Năng lực hành vi dân sự của cá nhân

[VPLUDVN] Một cá nhân khi muốn tham gia vào cá quan hệ pháp luật dân sự phải thỏa mãn các điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi liê quan đến quan hệ pháp luật đó.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì năng lực pháp luật của một cá nhân có từ khi cá nhân đó sinh ra và mất khi cá nhân đó chết đi. Năng lực hành vi của cá nhân được xác định dựa theo độ tuổi và khả năng nhận thức của cá nhân đó.

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.

Kết quả hình ảnh cho năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định như sau:

– Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên không bị mất hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.(Theo Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015). 

Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được tự mình thực hiện các giao dịch dân sự mà pháp luật cho phép chủ thể đó được phép thực hiện

– Người có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ: Là cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Theo đó, các chủ thể này có thể tự mình xác lập một số giao dịch dân sự nhất định mà pháp luật cho phép.

+ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. (Khoản 3 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015)

+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. (Khoản 4 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015). 

– Người không có năng lực hành vi dân sự: Là những cá nhân chưa đủ sáu tuổi. Tất cả các chủ thể này không thể bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự.

Các giao dịch dân sự của những cá nhân chưa đủ 6 tuổi sẽ do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập, thực hiện. (Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015).

– Mất năng lực hành vi dân sự: (Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015)

Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự:

1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

– Hạn chế năng lực hành vi dân sự: (Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015)

Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự

1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.

2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.

3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người bị mất năng lực hành vi dân sự sẽ được khôi phục hành vi dân sự khi các căn cứ để xác định họ bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự không còn và theo yêu cầu của chính họ hoặc của những người có quyền, lợi ích liên quan, cá nhân, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *