công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam thì thẩm quyền thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện.

1.3. Hồ sơ ly hôn với người nước ngoài

Để thực hiện việc ly hôn có yếu tố nước ngoài cần chuẩn bị hồ sơ ly hôn bao gồm:

– Đơn xin ly hôn hoặc Đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn (theo mẫu của Tòa án).

– Bản chính Giấy chứng nhận kết hôn (nếu có), trong trường hợp mất bản chính Giấy chứng nhận kết hôn thì nộp bản sao có xác nhận sao y bản chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

– Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu; Hộ khẩu (bản sao chứng thực).

– Bản sao Giấy khai sinh của con (nếu có con).

– Bản sao chứng thực chứng từ, tài liệu về quyền sở hữu tài sản (nếu có tranh chấp tài sản).

– Hồ sơ tài liệu chứng minh việc một bên đang ở nước ngoài (nếu có)

Lưu ý : Nếu hai bên đăng ký kết hôn theo pháp luật nước ngoài muốn ly hôn tại Việt Nam thì phải hợp thức lãnh sự Giấy đăng ký kết hôn và làm thủ tục ghi chú vào sổ đăng ký tại Sở Tư pháp rồi mới nộp đơn xin ly hôn  tại tòa.

1.4. Các bước thực hiện thủ tục ly hôn 

Bước 1: Nộp hồ sơ hợp lệ về việc xin ly hôn tại Tòa án có thẩm quyền.

Bước 2: Trong thời hạn 7-15 ngày, Tòa án kiểm tra hồ sơ, nếu hồ sơ đầy đủ và hợp lệ thì Tòa án sẽ gửi thông báo tạm ứng án phí.

Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí dân sự tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền và nộp biên lai tạm ứng án phí cho Tòa án.

Bước 4: Tòa án mở phiên hòa giải tại tòa và tiến hành thủ tục ly hôn tại Tòa theo thủ tục sơ thẩm.

Thời gian giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài là từ 4 – 6 tháng từ ngày thụ lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì mức án phí sơ thẩm trong vụ việc ly hôn là 300.000 đồng nếu không có tranh chấp về tài sản; nếu có tranh chấp về tài sản, án phí được xác định theo giá trị tài sản…

1.5. Thực trạng ly hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay

Thứ nhất, khi tiến hành giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam xuất hiện rất nhiều khó khăn trong thực tiễn, đặc biệt là trong hoạt động ủy thác tư pháp trong một số công việc như ghi lời khai, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, xác minh địa chỉ, trưng cầu giám định. Để giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài (đương sự ở nước ngoài) thì hoạt động uỷ thác tư pháp ra nước ngoài là vấn đề có tính chất quyết định trong việc đưa vụ án ra xét xử, tuy nhiên, hiện nay viêc uỷ thác tư pháp còn nhiều khó khăn, vướng mắc.

Ví dụ, chị H sinh năm 1990 ở xã A, huyện B, tỉnh C và chồng là anh G kết hôn với nhau, hai vợ chồng có với nhau một con chung là cháu K. Năm 2013, anh G đi lao động tự do ở nước ngoài (Cộng hoà liên bang Đức). Sau một thời gian, chị H thấy chồng mình là anh G có một số biểu hiện khác thường, không thường xuyên gọi điện liên lạc, cũng không quan tâm đến vợ con đang sống ở Việt Nam, trong khi ở nhà thì giữa chị H và mẹ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, mẹ chồng chị H thường xuyên chửi bới con dâu vô cớ và còn cố tình chia rẽ tình cảm của vợ chồng chị. Từ tháng 1/2014 đến nay, chị H không còn liên lạc được với chồng, con trai cũng bị gia đình chồng chia cắt, không cho gặp. Đỉnh điểm, trên facebook cá nhân, chồng chị còn khoe ảnh hạnh phúc bên vợ mới và con ở nước ngoài. Cực chẳng đã, chị H đành viết đơn xin ly hôn. Thế nhưng, việc ly hôn của chị không mấy thuận lợi vì thời gian đầu theo thư gửi về chồng chị ghi địa chỉ là thành phố Berlin, nhưng hiện nay bản thân chị cũng không biết chồng mình đang sinh sống cụ thể ở nơi nào tại Đức.

Hoặc trương hợp chị A ở xã Y Th, huyện Y M, tỉnh N, kết hôn với chồng là anh B ở TP H vào năm 2005, hai vợ chồng có với nhau một con chung là cháu C, năm 2008, anh B đi xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc (theo diện xuất khẩu chui), thời gian đầu thì vợ chồng chị còn thỉnh thoảng liên lạc với nhau, chị có biết được nơi ở (địa chỉ) của chồng bên Hàn Quốc. Từ năm 2010 đến thời điểm hiện tại thì chồng chị là anh B không liên lạc với vợ, cũng từ thời điểm đó thì chị và gia đình chồng thường xảy ra mâu thuẫn, chị mang con ra Hà Nội sinh sống và làm việc, đầu năm 2018, chị làm thủ tục ly hôn gửi toà án tỉnh H, phía toà H hướng dẫn chị lựa chọn toà án nơi bị đơn cư trú để giải quyết cho thuận lợi theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bị đơn đỡ vất vả cho việc đi lại, nhưng Toà tỉnh N không thụ lý giải quyết trường hợp của chị vì không có văn bản thoả thuận giữa hai vợ chồng về việc lựa chọn toà án để giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chị cũng không cung cấp được thông tin về địa chị cụ thể của người chồng của mình bên Hàn Quốc, nên việc ly hôn của chị với chồng bị tắc không giải quyết được, chị A không thể ly hôn được với anh B để có thể đi xây dựng hạnh phúc mới với người đàn ông khác bởi vì về mặt pháp lý thì chị và anh B vẫn là vợ chồng hợp pháp.

Ở đây có những bất cập đó là:

Một là, về xác định thẩm quyền của Tòa án. Theo quy định của Luật Quốc tịch thì “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Tuy nhiên, thời gian để xác định “lâu dài” không được quy định cụ thể trong một văn bản nào. Trường hợp người Việt Nam đi công tác, học tập hoặc du lịch nhưng khi hết thời hạn họ ở lại nước sở tại thì có được xem là người Việt Nam định cư nước ngoài hay không? Vấn đề này ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Hai là, về nơi cư trú của một bên đương sự ở nước ngoài. Không ít trường hợp công dân Việt Nam, thậm chí kể cả các pháp nhân Việt Nam không chịu tìm hiểu kỹ điều kiện, địa chỉ cụ thể của người nước ngoài; của pháp nhân nước ngoài; không yêu cầu người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài cung cấp địa chỉ tại nơi mà họ đang sinh sống, trụ sở pháp nhân đang hoạt động… dẫn đến tình trạng quyền và lợi ích bị xâm. Khi khởi kiện đến tòa án thì không xác định được địa chỉ hoặc không có địa chỉ người nước ngoài, khiến tòa án rất khó khăn trong xác định địa chỉ. Nhiều trường hợp, bị đơn trong vụ án là người đang ở nước ngoài khi biết mình bị khởi kiện tại tòa án luôn tìm cách né tránh, thay đổi địa chỉ nên tòa án không thể triệu tập họ tham gia tố tụng và không có chế tài xử lý.

Thứ hai, khó khăn trong thực hiện ủy thác tư pháp. Khi tiến hành giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam đã xảy ra rất nhiều khó khăn trong thực tiễn, đặc biệt là hoạt động ủy thác tư pháp đối với một số công việc cụ thể như ghi lời khai, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, xác minh địa chỉ, trưng cầu giám định…Việc ủy thác tư pháp để ghi lời khai của những cá nhân đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp thì hầu như không có kết quả. Những việc mà Tòa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho Tòa án nước ngoài thì kết quả trả lời thường rất chậm, thậm chí nhiều trường hợp không nhận được sự trả lời. Chính vì vậy, việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản của Tòa án hoặc xác định tài sản ở nước ngoài là không thực hiện được làm cho vụ án bị kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự. Nhiều vụ không thể thụ lý giải quyết do công dân Việt Nam xin ly hôn chỉ cung cấp cho Tòa án bản đăng ký kết hôn có địa chỉ của bên kia, ngoài ra thì không có một thông tin nào khác của bị đơn. Điều này dẫn đến thực tế nhiều cuộc hôn nhân chỉ mang tính hình thức và vẫn bị kéo dài, ảnh hưởng đến cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nguyên đơn. Bên cạnh đó, thủ tục hợp thức hóa lãnh sự đối với các việc mà Tòa án Việt Nam yêu cầu thì nhiều Tòa án nước ngoài chưa đáp ứng kịp thời, do vậy cũng đã gây khó khăn cho việc xét xử.

Thứ ba, khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Trường hợp không có điều ước quốc tế, áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam trên thực tế gặp phải rất nhiều khó khăn. Nhiều vụ việc tòa án Việt Nam xác định thuộc thẩm quyền và đưa ra phán quyết, nhưng do các quốc gia khác cũng cho rằng thẩm quyền giải quyết cũng thuộc thẩm quyền của nước họ, điều này dẫn đến xung đột pháp luật giữa Việt Nam và các nước đó. Tác giả xin nêu ra một trường hợp đã được Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết và vụ án này đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng, đó là vụ ly hôn giữa Lý Hương và Chồng là Tony Lam. Năm 2001, Lý Hương theo Tony Lam về Mỹ. Cả hai tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn ngày 6/2 tại quận Clack, bang Neveda. Sau một thời gian sinh sống với nhau, hai người sảy ra mâu thuẫn. Lý Hương đưa con về nước và đệ đơn ly hôn lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử cho nữ diễn viên này được ly hôn chồng và giao quyền nuôi con cho người mẹ. Cùng thời gian Tony Lam đâm đơn tố Lý Hương mang con về nước mà không có sự đồng ý của người cha, tòa án new York  phán quyết, quyền nuôi con chung của cả hai được giao hoàn toàn cho Tony Lam.

Đối với trường hợp trên thì có hai hệ thống pháp luật điều chỉnh đó là Pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ. Ở đây, có khó khăn trong việc áp dụng pháp luật đó là giữa Việt Nam và Hoa Kỳ lại chưa ký kết (tức là không có hiệp định tương trợ tư pháp) về giải quyết vấn đề này, đó là nguyên nhân dẫn đến sự xung đột pháp luật giữa hai quốc gia. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì trường hợp này thuộc thẩm quyền riêng biệt chỉ Tòa án Việt Nam mới có thẩm quyền giải quyết. Do đó tòa án Việt Nam không chấp nhận và cho thi hành đối với bất kỳ phán quyết của cơ quan tài phán của các nước khác.

Thứ tư, trình độ Thẩm phán cũng còn nhiều bất cập. Kiến thức chuyên môn của của một số Thẩm phán về Tư pháp quốc tế chưa được sâu, bên cạnh đó thì trình độ ngoại ngữ của đội ngũ Thẩm phán còn rất hạn chế, từ đó gây khó khăn trong việc tiếp cận với pháp luật nước ngoài cũng như khi tiến hành tố tụng trong những vụ án có công dân nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài.

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:

Thứ nhất, trong cuộc sống hiện nay thì thế hệ trẻ chưa có được những nhận thức đầy đủ và đúng đắn về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc hôn nhân, dẫn đến vợ chồng đối xử với nhau tùy tiện, không coi trọng tình cảm, nhân phẩm, uy tín, danh dự của nhau. Bên cạnh đó, việc ly hôn cũng có thể là do thiếu trách nhiệm của vợ hay chồng, hoặc do sự xuống cấp về đạo đức, bạo hành gia đình, tư tưởng sống thoáng, hợp thì ở với nhau, không hợp thì chia tay nên dẫn đến tình trạng “ly hôn xanh” ở lớp trẻ đang ở con số báo động.

Thứ hai, một trong những nguyên nhân dẫn đến các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong thời gian gần đây ở nước ta tăng cao đó là: mục đích hôn nhân không thành có thể là do đến với nhau vì tiền, vì tâm lý sính ngoại. Do mỗi quốc gia có những phong tục tập quán, nền văn hóa, ngôn ngữ khác nhau nên quan niệm sống và quan niệm về hôn nhân không giống nhau cũng dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong những gia đình Việt lấy người nước ngoài, thì việc di cư của con người là một trong những nguyên nhân chính làm cho số lượng các quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng ngày càng tăng nhanh. Việc ly hôn có yếu tố nước ngoài này là một vấn đề đặt ra đối với Chính phủ của nhiều quốc gia trên thế giới, đòi hỏi chỉ có thể thực hiện bằng pháp luật. Vấn đề ở đây là cần phải hoàn thiện pháp luật, trong đó có pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài là một điều rất cần thiết. Rất nhiều vụ án trở nên phức tạp do sự bất cẩn của chính nguyên đơn khi họ không tìm hiểu kỹ đối tác của mình (về nhân thân, địa chỉ…). Điều này đã gây khó khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật (Tòa án) khó có thể giải quyết các vụ việc liên quan đến hôn nhân và phải giải quyết theo thủ tục ly hôn theo quy định. Ngoài ra, việc ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp. Điều ước quốc tế đa phương hay song phương của nước ta cũng đã được chú trọng nhưng vẫn còn ở mức hạn chế.

Thứ ba, một nguyên nhân cực kỳ quan trọng mà tác giả nhận thấy rằng đó là sự quản lý công dân của một số cơ quan chức năng có thẩm quyền còn quá lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng xuất khẩu lao động chui thông qua con đường du lịch; làm các thủ tục để du lịch ở nước ngoài sau đó chốn ở lại không trở về Việt Nam, dẫn đến không xác định được địa chỉ nơi cư trú cũng như nơi làm việc ở nước ngoài, nguyên đơn ở Việt Nam muốn ly hôn cũng không được vì không cung cấp được nơi cư trú và xin xác nhận được của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nơi mà bị đơn đang cư trú nên phía Tòa án Việt Nam không thụ lý để giải quyết.

Từ những khó khăn, bất cập trong việc giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trên của Tòa án các tỉnh trong suốt những năm qua, ngày 26/11/2018, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành công văn số 253/TANDTC-PC hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ: Vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài là trường hợp đặc thù; quyền ly hôn là một trong những quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Do vậy, trường hợp người Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài và chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ để xác định họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử, Tòa án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Đây là điều kiện mở, tạo điều kiện cho Tòa án cũng như đương sự là nguyên đơn trong việc giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài mà trước đây đã gây những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết án, dẫn đến lượng án tồn đọng quá nhiều mà chưa giải quyết được.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *