Đại cương Văn hóa Việt Nam: Nội dung ôn tập

Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa hai loại hình văn hóa gốc và lý giải nguyên nhân?

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đ1o là tiêu chí quan trọn để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân tộc dù phong phú và đa dạng đếm mấy cũng đều có nguốn gốc xuất phát từ một trong hai loại hình văn háo gốc là văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt.

Giữa hai loại hình văn háo gốc này có sự khác nhau như sau:

Về điều kiện tự nhiên và môi trường:

Loại hình văn háo gốc chăn nuôi du mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình củ yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa là chăn nuôi. Trong khi loại hình văn háo gốc nông nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương Đông gồm Chấu Á và Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiên thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển.

Về đặc điểm:

Loại hình văn hóa phương Tây do loại hình chăn nuối gia súc đòi hỏi phải sống du cư, nay đây mai đó lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại. còn loại hình văn háo phương Đông, do nghề trồng trọt buộc con người phải sống định cư, phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, hướng nội.

Loại hình văn hóa phương tây vỉ luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi thường thiên nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự tự nhiên. Trong khi loại hình văn háo phương Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân rất tôn trọng và sùng bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.

Vì sống du cư nên tính gắng kết cộng đồng của dân du mục không cao, đề cao tính cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận, cứng rắn trong đối phó. Trong khi loại hình văn hóa phương Đông lại đề cao tính cộng đồng do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên, buộc cư dân phải sống định cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.

Do cuộc sống du cư nên cần đến sức mạnh để bảo vệ dân cư trong bộ tộc chống lại sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên người đàn ông có vai trò quan trọng, tư tượng trọng sức mạnh, trọng nam giới của loại hình văn hóa phương Tây khác với loại hình văn hóa phương Đông lại trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ, vai trò của người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong gia đình, chăm lo vun vén cho gia đình và làm các công việc đồng án.

Loại hình văn hóa phương Tây thiên về tư duy phân tích, coi trọng vai trò của các yếu t61 khách quan, nhề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, đối tượng tếp xúc hành ngày là đàn gia súc. Còn loại hình van hóa phương Đông thì thiên về tư duy tổng hợp – biện chứng, coi trọng các mối qua hệ, thiên về kinh nghiệm chủ quan cảm tính hơn là coi trọng khách quan và khoa học thực nghiệm do trồng trọt của cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…

Loại hình văn hóa phương Tây có lối sống trọng lí, ứng cxử theo nguyên tắc, thói quen tôn trọng pháp luật khác với loại hình văn hóa phương Đông do cuộc sống cộng đồng, gắn kết với nhau nên sống trọng tình, thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.

Trên đây là sự khác biệt đặc trưng của hai loại hình văn hóa gốc, mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó.

Câu 2: Hãy chứng minh rằng Văn hóa Việt Nam thuôc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình?

Do Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, với điều kiện vị trí địa lí, tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía Đông – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ là điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước nên văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp điển hình.

Người Việt thích cuộc sống định cư, ổn định, không thích sự di chuyển, thay đổi, tình cảm gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… nên hình thành lối sống tự trị, kép kín, hướng nội.

Do cư dân Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp nên rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa để có cuộc sống no đủ “Lạy trời, ơn trời…”, có nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên vì vậy phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước.

Cuộc sống định cư tạo cho người Việt có tiinh1 gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ vai trò cá nhân: “Bán anh em xa mua láng giềng gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”

Lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử nhiều hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực.

Cuộc sống định cư ổn định của nghề nông nghiệp trồng trọt cần đến vai trò chăm lo thú vén của người phụ nữ, vai trò của người phụ nự được tôn trọng và đề cao.

Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ sở khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kêt hợp lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.

Lối tư duy tổng hợp – biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.

Như vậy, loại hình văn hóa Việt Nam được xem là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình, đều được thể hiện rõ nét trong cách tổ chức đời sống phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt và được xem là nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.

Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng của người Việt trong việc tận dụng và ứng phó với môi trường tự nhiên thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất?

Lĩnh vực văn hóa vật chất được hể hiện qua 4 nội dung chính sau:

-Văn hóa sản xuất vật chất.

-Văn hóa ẩm thực.

-Văn hóa trang phục.

-Văn hóa đi lại.

Trong văn hóa sản xuất vật chất, người Việt đã biết tận dụng và ứng phó với môi trường tự nhiên. Từ điều kiện tự nhiên nóng ẩm, mưa nhiều… thuận lợi phát triển nghề nông trồng lúa nước và giữa vị trí chủ đạo, chi phối toàn bộ nền kinh tế của XH VN truyền thống. Quá trình cải tạo và chinh phục tự nhiên, chinh phục đầm lầy, lấn biển, đắp đê chống lụt… đã trở thành những vùng đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ và Nam bộ để chuyên canh lúa nước. Ngoài ra, với điều kiện tự nhiện thuận lợi, người Việt còn tận dụng để trồng các loại cây cho củ, cho quả, cho lá cây, cho sợi để làm các nghề thủ công… Tận dụng điều kiện tự nhiên để chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, các nguồn lợi thủy hải sản từ tự nhiên.

Trong văn hóa ẩm thực: Hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn hóa vật chất của người Việt là tính chất sông nước và thực vật. Sự chi phối của hai yếu tố tự nhiên này được thể hiện trước hết trong việc lựa chọn cơ cấu một bữa ăn truyền thống với 3 thành phần chính: cơm – rau – cá. Cơm được làm từ gạo, đứng vị trí đầu tiên trong bữa ăn “Người sống vì gạo, các bạo vì nước”, bữa ăn của người Việt gọi là bữa cơm. Người Việt không chỉ tận dụng cây lúa thành gạo để nấu cơm mà còn biết tận dụng từ gạo để làm bún và làm bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh tráng… Gạo nếp dùng làm xôi, làm bánh mặn, bánh ngọt… Thành phần thứ hai trong cơ cấu bữa ăn người Việt là rau quả. Là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông nghiệp lại là ngành kinh tế chủ yếu nên rau quả vô cùng phong phú. Việc dùng rau trong cơ cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận dùng môi trường tự nhiên của người Việt. Người Việt thường hay nói “Đói ăn rau, đau uống thuốc”, “Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ”, “Ăn cơm không rau như người giàu chết không kèn trống”. Rau quả đặc thù trong cơ cấu bữa ăn là rau muống và dưa cà: “Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”. Cà và dưa cà, dưa cải là những món ăn hợp thời tiết, được người Việt ưa thích và thường được dự trữ để ăn thường xuyên: “có dưa chừa rau”, “có cà thì tha gắp mắm”, “thịt cá là hoa, tương cà là gia bản”. Bên cạnh các loại rau quả là thành phần chính trong cơ cấu bữa ăn còn có những loại rau quả dùng làm gia vị như: hành, gừng, ớt, tỏi, rau răm, rau diếp cá… Gia vị cũng là thành phần không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt. Thành phần thứ ba trong bữa ăn của người Việt là cá. Việt Nam có phía Đông giáp với biển Đông lài có hệ thống sông ngòi, ao hồ chằng chịt nên dùng các trong cơ cấu bữa ăn cũng là khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt. Cá đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong bảng các loại thức ăn thủy sản (so với tôm, cua, mực…). Người Việt thường nói: “Cơm với cá như má với con”. “Có cá đổ vạ cho cơm”, “con cá đành ngã bát cơm”. Người Việt còn tận dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước mắm và mắm các loại: nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm sét, các loại nước mắm nổi tiếng: Nghệ An, Phan Thiết, Phú Quốc. Thực phẩm được chế biến từ thủy sản cũng rất đa dạng: nấu chin, ướp mắm, phơi khô. Chế biến cũng có nhiều cách: chiên, xào, kho, luộc, nướng, gỏi… Văn hóa ẩm thực của người Việt thể hiện ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền. Đó là biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên, thích nghi với nền kinh tế tự cung tự cấp.

Trong văn hóa trang phục, người Việt biết tận dụng các điều kiện tự nhiên chọn các màu sắc trang phục phù hợp với môi trường sông nước như màu nâu, màu đen…, có ý thức làm đẹp. Người Việt sử dụng các chất liệu may mặc có sẵn trong tự nhiên, mang đậm dấu ấn nông nghiệp trồng trọt, sống ở xứ nóng nên chọn các chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như tơ tằm, sợi bông, sợi đay… trang phục của phụ nữ: váy, yếm, áo tứ thân, áo dài, quần lĩnh… Ngoài ra chiếc nón là phần không thể thiếu trong trang phục phụ nữ được tận dụng để che mưa, che nắng. Trang phục của nam giới: áo cánh, quần ống rộng để phù hợp với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng.

Văn hóa ở và đi lại: Văn hóa ở – Tận dụng điều kiện tự nhiên, có sẵn trong tự nhiên người Việt xây nhà bằng các chất liệu như gỗ, tre, nứa, rơm rạ… Kiến trúc nhà mang dấn ấn của vùng sông nước, lá nhà sàn thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường. Không gian nhà là không gian mở, có cửa rộng thoáng mát và giao hợp với thiên nhiên. Trong quan niện về kiến trúc, xây nhà, dựng cửa: người Việt biết chọn hướng nhà, chọn đất, tránh hướng gió độc, đó lấy hướng mặt trời, hay xây dựng nhà cửa gần sông suối để tiện nước sinh hoạt (“nhất cận thị, nhị cận giang”), trồng trọt. Một điểm đặc biệt trong kiến trúc nhà cửa là các kiến trúc đều thuận theo phong thủy. Đó là sự hài hòa giữa thề đất, thế núi, ngồn nước… Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc thành quách như thành Thăn Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế… hay trong thuyết tam tài của người dân: “thiên-địa-nhân”.

Văn hóa đi lại: do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều sông ngòi…tận dụng sông nước nên phương tiện đi lại của người Việt chủ yếu là thuyền, ghe, đò, xuồng…

Tóm lại, ăm mặc, ở, đi lại là những nhu cầu tiết thân của con người nhưng cũng đồng thời thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường tự nhiên. Thể hiện rõ nét dấu ấn loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật.

Câu 4: Hãy phân tích thái độ ứng xử văn hóa của người Việt với môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất?

Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữ thuyết âm dương – ngũ hành với sự hình thành các triết lí sống của người Việt?

Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyế âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Trang văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Là cơ sở để thuyết âm dương ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ với:

Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp đôi: trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân bằng ân dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước…

Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: từ triết lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng, hài hòa âm dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo triết lí quân bình, duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan.

Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do nhận thức được qui luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được qui luật chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.

Câu 6: Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam và vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay?

Phật giáo là một trong ba luồng tư tưởng nổi bật của tư tưởng và tôn giáo thời Đại Việt và cho đến ngày nay. Vào những thế kỉ đầu thời kì Đại Việt, phật giáo phát triển rất nhanh và đạt tối cực thịnh vào thời Lý – Trần và được xem là quốc giáo với những đặc điềm nổi bật như sau:

Tính nhập thế: Giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh, luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gai đào tạo tri thức, nhiều nhà sư đồng thời nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.

Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:

-Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa: dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…

-Dung hợp giữa các tong phái Phật giáo.

-Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.

Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ lâu. “Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”.

Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến 10% dân số. Hiện nay, số lượng người đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày rằm, mồng một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò của Phật giáo trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.

Câu 7: Ứng xử của người Việt với Nho giáo và vai trò của Nho giáo đối với đời sống tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay?

Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc và đến thế kỉ XV, Nho giáo được xem là đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo. Các triều đại phong kiến Đại Việt lấy Nho giáo làm nền tảng để xây dựng hệ tư tưởng, đạo đức, giáo dục, pháp luật, qua đó để xây dựng mô hình nhân cách con người. Tuy nhiên do sự phân phối của văn hóa bản địa nên Nho giáo Trung Hoa đã được người Việt tiếp nhận và vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt:

Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua được đế cao tuyệt đối thì Nho giáo Việt Nam tuy vẫn đề cao tư tưởng này nhưng không cực đoan đến mức phải hy sinh tính mạng vì vua, quan niệm trung quan của người Việt gắn liền với ái quốc, trong nhiều trường hợp nước còn được đề cao hơn vua. Người Việt đề cao tinh thần yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc.

Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa đã bị khúc xạ qua lăng kính của người Việt, nó không chỉ là một khái niện hạn hẹp về đạo đứcmà nó còn trở thành một lý tưởng xã hội cao đẹp vì cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân – “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” trong Cáo bình Ngô của Nuyễn Trãi.

Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào Việt Nam cũng nhẹ bớt đi bởi truyền thống trọng phụ nữa có trong văn hóa bản địa.

Mặc dù, không thể phủ nhận một thực tế rằng trong gần 10 thế kỉ xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến nho giáo đã trở thành nền tảng tư tưởng chi phối về mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam, thấy được vai trò của Nho giáo trong đời sống tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt:

-Là nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ sở pháp lý để quản lý, duy trì dự ổn định của xã hội dựa trên các mối quan hệ cộng đồng xã hội và gia đình theo quan niệm tam cương, ngũ thường.

-Xây dựng nền tảng đạo đức, củng cố các mối quan hệ gia đình theo thứ bậc, kỹ cương của giáo lý nho giáo, xác lập chuẩn mực đạo đức để xây dựng mô hình nhân con người Việt Nam truyền thống với các tiêu chí: đạt đức, đạt đạo.

-Ngoài ra, nho giáo đã chi phối trực tiếp và toàn diện hệ thống giáo dục, thi cử truyền thống, từ mục đích đến nội dung và phương pháp giáo duc.

Câu 8: Đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với giáo dục Việt Nam hiện nay?

Nền giáo dục Việt Nam truyền thống được xây dựng theo mô hình của nền giáo dục Nho giáo với các đặc điểm sau:

Mục đích giáo dục: đào tạo ra người quân tử, những người để làm quan trị nước, giáo dục nho giáo rất đề cao vinh quan của người đỗ đạt với các tục lệ như tục xướng danh, tục ban áo mão và đãi yến tiệc, tục vinh qui bái tổ, khắc bia tiến sĩ ở Văn Miếu để lưu danh thiên cổ…

Nội dung giáo dục: không truyền thụ tri thức khoa học mà coi trọng việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lễ giáo để đào tạo nên mẫu người quân tử hiểu biết về thi, thư, lễ nhạc, có đủ phẩm chất để làm quan cai trị thiên hạ, các nội dung ấy được thể hiện trong hai bộ sách kinh điển của Nho giáo: tứ thư và ngũ kinh.

Về phương pháp truyền thụ tri thức: coi trọng việc ghi nhớ máy móc các tư tưởng của Khổng Mạnh, các lời dạy của thánh hiền, các nội dung trong hai bộ sách kinh điển và được thầu giáo truyền thụ hần như nguyên vẹn, máy móc “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”.

Những đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo đã tạo nên truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo của người Việt Nam, tuy nhiên quan niệm và phương pháp giáo dục của nho giáo cũng đã để lại những “di chứng” rất nặng nề cho nền giáo dục của Việt Nam hiện nay – coi trọng con đường lập thân bằng học vấn, học để làm thầy chứ không làm thợ, nội dung và phương pháp học nặng về lý thuyết, học vẹt, thầy đọc trò chép…

Câu 9: Hãy chỉ ra cơ sở hình thành, biểu hiện của tính cộng đồng và tác động hai mặtcủa nó đến cách tư duy, ứng xử của người Việt. Sưu tầm những câu thành ngữ, tục ngữ nói về tính cộng đồng của người Việt?

Lối sống định cư của cư dân nông nghiệp trồng trọt đã hình thành nên tính cộng đồng như là một đặc trưng tiên biểu của văn hóa làng. Tính cộng đồng là sự liên kết, gắn bó chặt chẽ giữa các gia đình, gia tộc, giữa các thành viên trong làng với nhau.

Cơ sở hình thành tính cộng đồng:

Tính cộng đồng của văn hóa làng Việt được hình thành trên nền tảng của hai mối quan hệ: láng giềng và huyết thống.

-Quan niệm láng giềng: do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải định cư, quần tụ thành làng, từ đó hình thành mối quan hệ láng giềng gắn bó.

+Bán an hem xa mua láng giềng gần.

-Quan hệ huyết thống: làng Việt được hình thành trên cơ sở của sự quần tụ các gia đình có cùng huyết thống, gắn bó, cưu mang, đùm bọc nhau cà về vật chất lẫn tinh thần.

+Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú dì.

+Chị ngã em nâng.

+Một người làm quan cả họ được nhờ.

Biểu hiện của tính cộng đồng:

Về kinh tế: gắn kết với nhau về kinh tế giữa các thành viên trong làng xã, luôn tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, chống thiên tai, hạn hán, lũ lụt, khi đói rét, mất mùa…

+Một miếng khi đói bằng một gói khi mua.

+Lá lành đùm lá rách.

Về tình cảm: luôn giúp đỡ nhau khi có khó khăn, hoạn nạn, khi vui, kkhi buồn.

+Một con ngựa đau cà tàu bỏ cỏ.

+Bầu ơi thương lấy bí cùng.

Về phong tục, tín ngưỡng: có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cùng thờ chung một vị thần của làng (thành hoàng), cùng tham gia các hội hè, đình đám… đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích ca nhân.

Về pháp luật: có qui ước. luât tục riêng của làng, mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với tư cách cá nhân, mà bị hòa tan trong cái chung của cộng đồng, làng xã.

+Một người làm quan cả họ được nhờ.

+Phúc cùng hưởng, họa cùng chia.

Ý thức cộng đồng đã tạo nên một chất keo gắn bó các thành viên trong làng, khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ. Tính cộng đồng được hình thành trên nền tảng của văn háo làng cũng chính là cơ sở để hình thành tinh thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quí báu của dân tộc ta.

Tác động hai mặt của tính cộng đồng đến lối sống, cách tư duy và ứng xử của người Việt

+Tác động tích cực:

Tạo nên nếp sống dân chủ bình đẳng, và tính tập thể hòa đồng “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”.

Tạo nên sự gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc lẫn nhau, là cơ sở tạo nên lối sống trọng tình – một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt: “Chị ngã em nâng”, “Lá lành đùm là rách”.

+Tác động tiêu cực:

Tạo nên tư tưởng bè phái.

Thói dựa dẫm, ỉ lại vào người khác -> tư tưởng cầu an, cả nể, sợ va chạm, sợ mất lòng nhau.

Thói cào bằng, đố kị, thủ tiêu ý thức về con người cá nhân, tu tưởng bình quân chủ nghĩa.

Trọng tình, cả nể là nguyên nhân tạo nên lối ứng xử đặt tình cao hơn lí.

Câu 10: Hãy chỉ ra cơ sở hình thành, biểu hiện của tính tự trị và tác động hai mặt của nó đến cách tư duy, ứng xử của người Việt. Sưu tầm những câu thành ngữ, tục ngữ nói về tính tự trị của người Việt?

Nếu tính cộng đồng là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng với nhau thì tính tự trị lại là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng khác.

Do tính cố kết cộng đồng cao khiến cho mỗi làng là một đơn vị độc lập, khép kín, co cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng, tạo nên tính chất tự trị, khép kín như một đặc trưng nổi bật của văn hóa làng.

Cơ sở hình thành tính tự trị:

Phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối sống khép kín, tự trị, hướng nội của văn hóa làng.

Biểu hiện của tính tự trị:

Về không gian địa lý: cư dân mỗi làng sống quần tụ trong một không gian khá biệt lập, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng, mỗi làng như một vương quốc nhỏ khép kín, làng nào làng ấy biết.

Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, có khả năng tự túc tự cấp nên không có nhu cầu quan hệ giao thương với bên ngoài.

Về mặt hành chính: mỗi làng có một đơn vị hành chính tự quản độc lập, có vai trò và chức năng giải quyết mọi việc trong làng. Bộ máy hành chính của mỗi làng gồm: Hội đồng kì mục (có chức năng như bộ phận lập pháp), lý dịch (có chức năng như bộ phận hành pháp), lệ làng – hương ước là luật lệ của làng.

Về tình cảm: các thành viên trong làng đều có quan hệ họ hàng nên quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.

Về tín ngưỡng: mỗi làng đều có thành hoàng là vị thần bảo trợ cho dân làng, có hội hè, đình đám riêng của mỗi làng.

Sự độc lập về không gian địa lí, về kinh tế, về bộ máy hành chính, về tình cảm, phong tục, tin ngưỡng đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một vương quốc nhỏ, khép kín khá biệt lập với làng khác và cũng thể hiện chức năng tự quản trong quan hệ với nhà nước.

Tác động:

+Tác động tích cực:

Tạo nên ý thức độc lập, tự chủ.

Tinh thần tự lực, tự cường, đức tính cần cù, chịu khó, tiết kiệm.

+Tác động tiêu cực:

Tính tự trị làng xã là cơ sỡ hình thành tư tưởng tiểu nông tư hữu, ích kỉ.

Tư tưởng bè phái, địa phương cục bộ, bảo thủ.

Tính gia trưởng, tôn ti, lối sống kiểu gia đình chủ nghĩa.

Tính tự trị của làng xã tạo nên lối tư duy hướng nội, bảo thủ, trí tuệ, tâm lí không thích sự thay đổi.

Câu 11: Hãy phân tích sự hình thành văn hóa trọng tình, biểu hiện và tác động hai mặt của nó đến cách tư duy, ứng xử của người Việt. Sưu tầm những câu thành ngữ, tục ngữ nói về lối sống trọng tình của người Việt?

Câu 12: Hãy chỉ ra và phân tích mối liên hệ gia đình (nhà) – làng – nước trong văn hóa tổ chức xã hội của người Việt?

Văn hóa tổ chức xã hội là những yếu tố văn hóa được thể hiện qua việc tổ chức các cộng đồng làm nên xã hội. trong xã hội Việt Nam truyền thống, do sự chi phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiểu nông nên các đơn vị tổ chức chủ yếu bao gồm: gia đình – làng xã – quốc gia.

Về đặc điểm:

Gia đình là một tế bào của xã hội, là một đơn vị của tổ chức làng xã. Cách thức tổ chức gia đình với tư cách là một tế bào xã hội, và sự ứng xử của văn hóa gia đình cũng là một bộ phận của văn hóa xã hội. Gia đình Việt Nam thường co nhiều thế hệ chung sống, bị chi phối bởi lối sống nông nghiệp và quan niệm nho giáo. Văn hóa gia đình thể hiện tính cộng đồng, gia đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống trong một nhà và tính gắn kết các thành viên trong gia đình rất bền chặt. Trong phong tục, tín ngưỡng gia đình coi trọng việc thờ cúng tổ tiên.

Làng là sự mở rộng của gia đình, cư dân trong làng sống quần tụ trng một không gian khép kín, khá biệt lập của mỗi làng. Dân sư trong làng luôn tương trợ giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Cả làng cùng có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cùng thờ chung một vị thần của làng, cùng tham gia các hội hè, đình đám.

Nước: là sự mở rộng của làng xã, chỉ khác nhau về tính tổ chức chặt chẽ và qui cũ. Dân cư trong một nước như an hem một nhà, gắn bó máu thịt với nhau, giúp đỡ lẫn nhau.

Về tổ chức

Trong gia đình, tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền, con cái mang họ bố, người bố có uy quyền tuyệt đối và chịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt, con trai được thừa kế tài sản và có nhiệm vị thờ cúng tổ tiên. Trật tự của mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ theo giáo lý của nho giáo.

Trong làng xã: mỗi làng có bộ máy hành chính tự quản độc lập, có vai trò và chức năng giải quyết mọi việc trong làng, có bộ phận hành pháp. Quản lý xã hội chủ yếu bằng luậ tục, hương ước nên từ đây đã hình thành ý thức không tôn trọng pháp luật: phép vua thua lệ làng.

Nhà nước phong kiến Đại Việt được tổ chức theo mô hình nhà nước Trung Hoa kiểu nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, đứng đầu nước là nhà vua, có quyền lực tuyệt đối. Cơ cấu bộ máy nhà nước gồm các tầng lớp: vua – quan lại – dân. Tuy nhiên nhà nước phong kiến Đại Việt có truyền thống dân chủ hơn. Vua được quan niện như bố mẹ của dân, rất gần dân, chăm lo cho dân, dân chủ còn bộc lộ qua truyền thống lãnh đạo tập thể, việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại của nhà nước… Quản lý xã hội bằng pháp trị kết hợp với đức trị.

Câu 13: Hãy chỉ ra và phân tích những đặc trưng của văn hóa truyền thống đã chi phối đến thái độ ứng xử đối với pháp luật của người Việt xưa và nay? Sưu tầm những câu thành ngữ, tục ngữ nói về thái độ ứng xử với pháp luật của người Việt?

Những đặc trưng của văn hóa truyền thống đã chi phối đến thái độ ứng xử đối với pháp luật của người Việt:

Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đã chi phối đến thái độ ứng xử pháp luật ở tính cộng đồng: cuộc sống định cư đã tạo cho cư dân nông nghiệp tính gắn kết cộng động cao, lối sống trọng tình, trọng nghĩa. Lối tư duy tổng hợp tạo nên thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt…


Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *