Qúa trình phát triển của khái niệm quyền sở hữu

[VPLUDVN] Khái niệm quyền sở hữu là một khái niệm cốt lõi, cơ bản nhất của luật dân sự. Nếu ta hình dung luật dân sự như một ngôi nhà thì chế định tài sản và quyền sở hữu được coi là những viên gạch xây nên ngôi nhà đó. Trong các tài liệu pháp lý hiện nay, khái niệm quyền sở hữu được đề cập đến theo ba góc độ khác nhau.

Thứ nhất, quyền sở hữu được tiếp cận dưới góc độ là một quan hệ pháp luật – quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Nếu xuất phất từ góc độ này thì quyền sở hữu được phân tích với đầy đủ các bộ phận cấu thành của bất cứ một quan hệ pháp luật nói chung như chủ thể, khách thể, đối tượng, nội dung, căn cứ xác lập, căn cứ chấm dứt …

Thứ hai, khái niệm quyền sở hữu có thể được tiếp cận dưới góc độ là tập hợp các quy định pháp luật về sở hữu (nghĩa khách quan). Dưới góc độ này thì việc tiếp cận với vấn đề quyền sở hữu sẽ được thực hiện thông qua việc hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ sở hữu. Các quy phạm này chứa đựng trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Thứ ba, khái niệm quyền sở hữu được hiểu dưới góc độ là mức độ xử sự (quyền năng) mà pháp luật cho phép chủ sở hữu được thực hiện các hành vi nhất định (như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) lên tài sản theo ý chí của mình (nghĩa chủ quan). Dưới góc độ này, quyền sở hữu được coi là một trong những quyền năng cơ bản nhất mà một chủ thể có thể có được đối với tài sản (bên cạnh các quyền khác đối với tài sản như quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, quyền dụng ích cá nhân, …). Các phân tích tiếp sau đây của bài viết chỉ đề cập đến khái niệm quyền sở hữu theo khía cạnh thứ ba này.

Khái niệm quyền sở hữu được hình thành rất sớm. Chưa có tài liệu nào có thể khẳng định được chính xác thời điểm hình thành khái niệm quyền sở hữu. Chúng ta chỉ có thể khẳng định rằng một số khái niệm khác của luật dân sự phát sinh muộn hơn, và thậm chí còn được coi như một hệ luận của quyền sở hữu (như khái niệm thừa kế, sở hữu trí tuệ, …). Hơn thế nữa, khái niệm quyền sở hữu trải qua nhiều giai đoạn tiến hoá khác nhau, mỗi giai đoạn mang những nét đặc trưng riêng.

Mục đích chính của bài viết này là cố gắng khái quát hoá sự phát triển của khái niệm quyền sở hữu từ lúc hình thành ban đầu cho đến nay. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm pháp lý cơ bản khác biệt nhau và tạo nên những thế hệ riêng biệt của khái niệm quyền sở hữu. Các thế hệ này của khái niệm quyền sở hữu được phân tích không gắn kết với bất kỳ những mốc thời gian nào của lịch sử phát triển xã hội, bởi lẽ điều đó còn phụ thuộc vào lịch sử lập pháp của mỗi quốc gia khác nhau. Thậm chí tại một số quốc gia khái niệm quyền sở hữu khi bắt đầu được áp dụng đã mang tính kế thừa và có thể không trải qua những thế hệ đầu tiên trong các thế hệ sẽ được nêu dưới đây. Hơn thế nữa, trong thực tế luôn tồn tại đồng thời nhiều tài liệu nghiên cứu của nhiều luật gia khác nhau, mỗi tài liệu chịu ảnh hưởng của những cách hiểu khác nhau về quyền sở hữu.

Có thể khái quát hoá quá trình phát triển của khái niệm quyền sở hữu thông qua bốn thế hệ cơ bản, thể hiện bốn cách hiểu khác nhau về quyền sở hữu.

Thế h th nht – Tài sn th hin tư cách nhân thân ca ch s hu. Đây là giai đoạn sơ khai trong lịch sử phát triển chế định sở hữu. Khái niệm quyền sở hữu ban đầu được hiểu khác xa rất nhiều so với cách hiểu của chúng ta ngày nay. Trong giai đoạn sơ khai này mới chỉ có khái niệm chủ sở hữu chứ chưa có khái niệm quyền sở hữu. Tài sản khi đó được hiểu như là sự tiếp nối tư cách cá nhân của chủ sở hữu. Ai xâm phạm đến tài sản của một người (lấy mất con thú săn được, hoa trái thu lượm được) là xúc phạm tới cá nhân người đó. Thời La mã cổ đại có quan niệm rằng: Một người kiện kẻ trộm không phải vì mình có quyền sở hữu, mà vì người ăn trộm đã xúc phạm đến danh dự của mình thông qua hành vi ăn trộm đó. Kẻ trộm khi đó bị coi là kẻ xúc phạm (bị kiện theo phương thức kiện hành vi trộm cắp – actio furti), chứ chưa được coi là người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác (chưa áp dụng các phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu như kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình – actio rei vindicatio, hay phương thức kiện đòi lại tài sản bị trộm – condictio furtiva). Quan niệm đó dẫn đến một loạt các hệ quả pháp lý quan trọng sau đây:

– Theo quan niệm đó mà pháp luật La mã giai đoạn cổ đại đã quy định cho phép chủ sở hữu không những được lấy lại tài sản bị trộm mà còn được trả thù lại sự xúc phạm đó đối với kẻ trộm: chặt tay, giam giữ, giết, bán làm nô lệ, phạt gấp nhiều lần tài sản trộm, …(1). Cần lưu ý rằng trộm cắp thời đó được coi là vi phạm tư pháp và được điều chỉnh bởi hệ thống luật tư, chứ không phải bởi luật công như ngày nay.

– Nếu tài sản rời khỏi chủ sở hữu mà không có sự xúc phạm đến nhân thân của chủ sở hữu (Ví dụ như: chủ sở hữu cho người khác mượn tài sản, sau đó người mượn lại đem bán tài sản đó đi), thì chủ sở hữu không được quyền đòi lại(2).

– Cũng theo quan niệm đó mà Luật La mã thời kỳ cổ đại đã từng quy định rằng, nếu như có nhiều kẻ trộm cùng ăn trộm một tài sản, thì hành vi của mỗi kẻ trộm được coi là những sự xúc phạm riêng biệt đối với chủ sở hữu. Khi đó mỗi kẻ trộm phải trả cho người bị trộm toàn bộ tài sản đã ăn trộm (có bao nhiêu kẻ trộm cùng thực hiện việc trộm cắp thì chủ sở hữu được hưởng ngần ấy lần tài sản của mình)(3). Ví dụ như hai kẻ trộm cùng ăn trộm một con ngựa, thì khi bị bắt mỗi kẻ trộm phải nộp cho người bị trộm một con ngựa.

– Do tài sản là sự tiếp nối tư cách nhân thân của chủ sở hữu, do đó khi chủ sở hữu chết thì tư cách nhân thân chấm dứt, tài sản trở thành vô chủ. Một số tài liệu khảo cổ cho thấy thời xa xưa tại nhiều dân tộc có tồn tại tập quán rằng sau khi một người chết đi thì tài sản của người đó (tiền bạc, đồ dùng quý giá, thậm chí cả nô lệ) cũng được chôn theo. Cùng với đó một nguyên tắc pháp lý được hình thành dưới thời La mã cổ đại có nội dung như sau: “Vic lđi tài sn ca người chết không được coi là ăn trm” – “Rei hereditariae furtum non fit(4). Trong giai đoạn này chế định thừa kế chưa được hình thành rõ nét, chưa có quy định cụ thể cho việc dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho những người còn sống.

Thế h th hai – Quyn s hu vt là quyn ca ch th được chi phi tuyđối và theo ý chí ca mình đối vi vt. Với sự phát triển của giao lưu dân sự, thì khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ hai dần được hình thành và được hiểu là “quyn thng tr tuyđối ca mt ch th lên vt”. Quyền sở hữu là một loại vật quyền quan trọng nhất thể hiện sự phụ thuộc tuyệt đối và vô hạn của vật đối với chủ sở hữu. Chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với vật. Việc xác lập quyền sở hữu đối với vật trả lời cho câu hỏi: Vật này của ai?

Đối với một vật cụ thể thì không thể có bất kỳ chủ thể nào có nhiều quyền năng hơn chính chủ sở hữu vật đó. Mọi hành vi tác động lên vật hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của chính chủ sở hữu đó. Các đặc điểm cơ bản của quyền sở hữu được khái quát hoá là: 1) Tính chất tuyệt đối, 2) Tính độc nhất, 3) Mọi xử sự, 4) Theo ý chí của chủ sở hữu, 5) Vô thời hạn, 6) Việc thực hiện quyền sở hữu không dẫn tới chấm dứt quyền sở hữu đó. Cũng từ khi có cách hiểu này mà chủ sở hữu mới được bảo vệ bằng những phương thực kiện vật quyền. Ví dụ như kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình (rei vindicatio).

Cũng trong giai đoạn này mới hình thành nên nguyên tắc: “Mt người không th chuyn giao cho người khác nhiu hơn nhng gì mình có” (Tiếng La-tinh: “Nemo ad alium plus juris transferre potest, quam ipse habet”). Và hệ quả trực tiếp của nguyên tắc này là: nếu như tài sản đã được chuyển giao từ người chiếm hữu bất hợp pháp sang cho người thứ ba thông qua giao dịch dân sự thì chủ sở hữu vẫn được đòi lại tài sản từ người thứ ba đó. Ví dụ như một người mua phải tài sản do trộm cắp có được thì phải trả lại cho chủ sở hữu khi chủ sở hữu đòi lại. Bởi lẽ bản thân kẻ trộm không có quyền sở hữu đối với vật trộm được, do đó không thể chuyển giao quyền sở hữu sang cho người mua (không thể chuyển giao cái mà chình mình không có), khi đó người mua phải tài sản trộm cắp sẽ không thể trở thành chủ sở hữu tài sản mua được.

Tại đây phát sinh một vấn đề: Khi đó một người khi mua tài sản nào đó thường sẽ rất băn khoăn rằng: Không biết người bán cho mình có đích thực là chủ sở hữu tài sản không. Nếu người bán mà không phải chủ sở hữu tài sản thì đến một lúc nào đó sau khi mua chủ sở hữu sẽ đến đòi lại, bên mua khi đó bị buộc phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản mình đã mua. Nhằm khắc phục tận gốc vấn đề đó mà pháp luật các nước mới bắt đầu hình thành cơ chế đăng ký tài sản. Phương thức đăng ký tài sản đó ban đầu được áp dụng đối với bất động sản, sau đó áp dụng dần cho các loại tài sản khác là động sản.

Cách hiểu này đã cho phép chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với tài sản, do đó ở thế hệ thứ hai này ta không thấy có sự liệt kê các quyền năng cơ bản của chủ sở hữu.

Thế h th ba – Quyn s hu vt được hiu thông qua vic lit kê c th các quyn năng cu thành ca ch s hđối vi vt ca mình.

Trên thực tế thì trong một xã hội công dân, mọi hành vi của mỗi thành viên, trong đó kể cả hành vi đối với tài sản của chính mình, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi cho phép sao cho không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, cũng như lợi ích của toàn xã hội, của cộng đồng nói chung.

Chính vì lý do đó quyền năng của chủ sở hữu mới luôn bị hạn chế trong một giới hạn luật định. Quyền năng vô hạn của chủ sở hữu đối với vật “của mình” chỉ được thể hiện với ý nghĩa lớn hơn so với bất kỳ một chủ thể nào khác, chứ không bao giờ có thể nhiều hơn những gì pháp luật quy định. Nói cách khác, quyền sở hữu khi đó được hiểu là tập hợp một số quyền năng cụ thể của chủ sở hữu mà pháp luật quy định. Bắt đầu hình thành khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ ba – liệt kê cụ thể các quyền năng cấu thành của quyền sở hữu vật. Cách hiểu này được sử dụng rộng rãi trong pháp luật nhiều quốc gia những thế kỷ vừa qua.

Dưới thời cộng hoà La mã thì quyền sở hữu được hiểu bao gồm năm quyền năng là: 1) Quyền chiếm hữu, 2) Quyền sử dụng, 3) Quyền hưởng dụng lợi ích từ việc sử dụng vật, 4) Quyền định đoạt số phận vật, 5) Quyền kiện đòi lại vật từ người chiếm hữu bất hợp pháp.

Điều 544 Bộ luật dân sự Cộng hoà Pháp quy định rằng chủ sở hữu tài sản có hai quyền năng là “hưởng th và định đot vt mt cách tuyđối, min là không s dng tài sn vào nhng vic mà pháp lut cm”. Theo quy định tại Điều 903 Bộ luật dân sự Liên bang Đức thì chủ sở hữu vật có hai quyền năng “định đot vt theo ý chí ca mình và được bo v khi mi s tác động ca người khác lên vt”.

Pháp luật các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh- Mỹ thì lại liệt kê cụ thể hơn nữa các quyền năng của chủ sở hữu vật (thậm chí có thể có đến 10 –12 quyền năng). Điểm đặc biệt ở chỗ các quyền năng này lại có thể được hình thành theo các nhóm không giống nhau tại nhiều chủ thể khác nhau.

Trong các tài liệu nghiên cứu của các luật gia trên thế giới cũng có thể hiện rất nhiều các quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề liệt kê các quyền năng của chủ sở hữu vật. Luật gia Italia Pugliatti cho rằng quyền sở hữu bao gồm hai quyền năng cơ bản là quyền sử dụng và quyền định đoạt(5). Luật gia người Đức Haas T. bên cạnh ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt lại muốn bổ sung thêm quyền năng thứ tư là quyền quản lý(6).

Một số luật gia muốn đưa ra hàng loạt các quyền năng cụ thể mà chủ sở hữu có thể có được để ghép chúng vào với nhau theo từng ngữ cảnh cụ thể. Ví dụ như: luật gia Honore A. nêu ra danh mục mười một các quyền năng và yếu tố khác nhau của quyền sở hữu:

“1) Quyền chiếm hữu (hiểu theo nghĩa hẹp như nắm giữ cơ học)

2) Quyền sử dụng (trực tiếp tác động để khai thác công dụng hữu ích của vật)

3) Quyền quản lý (Quyết định việc cho ai sử dụng và sử dụng như thế nào)

4) Quyền thu lợi tức (thu nhận các lợi ích vật chất từ hai quyền trên)

5) Quyền tiêu huỷ, tiêu dùng, thay đổi vật theo ý muốn của mình.

6) Quyền bảo quản giữ gìn, không cho người khác tước đoạt.

7) Quyền chuyển giao vật;

8 ) Tính chất vô thời hạn;

9) Không được sử dụng vật với mục đích gây hại cho người khác;

10) Có thể mang đi bảo đảm trả nợ, bị xử lý cho việc trả nợ

11) Quyền khôi phục lại các quyền năng nêu trên khi chúng bị xâm phạm”(7)

Một số luật gia khác (như luật gia Mỹ Becker) hưởng ứng theo quan điểm này và còn bổ sung thêm rằng trong mỗi ngữ cảnh khác nhau thì nội dung quyền sở hữu có thể khác nhau, chỉ cần trong đó có ít nhất một trong 5 quyền năng đầu tiên là được. Hệ quả từ đó, quan điểm này cho phép tồn tại nhiều loại quyền sở hữu cùng tồn tại song song đối với một vật(8 ).

Thế h th tư – M rng hơn khái nim quyn s hu vt (thuc thế h th ba) sang lit kê các quyn năng c th ca ch s hu tài sn nói chung (bao gm vt, tin và c các tài sn vô hình).

Khái niệm quyền sở hữu của Luật dân sự Việt nam, cũng như của Liên bang Nga và của một số nước Đông Âu khác, đang ở vào thế hệ thứ tư này. Theo đó quyền sở hữu vật được mở rộng thành quyền sở hữu tài sản nói chung (cho cả vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản) và được hiểu thông qua ba quyền năng cấu thành là chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Khoản 1 Điều 209 Bộ luật dân sự Liên bang Nga quy định rằng: “Ch s hu có quyn chiếm hu, s dng và định đot tài sn ca mình(9).

Khái niệm quyền sở hữu trong pháp luật dân sự Việt nam hiện nay thuộc thế hệ thứ tư này. Điều 173 Bộ luật dân sự quy định: “Quyn s hu bao gm quyn chiếm hu, quyn s dng và quyđịnh đot tài sn ca ch s hu theo quy định ca pháp lut”.

Trong BLDS có chứa các quy định về quyền sở hữu các tài sản vô hình (quyền sở hữu đối với quyền tài sản). Ví dụ như tại Điều 422 BLDS về đối tượng của hợp đồng mua bán có quy định rằng “3- Trong trường hđối tượng ca hđồng mua bán là quyn tài sn, thì phi có giy t hoc các bng chng khác chng minh quyđó thuc s hu ca bên bán”.

Hoặc ví dụ như Điều 442 BLDS về hợp đồng mua bán quyền tài sản có quy định rằng “1- Trong trường hp mua bán quyn tài sn, thì bên bán phi chuyn giy t và làm th tc chuyn giao quyn s hu cho bên mua, còn bên mua phi tr tin cho bên bán.

3- Thđim chuyn giao quyn s hđối vi quyn tài sn là thđim bên mua nhđược giy t xác nhn v quyn s hđối vi quyn v tài sđó hoc t thđiđăng ký vic chuyn giao quyn s hu, nếu pháp lut có quy định”.

Khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ tư này đang được coi là hoàn thiện nhất và thông dụng nhất trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên ngay từ bây giờ cách hiểu đó cũng vẫn đang tiềm ẩn nhiều vấn đề bất cập chưa giải quyết được. Các vấn đề này là hệ quả tất yếu của việc áp dụng cơ chế ba quyền năng đồng thời cho nhiều loại tài sản khác nhau (vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền, quyền tài sản).

Vấn đề thứ nhất liên quan đến hai loại tài sản là tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền. Hai loại tài sản này có điểm đặc biệt là chúng chỉ có chức năng trao đổi, chứ không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính đồng tiền hay từ chính tờ giấy tiền, tờ giấy trị giá được bằng tiền. Hai loại tài sản này chỉ mang lại lợi ích cho chủ sở hữu khi nó được chủ sở hữu chuyển giao sang cho chủ thể khác kèm theo đó chuyển giao luôn quyền sở hữu (tức thực hiện quyền định đoạt, chứ không phải là quyền sử dụng). Đó cũng là sự khác biệt cơ bản giữa chúng đối với vật. Từ đó nhận thấy rằng quyền sử dụng khó có thể được coi là một quyền năng của chủ sở hữu tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền.

Vấn đề thứ hai liên quan đến quyền sở hữu đối với quyền tài sản. Quyền tài sản được coi là tài sản vô hình, không nắm giữ được. Vậy chủ sở hữu sẽ thực hiện quyền chiếm hữu như thế nào đối với loại tài sản vô hình đó. Việc chiếm hữu tài sản vô hình là không thể thực hiện được. Chủ sở hữu chỉ có thể chiếm hữu được một số giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản của mình mà thôi.

Vấn đề tiếp theo cũng rất quan trọng được đặt ra khi nghiên cứu quyền sở hữu tài sản thông qua ba quyền năng là: Trong nhiều trường hợp một người không phải là chủ sở hữu nhưng lại có cả ba quyền năng đó. Điều 180 BLDS quy định rằng: “Người không phi là ch s hu cũng có quyn chiếm hu, s dng, định đot tài sn không thuc quyn s hu ca mình theo tho thun vi ch s hu tài sđó hoc theo quy định ca pháp lut”. Ví dụ như: Pháp luật quy định hầu như cho phép các doanh nghiệp nhà nước có cả ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho doanh nghiệp đó quản lý. Ngược lại, có những trường hợp một người là chủ sở hữu tài sản nhưng lại không được thực hiện cả ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Ví dụ như trường hợp tài sản đang trong thời gian cầm cố được giao cho bên nhận cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Các vấn đề bất cập nêu trên nói lên thực trạng rằng cơ chế ba quyền năng (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) không thể thể hiện hết được bản chất pháp lý của quyền sở hữu tài sản. Câu hỏi được đặt ra cho các nhà nghiên cứu luật là: Ngoài ba quyền năng đó ra thì còn phải bổ sung thêm nội dung gì nữa thì mới thể hiện hết được bản chất của quyền sở hữu?

Điều dễ nhận thấy rằng nếu bổ sung thêm một vài quyền năng nữa cho khái niệm quyền sở hữu tài sản thì cũng không thể giải quyết được triệt để các vấn đề nêu trên. Khái niệm tài sản thế h th năm (thuộc về tương lai) đòi hỏi không chỉ bổ sung thêm một vài quyền năng nữa, mà cần thiết phải có một bước thay đổi cơ bản về cách hiểu khái niệm quyền sở hữu. Vậy đâu là phương hướng mà pháp luật trong tương lai sẽ lựa chọn? Khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ năm sẽ như thế nào? Câu hỏi đó chắc chắn sẽ trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu luật dân sự. Tại đây tôi chỉ xin tạm thời nêu một chút cảm nhận ban đầu như sau để chúng ta cùng thảo luận (vì chỉ là cảm nhận nên có thể sẽ không trở thành hiện thực): Khái niệm quyền sở hữu trong tương lai có thể sẽ không liệt kê các quyền năng, mà chỉ liệt kê các hạn chế của chủ sở hữu. Nói cách khác, chủ sở hữu sẽ có mọi quyền năng, ngoại trừ một số hạn chế cụ thể mà pháp luật quy định không cho phép chủ sở hữu được thực hiện. Kèm theo đó pháp luật có thể cụ thể hoá hơn nữa các nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Phương hướng đó sẽ phù hợp với nguyên tắc chung thực hiện quyền sở hữu được quy định tại Điều 178 BLDS: “Ch s hđược thc hin mi hành vi theo ý chí ca mình đối vi tài sn, nhưng không được làm thit hi và nh hưởng đến li ích ca Nhà nước, li ích công cng, quyn, li ích hp pháp ca người khác”.

———-oOo———

Chú thích:

(1) – Các điều 6 – 11 Luật Hammurabi của Vương quốc Babilon vào những năm 1792 – 1750 trước Công nguyên.

Các điều 12 – 18 Bảng VIII Luật 12 Bảng (Duedecim Tabulae) của nhà nước La mã ban hành năm 449 trước Công nguyên.

(2) – Gai. III, 197.

(3) – Gai. III, 202.

(4) – Digesta.47,19,2.1; Codex.9,32; Gai. III, 201.

(5) – Pugliatti S. Il trransferimento dell situazioni soggettive. Milano, 1964.

(6) – Haas T. Ist “Nutzungseigentum” nosh Eigentum? Inaug. Diss. Marburg.1976. S. 146.

(7) – Honore A.M. Ownership // Oxford Essays in Jurisprudence. Oxford, 1961, P. 107 – 147.

(8) – Becker L. Property Rignts. Philosophical Foundations. L., 1977, P. 20-21.

(9) – BLDS Liên bang Nga, Phần thứ nhất được thông qua ngày 21/10/1994, có hiệu lực từ ngày 1/1/1995.

TS. Bùi Đăng Hiếu – Đại học Luật Hà Nội

Nguồn: Tạp chí Luật học số 5/2003

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *