Phân tích các nguyên tắc của bộ luật hình sự Việt Nam

[VPLUDVN] Cũng như các ngành luật khác, ngành luật hình sự được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, trong đó có những nguyên tắc có tính chất chung cho cả hệ thống pháp luật và những nguyên tắc có tính đặc thù của ngành luật hình sự.

Việc tuân thủ những nguyên tắc này trong xây dựng cũng như áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự sẽ đảm bảo cho ngành luật hình sự thực hiện được các chức năng của mình. Nhìn tổng thể, các quy phạm pháp luật hình sự phải thể hiện được các nội dung của nguyên tắc đã đặt ra. Có thể có những quy định cụ thế không thể hiện trực tiếp nội dung của nguyên tắc nào của ngành luật hình sự nhưng những quy định này đều không được trái với các nguyên tắc đó.

Hiện nay, theo quan điểm chung thì có 6 nguyên tắc đó là: Nguyên tắc pháp chế; nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc nhân đạo; nguyên tắc hành vi; nguyên tắc có lỗi và nguyên tắc phân hoá TNHS.

1. Nguyên tắc pháp chế của Luật hình sự

Nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc chung của cả hệ thống pháp luật Việt Nam, được tuân thủ trong tất cả các ngành luật cụ thể. Trong ngành luật hình sự, nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các vấn đề về tội phạm và hình phạt đều phải được quy định cụ thể, rõ ràng trong văn bản luật (hiện nay là BLHS); việc xác định tội phạm và hình phạt trong áp dụng luật đều phải dựa trên các điều luật cụ thể. Như vậy, nguyên tắc này đòi hỏi phải được tuân thủ trong cả hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng luật. Cụ thể:

– Những hành vi bị coi là tội phạm phải được quy định thành các tội danh cụ thể và được mô tả rõ ràng bởi quy phạm pháp luật hình sự;

– Những loại hình phạt có thể được áp dụng cho người phạm tội (cũng như cho pháp nhân thương mại phải chịu TNHS) phải được quy định bởi quy phạm pháp luật hình sự và phải được xác định cho từng tội danh đã được quy định;

– Các căn cứ của việc quyết định hình phạt cụ thể cho người phạm tội (cũng như cho pháp nhân thương mại phải chịu TNHS) phải được quy định thống nhất bởi quy phạm pháp luật hình sự;

– Việc truy cứu TNHS người phạm tội (cũng như pháp nhân thương mại phải chịu TNHS) phải tuân thủ các quy định của ngành luật hình sự: Chỉ được kết tội họ về tội danh đã được quy phạm pháp luật hình sự quy định cũng như chỉ được tuyên hình phạt trong phạm vi mức độ cho phép của quy phạm pháp luật hình sự.

Những yêu cầu trên đây của nguyên tắc pháp chế đã được thể hiện trong các điều luật của BLHS. Khoản 1 Điều 2 quy định:

người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”.

Tương tự như vậy, khoản 2 Điều 2 cũng xác định pháp nhân thương mại chỉ có thể phải chịu TNHS theo các tội danh được quy định tại Điều 76 khi thoả mãn các điều kiện của Điều 75. Điều 8 cũng khẳng định tội phạm phải là hành vi đã được quy định trong BLHS. Điều 30 khi định nghĩa hình phạt đã khẳng định: Hình phạt:

>> Xem thêm:  Phòng ngừa nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm như thế nào ?

“… được quy định trong Bộ luật này, do toà án quyết định áp dụng… ”.

Điều 50 quy định:

“Khi quyết định hình phạt, toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặngTNHS”.

Từ nguyên tắc pháp chế (có tính chất chung), ngành luật hình sự Việt Nam thừa nhận một số nguyên tắc có tính đặc thù của ngành luật hình sự nhưng cũng chỉ là sự biểu hiện của nguyên tắc pháp chế. Trước hết phải kể đến nguyên tắc đã được thừa nhận chung “Nullum crimen sine lege” (không có tội khi không có luật). Cũng từ nguyên tắc này, ngành luật hình sự Việt Nam không chấp nhận nguyên tắc “áp dụng tương tự” và nguyên tắc “hiệu lực trở về trước” (còn được gọi là nguyên tắc “hồi tố”) để truy cứu TNHS một người (có hành vi nguy hiểm cho xã hội). Điều 2 và Điều 8 BLHS đã được nêu trên thể hiện rõ ràng quan điểm cấm “ọp dụng tương tự” để truy cứu TNHS. Điều 7 BLHS là điều luật thể hiện rõ quan điểm cấm áp dụng “cớ hiệu lực trở về trước” để truy cứu TNHS.

2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật

Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định:

“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội”.

Tương tự như vậy, Áp dụng hiệu lực trở về trước đế truy cứu TNHS là áp dụng một điều luật của luật hình sự để truy cứu TNHS một người về hành vi mà người đó đã thực hiện trước khi điều luật này có hiệu lực thi hành, vấn đề này được trình bày tiếp ở Chương II, Điều 51 Hiến pháp cũng khẳng định:

“Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,… ”.

Cụ thể hoá nguyên tắc hiến định này, Điều 3 BLHS Việt Nam quy định:

“Mọi người phạm tội đều bĩnh đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.

Ngoài ra, điều luật này còn xác định, mọi pháp nhân thương mại, khi phải chịu TNHS đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.

Ngành luật hình sự với các quy định về tội phạm và các quy định về hình phạt có giá trị như nhau đối với tất cả mọi người cũng như mọi pháp nhân thương mại nói chung và đặc biệt đối với tất cả những người đã có hành vi phạm tội nói riêng. Ngành luật hình sự không được phép quy định đặc điểm nhân thân như đặc điểm về giới tính, về tôn giáo, về thành phần, địa vị xã hội là cơ sở để truy cứu TNHS. Trong áp dụng luật hình sự, đặc điểm về nhân thân cũng không được phép ảnh hưởng đến việc truy cứu TNHS theo hướng định kiến hay thiên vị. Ở đây cần phân biệt giữa nguyên tắc này với việc quy định chủ thể đặc biệt cũng như việc quy định những đặc điểm nhất định về nhân thân là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc dấu hiệu tăng nặng, giảm nhẹ TNHS (những vấn đề này được trình bày ở các chương tiếp theo). Cụ thể: Việc xử lí tội phạm không bị chi phối bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội của người phạm tội; việc truy cứu TNHS pháp nhân thương mại cũng không bị chi phối bởi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế của pháp nhân thương mại. Tất cả các cá nhân và pháp nhân thương mại đều bình đẳng trước pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Người phạm tội cũng như pháp nhân thương mại phải chịu TNHS đều phải được các cơ quan tiến hành tố tụng đối xử bình đẳng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

3. Nguyên tắc nhân đạo

Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc chung và là nguyên tắc được đặc biệt chú ý trong ngành luật hình sự vì hậu quả mà người phạm tội phải chịu theo ngành luật này là hình phạt – “biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước…” (Điều 30 BLHS).

Ngành luật hình sự Việt Nam thể hiện nguyên tắc nhân đạo qua nhiều điều lụật khác nhau. Trong đó có các điều luật về nguyên tắc xử lí tội phạm, về các hình phạt và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Đây là những điều luật thể hiện tương đối rõ và trực tiếp nguyên tắc nhân đạo. Điều 3 BLHS khi xác định nguyên tắc xử lí đã khẳng định chính sách khoan hồng được áp dụng “đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra ”. Điều luật về mục đích của hình phạt đã khẳng định: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị… mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới…” (Điều 31 BLHS). Từ mục đích này mà ngành luật hình sự Việt Nam đã xác định các hình phạt trong hệ thống hình phạt đều là các hình phạt không nhằm gây đau đớn về thể xác và xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của người phạm tội. Đối với hai hình phạt nghiêm khắc nhất là hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình, luật hình sự Việt Nam cũng đã giới hạn phạm vi áp dụng để thể hiện tính nhân đạo, cụ thể: “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đổi với người dưới 18 tuổi phạm tội. ” (khoản 5 Điều 91 BLHS); “… Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khỉ xét xử” (khoản 2 Điều 40 BLHS); “Không thi hành án tử hĩnh đổi với… phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; …” (khoản 3 Điều 40 BLHS).

Ngoài ra, nguyên tắc nhân đạo còn được thể hiện ở nhiều điều luật quy định về quyết định hình phạt, về TNHS của người chưa đủ 18 tuổi, về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo), về miễn chấp hành hình phạt, giảm thòi hạn chấp hành hình phạt, về tha tù trước thời hạn có điều kiện, về xoá án tích …

4. Nguyên tắc hành vi

Xuất phát từ quan điểm: Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể là hành vi của con người mà không thể là ý nghĩ, tư tưởng của họ, ngành luật hình sự Việt Nam thừa nhận nguyên tắc hành vi là nguyên tắc của ngành luật này. Theo đó, ngành luật hình sự không cho phép truy cứu TNHS một người về tư tưởng của họ mà chỉ được truy cứu TNHS đối với hành vi của họ khi hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy phạm pháp luật hình sự quy định. Thể hiện nguyên tắc hành vi, Điều 8 BLHS đã xác định tội phạm phải là hành vi trong định nghĩa về tội phạm. Từ đó, trong phần mô tả các tội danh cụ thể, BLHS khi mô tả tội phạm đều mô tả hành vi của con người. Với nguyên tắc hành vi, ngành luật hình sự Việt Nam cấm truy cứu TNHS tư tưởng của con người. Ở khía cạnh này cũng có thể coi “cấm truy cứu TNHS tư tưởng” là nguyên tắc của ngành luật hình sự.

5. Nguyên tắc có lỗi

Gắn liền với nguyên tắc hành vi là nguyên tắc có lỗi. Ngành luật hình sự Việt Nam truy cứu TNHS một người về hành vi gây thiệt hại cho xã hội chỉ khi người đó có lỗi. Hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng chủ thể thực hiện không có lỗi (do những lí do khác nhau như họ bị mất năng lực nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xá hội vì mắc bệnh tâm thần hoặc do họ ở trong tình trạng bất khả kháng) thì hành vi đó không bị coi là tội phạm và chủ thể thực hiện không phải chịu TNHS. Với việc thừa nhận nguyên tắc có lỗi, luật hình sự Việt Nam cấm “truy tội khách quan ’’ (truy cứu TNHS chỉ căn cứ vào hành vi khách quan mà không xét đến lỗi (chủ quan) của chủ thể).

Thừa nhận nguyên tắc có lỗi là xuất phát từ chức năng giáo dục của ngành luật hình sự. Chức năng này không thể thực hiện được khi truy cứu TNHS một người mà họ không có lỗi.

Thể hiện nguyên tắc có lỗi, ngành luật hình sự Việt Nam khi định nghĩa tội phạm tại Điều 8 BLHS đã khẳng định tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, có nghĩa là được thực hiện một cách có lỗi. Từ đó, các điều luật trong BLHS khi mô tả tội cụ thể đều cần thể hiện dấu hiệu lỗi của tội phạm.

6. Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự

Cũng như các nguyên tắc khác, nguyên tắc phân hoá TNHS phải được thể hiện trong xây dựng luật hình sự cũng như trong áp dụng luật hình sự. Trong áp dụng luật hình sự, nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc cá thể hoá TNHS hay là nguyên tắc cá thể hoá hình phạt. Như vậy, cá thể hoá TNHS trong áp dụng luật hình sự và phân hoá TNHS trong luật hình sự là hai nội dung không tách rời nhau của nguyên tắc phân hoá TNHS. Trong đó, phân hoá TNHS trong luật là cơ sở pháp lí cần thiết cho việc cá thể hoá TNHS trong áp dụng.

Chức năng giáo dục của luật hình sự chỉ có thể trở thành hiện thực khi TNHS được xác định đúng cho từng người phạm tội. Hình phạt áp dụng cho người phạm tội cụ thể phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã gây ra và phải phù hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh của người phạm tội. Đây chính là yêu cầu của cá thể hoá TNHS (hình phạt) trong áp dụng luật hình sự. Tương tự như vậy, TNHS của pháp nhân thương mại cũng phải được cá thể hoá cho phù hợp với tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS cũng như phù hợp với “nhân thân” của pháp nhân thương mại.

Để cá thể hoá TNHS (hình phạt) trong khi áp dụng luật đòi hỏi phải có sự phân hoá TNHS trong luật và giải thích luật. TNHS càng được phân hoá trong luật và trong giải thích luật thì càng có cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt trong áp dụng. Do vậy, hoàn thiện sự phân hoá TNHS là một trong những nội dung hoàn thiện luật hình sự nói chung. Các biểu hiện của phân hoá TNHS trong luật có thể là:

– Phân loại tội phạm thành các nhóm tội khác nhau để có các quy định khác nhau về TNHS;

– Đa dạng hoá hệ thống hình phạt;

– Phân hoá chế tài của mỗi tội thành nhiều khung hình phạt khác nhau v.v..

Thể hiện nguyên tắc này, khoản 1 và khoản 2 Điều 3 BLHS xác định các đối tượng cần nghiêm trị và các đối tượng cần khoan hồng. Theo đó, những người phạm tội cần nghiêm trị là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, tái phạm nguy hiểm, côn đồ, ngoan cố chống đối, là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt để phạm tội, là người phạm tội có tố chức, có tính chất chuyên nghiệp, cổ ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp pháp nhân thương mại cần bị nghiêm trị là trường hợp đã dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Đối tượng cần được khoan hồng theo quy định của điều luật là người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra. Trường hợp pháp nhân thương mại cần được khoan hồng là trường hợp tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

Nội dung phân hóa trên đây đã được cụ thể hoá tại các điều 51 và 52 BLHS (các tình tiết giảm nhẹ TNHS, các tình tiết tăng nặng TNHS) cũng như được cụ thể hoá ở dấu hiệu định khung hình phạt của một số tội phạm. Nội dung phân hoá này cũng cần được chú ý khi áp dụng luật hình sự để cá thể hoá trách nhiệm hình sự.

Sưu tầm và Biên soạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *