Quy định về chứng minh trong vụ án hình sự?

1. Khái niệm chứng minh trong tố tụng hình sự

Do không trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội nên cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ dựa vào các thông tin liên quan đến đối tượng chứng minh được thu thập theo trình tự, thủ tục luật định để kết luận về các tình tiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án.

Quá trình chứng minh là quá trình tư duy logic và thực tiễn của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để thu thập, kiểm tra, đánh giá chửng cứ nhằm giải quyết vụ án vụ án.

Như vậy, quá trình chứng minh có các đặc điểm sau đây:

– Là hoạt động tư duy logic và thực tiễn của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền chứng minh. Chứng minh trong tố tụng hình sự là một dạng của quá trình nhận thức nên nó tuân thủ không chỉ các quy luật khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức mà còn phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của luật tố tụng hình sự. Chứng minh trong to tụng hình sự chính là nhận thức về vụ án đã được thực hiện trong thực tế. Nó bao gồm cả hoạt động tư duy logic và hoạt động thực tiễn, được điều chỉnh bằng các quy luật nhận thức khách quan và các quy định về thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

– Nội dung của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là thu thập, kiểm tra và đánh giá các thông tin, tư liệu liên quan và có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án hình sự (chứng cứ). Cả ba hoạt động này là thống nhất, liên quan chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau đảm bảo cho quá trình nhận thức về vụ án được nhanh chóng, chính xác, khách quan. Cũng có ý kiến cho rằng ngoài thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, quá trình chứng minh gồm nhiều hoạt động khác nữa như phát hiện, bảo quản, sử dụng chứng cứ Thực ra đâỵ là cách phân nhỏ các hoạt động chứng minh, chứ không phải là quan niệm khác về bản chất quá trình chứng minh.

– Đối tượng chứng minh (nhận thức) liên quan chặt chẽ, phụ thuộc vào các quy định của các quy phạm luật nội dung, tức các quy định của BLHS. Nhiệm vụ chứng minh trong tố tụng hình sự chỉ bó gọn các tình tiết của vụ án cần làm sáng tỏ từ góc độ luật hình sự.

– Trong quá trình chứng minh có sự tham gia của nhiều chủ thể chứng minh khác nhau. Từ góc độ chức năng tố tụng, địa vị pháp lí trong vụ án khác nhau cho nên vai frò chứng minh của mỗi chủ thể cũng khác nhau.

– Mục đích của chứng minh là để giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự, cho nên quá trình chứng minh không kết thúc ngay vào thời điểm các tình tiết của vụ án được làm sáng tỏ mà nó còn được kiểm tra lại thông qua việc tranh tụng, mối quan hệ chế ước của các chủ thể chứng minh và chỉ kết thúc khi kết quả chứng minh được sử dụng để cơ quan có thẩm quyền ra các quyết định cuối cùng giải quyết thực chất vụ án.

2. Đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự

2.1. Khái niệm đối tượng chứng minh

Đối tượng chứng minh là tất cả các tình tiết phải được xác định đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình sự.

Nhiệm vụ của hoạt động tố tụng trong giải quyết vụ án cụ thể là phát hiện nhanh chóng, xử lí chính xác, công minh tội phạm và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Việc chứng minh tội phạm là nhằm làm sáng tỏ các tình tiết khác nhau của vụ án phục vụ cho việc định tội, quyết định trách nhiệm hình sự và hình phạt cũng như giải quyết các vấn đề khác liên quan của vụ án.

Việc làm rõ đôi tượng chứng minh có ý nghĩa quan trọng trong xác định đúng đắn phạm vi, giới hạn chứng minh. Xác định không đầy đủ đối tượng chứng minh sẽ dẫn đến tội phạm không được chứng minh đầy đủ, các tình tiết của vụ án không được làm rõ hết, làm cho việc giải quyết vụ án thiếu toàn diện, thiếu chính xác. Ngược lại, nếu xác định đối tượng chứng minh quá rộng so với đòi hỏi của pháp luật thì làm cho việc chứng minh dàn trải không cần thiết, kéo dài thời gian tố tụng dẫn đến giải quyết vụ án không kịp thời, thậm chí nhiều lúc gây nên sự phiền rối trong quá trình chứng minh. Vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự. Điều 85 BLTTHS năm 2015 quy định khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:

– Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vĩ phạm tội;

– Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

– Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

– Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

– Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

– Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.

Ngoài ra, Điều 416 BLTTHS năm 2015 còn quy định khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi, cần phải xác định rõ:

– Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi;

– Điều kiện sinh sống và giáo dục;

– Có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục;

– Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.

Các điều luật nêu trên của BLTTHS năm 2015 chỉ quy định đối tượng chứng minh chung trong vụ án hình sự. Trên cơ sở quy định chung đó, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án xác định đối tượng chứng minh cụ thể để giải quyết nhiệm vụ trong từng vụ án. Vi dụ: Một trong những đối tượng chứng minh trong vụ án chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn phạm tội, bởi vì, đó là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt các tội chiếm đoạt với nhau: lén lút chiếm đoạt là phạm tội trộm cắp tài sản; dùng thủ đoạn gian dối là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đe doạ sẽ dùng vũ lực là phạm tội cưỡng đoạt tài sản…

2.2 Phân loại đổi tượng chứng minh

Căn cứ vào ý nghĩa pháp lí hình sự của các tình tiết cần chứng minh đối với việc giải quyết vụ án hình sự, có thể phân đối tượng chứng minh thành các nhóm sau:

– Nhóm các tình tiết có ý nghĩa định tội, bao gồm các tình tiết thuộc yếu tố cấu thành cơ bản tội phạm (khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm), các tình tiết định khung tăng nặng, định khung giảm nhẹ;

– Nhóm các tình tiết có ý nghĩa quyết định trách nhiệm hình sự và hình phạt, bao gồm có các tình tiết là căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29 BLHS năm 2015), miễn hình phạt (Điều 59 BLHS năm 2015); các tình tiết xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, người phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội; các tình tiết về mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên phạm tội, về điều kiện sống và làm việc, về nguyên nhân và điều kiện phạm tội…;

– Nhóm các tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết các vấn đề khác của vụ án như các tình tiết có ý nghĩa áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục khiển trách, hoà giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp tư pháp hình sự đưa vào trường giáo dưỡng; giải quyết việc tịch thu, bồi thường, xử lí vật chứng…

Đối tượng chứng minh ữong vụ án hình sự là hệ thống các tình tiết thống nhất, liên quan chặt chẽ và có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Để giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự cần phải xác định đầy đủ các tình tiết thuộc đối tượng chứng minh, không được coi trọng hay xem nhẹ đối tượng nào.

3. Phương tiện chứng minh

– Vật chứng.

– Lời khai.

– Kết luận giám định.

– Biên bản và các tài liệu khác.

4. Quá trình chứng minh

– Thu thập chứng cứ : là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ.

+ Những biện pháp thu thập chứng cứ rất đa dạng tùy thuộc đặc điểm vào từng loại chứng cứ nhưng phải hợp pháp. Chỉ được sử dụng các biện pháp mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định và phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định mới bảo đảm cho chứng cứ thu được có giá trị.

+ Chứng minh tội phạm và người phạm tội chỉ những người có thẩm quyền tố tụng mới được thu thập chứng cứ. Bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án nhưng họ không có nghĩa vụ phải thu thập chứng cứ. Khi thu thập chứng cứ, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản tố tụng để ghi nhận những chứng cứ đó.

– Đánh giá chứng cứ: là việc xác định một cách thận trọng, toàn diện, khách quan mức độ tin cậy của những tình tiết thực tế đã thu thập được cũng như nguồn của nó để xác lập đúng đắn những những tình tiết của vụ án.

+ Nhằm xác định độ tin cậy và giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như toàn bộ chứng cứ đã thu thập được.

+ Chủ thể của đánh giá chứng cứ là những người tham gia vào quá trình tố tụng.

5. Nghĩa vụ chứng minh của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật

Nghĩa vụ chứng minh của Cơ quan điều tra

  • Chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh:

Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo…” Như vậy, chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong Cơ quan điều tra là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên.

Thủ trưởng cơ quan điều tra là người đứng đầu Cơ quan điều tra. Khi thực hiện nghĩa vụ chứng minh, thủ trưởng cơ quan điều tra là người trực tiếp chỉ đạo và tổ chức các hoạt động điều tra theo quy định tại khoản 2 Điều 34 luật này.

Khi thủ trưởng cơ quan điều tra vắng mặt, phó thủ trưởng được phân công điều tra vụ án hình sự phải thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng Cơ quan điều tra (khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự).

Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 thì Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng có thẩm quyền ra các quyết định TTHS đê giải quyết vụ án. Tuy nhiên, người trực tiếp thực hiện hiện các hoạt động điều tra là các Điều tra viên. Khi tiến hành các hoạt động điều tra được sự phân công của thủ trưởng, phó thủ trưởng, điều tra viên tiến hành các hoạt động quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự.

Như vậy có thể thấy rằng, qua việc thực hiện các hoạt động điều tra, Điều tra viên tiến hành thu thập, kiểm tra các chứng cứ và đánh giá từng chứng cứ theo sự phân công của thủ trưởng. Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra có trách nhiệm kiểm tra và đánh giá toàn diện, tổng hợp các chứng cứ trong vụ án, trên cơ sở đó ra những quyết định để giải quyết vụ án.

  • Các giai đoạn tố tụng mà cơ quan điều tra thực hiện nghĩa vụ chứng minh:

Trong quý trình giải quyết vụ án, cơ quan điều tra thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án hình sự.

Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ khi cơ quan điều tra nhận được thông tin về tội phạm, cơ quan điều tra phải xác định có sự việc xảy ra hay không, nếu có sự việc xảy ra phải xem xét sự việc đó có hay không có dấu hiệu tôi phạm. Nếu xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án. Nếu xác định không có dấu hiệu tội phạm thì không khởi tố vụ án mà có thể xử lý bằng các biện pháp khác.

Giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Sauk hi khởi tố vụ án, cơ quan điều tra phải thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội là cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Kết thúc điều tra, nếu có căn cứ xác định tội phạm, cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố.

  • Phạm vi những vấn đề cơ quan điều tra và cơ quan khác có thẩm quyền điều tra có nghĩa vụ chứng minh:

Ở giai đoạn khởi tố vụ án: cơ quan điều tra có nhiệm vụ xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để khởi tố. Theo quy định tại Bộ luật hình sự, hành vi bị coi là tội phạm khi có bốn dấu hiệu: tính nguy hiểm cho xã hội, lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính chịu hình phạt. Dấu hiệu của tội phạm được xác định thông qua các cơ sở do luật định (chủ thể có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động điều tra) có giá trị pháp lý. Nếu không dựa vào những cơ sở do luật định thì cơ quan điều tra cũng không thể có được các căn cứ để khởi tố vụ án.

Ở giai đoạn điều tra vụ án: trên cơ cở quyết định khởi tố vụ án, cơ quan điều tra phải làm rõ những vấn đề được quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự (có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự hay không, mục đích và động cơ phạm tội; nhưng tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra). Ngoài các vấn đề được quy định tại điều 63, tùy từng vụ án có thể phải chứng minh thêm các tình tiết khác được quy định trong Điều 302, 312 Bộ luật tố tụng hình sự. Phạm vi vấn đề cần được chứng minh có thể thay đổi hoặc mở rộng nếu có căn cứ để thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, có thể đặt các giả thuyết khác nhau để làm rõ vấn đề cần chứng minh.

  • Cách thức cơ quan điều tra thực hiện nghĩa vụ chứng minh:

Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dung các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Để thực hiện nghĩa vụ chứng minh, cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật và ra các quyết định để giải quyết vụ án.

Việc tiến hành các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra khác với Viện kiểm sát và Tòa án: pháp luật quy định cụ thể những căn cứ áp dung các biện pháp thu giữ, khám xét, tạm giữ, kê biên tài sản… tại Điều 140 Bộ luật tố tụng hình sự, quy định những người có thẩm quyền ra lệnh khám xét Điều 141, trình tự tiến hành Điều 142 đến 146 Bộ luật tố tụng hình sự; Việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của cơ quan điều tra ít nhiều phụ thuộc vào quan điểm của Viện kiểm sát Điều 112 quy định Viện kiểm sát có quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu điều tra, yêu cầu thay dổi điều tra viên khi cần thiết… Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát, khoản 4, 5, 6 Điều 112 quy định nếu cơ quan điều tra không nhất trí với yêu cầu của Viện kiểm sát có thể kiến nghị lên Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (Điều 114); Cơ quan điều tra có thể thực hiện nghĩa vụ một cách gián tiếp thông qua ủy thác điều tra.

Nghĩa vụ chứng minh của Viện kiểm sát

Chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh của Viện kiểm sát là Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự, Viện trưởng thực hiện nghĩa vụ chứng minh thông qua việc ra các quyết định tố tụng để giải quyết vụ án (khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, bị can…). Khi Viên trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một Phó viện trưởng được ủy nhiệm thực hiện nghĩa vụ, quyền hạn của Viện trưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 36. Kiểm sát viên là người trực tiếp làm các nhiệm vụ theo sự phân công của Viên trưởng được quy định tại khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự (đề ra yêu cầu điều tra, triệu tập và hỏi cung bị can, triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hai,…).

  • Các giai đoạn tố tụng mà Viện kiểm sát thực hiện nghĩa vụ chứng minh:

Viện kiểm sát thực hiện nghĩa vụ điều tra ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.

Giai đoạn khởi tố: Viện kiểm sát đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện phải bị khởi tố, đảm bảo việc khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp.

Giai đoạn điều tra: Viện kiểm sát yêu cầu điều tra, tham gia hoạt động điều tra và trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.

Giai đoạn truy tố: sau khi xem xét các tài liệu mà cơ quan điều tra chuyển sang, Viện kiểm sát ra các quyết định cần thiết (quyết định truy tố bị can, quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án)

Giai đoạn xét xử sơ thẩm: Viện kiểm sát đọc cáo trạng, tham gia xét hỏi, tranh luận và thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm.

Giai đoạn xét xử phúc thẩm: trong giai đoạn này, Tòa án phúc thẩm sẽ xét xử lại vụ án về mặt nội dung cũng như xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm.

  • Phạm vi những vấn đề Viện kiểm sát có nghĩa vụ chứng minh:

Ngoài việc tự mình chứng minh, xác định sự việc để quyết định việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của Hội đồng xét xử (khoản 3 Điều 104), Viện kiểm sát còn đánh giá quyết định khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền khởi tố khác, có quyền hủy quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ , ra quyết định khởi tố vụ án và yêu cầu điều tra, kháng nghị quyết định khởi tố của Tòa án (Điều 109). Qua đó Viện kiểm sát thể hiện quan điểm nhận định của mình đối với vụ án.

Trong giai đoạn điều tra, phạm vi những vấn đề mà Viện kiểm sát phải chứng minh cũng là những vấn đề mà cơ quan điều tra phải chứng minh, Viện kiểm sát cũng có thể mở rộng phạm vi nếu thấy có căn cứ xác định, Viện kiểm sát có quyền ra quyết định bổ sung quyết đinh khởi tố vụ án (Điều 106), bổ sung quyết định khởi tố bị can (Điều 127).

Trong giai đoạn truy tố, phạm vi của Viện kiểm sát chủ yếu căn cứ vào bản kết luận điều tra đề nghị truy tố của cơ quan điểu tra, Viện kiểm sát phải chứng minh làm rõ đề nghị truy tố của cơ quan điều tra là có căn cứ hay không. Trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền xem xét đối với những bị can cơ quan điều tra đã đình chỉ (khoản 4 Điều 164).

Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phạm vi của Viện kiểm sát là những vấn đề mà Viện kiểm sát đã quyết định truy tố. Thông qua cáo trạng, bằng việc viện dẫn chứng cứ, căn cứ pháp luật, bảo vệ cáo trạng của mình. Viện kiểm sát cũng có thể thay đổi hoặc hạn chế phạm vi (rút một phần quyết định tố tụng, kết luận về tội nhẹ hơn…)

Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, phạm vi của Viện kiểm sát chủ yếu căn cứ vào kháng cáo, kháng nghị. Ngoài ra, Viện kiểm sát có thể thay đổi, bổ sung phạm vi những vấn đề mà Viện kiểm sát phải chứng minh thông qua việc thay đổi, bổ sung kháng nghị hoặc rút khỏi kháng nghị trước hoặc tại phiên tòa (Điều 238)

  • Cách thức Viện kiểm sát thực hiện nghĩa vụ chứng minh:

Viện kiểm sát thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình có điểm khác so với cơ quan điều tra và Tòa án: Viện kiểm sát có thể tự mình thực hiện các hoạt động điều tra trong những trường hợp cần thiết (hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra khi thấy cần phải thu thập thêm chứng cứ); Có các hoạt động có tính chất chỉ đạo điều tra (theo quy định tại các Điều 141, 144, 146 thì các hoạt động khám xét, tạm giữ, thu giữ, kê biên tài sản của Cơ quan điều tra phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành);

Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án

  • Chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh của Tòa án:

Là thành viên của Hội đồng xét xử, đó là Thẩm phán và Hội thẩm. Trước khi mở phiên tòa, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm đều có nghĩa vụ kiểm tra, đánh giá chứng cứ thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, nhưng việc ra các quyết định tố tụng chỉ thuộc về Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Còn lại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm đều có nghĩa vụ thực hiện các hoạt động chứng minh để ra bán án hoặc ra những quyết định cần thiết nhằm giải quyết vụ án.

  • Các giai đoạn tố tụng mà Tòa án thực hiện nghĩa vụ chứng minh:

Tòa án thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình qua 2 cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.

Giai đoạn xét xử sơ thẩm: được tiến hành bắt đầu từ khi tòa án thụ lý vụ án và kết thúc khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Giai đoạn xét xử phúc thẩm: khi Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm nhận hồ sơ vụ án cùng kháng cáo, kháng nghị sẽ tiến hành mở phiên tòa phúc thẩm để xét xử lại vụ án về mặt nội dung cũng như về tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm. Sauk hi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ra bán án hoặc những quyết định cần thiết khác để giải quyết những vấn đề của vụ án.

  • Phạm vi những vấn đề Tòa án có nghĩa vụ chứng minh:

Theo quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự: “Khi điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chứng minh: “1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; 3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; 4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”.

Như vậy, cùng với cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án phải chứng minh những vấn đề được quy định tại Điều 63, tuy nhiên, Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã quyết định đưa ra xét xử, chủ yếu là căn cứ vào quyết định truy tố của Viện Kiểm sát (ở giai đoạn xét xử sơ thẩm) hoặc căn cứ vào kháng cáo, kháng nghị (ở giai đoạn xét xử phúc thẩm), đối với những phần còn lại của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại nếu việc xem xét lại những phần đó có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

  • Cách thức Tòa án thực hiện nghĩa vụ chứng minh:

Tòa án thực hiện nghĩa vụ chứng minh có một số điểm khác biệt so với cơ quan điều tra và Viện kiểm sát:

Thứ nhất, nghĩa vụ chứng minh của Tòa án có tính dân chủ: theo quy định tại Điều 19 Bộ luật tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa án.

Thứ hai, nghĩa vụ chứng minh của Tòa án có tính công khai: việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự (Điều 18). Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mĩ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.

Thứ ba, Tòa án trực tiếp chứng minh, phải xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi, nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng và nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự (Khoản 1 Điều 184). Còn cơ quan điều tra có thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh một cách gián tiếp thông quy ủy thác điều tra.

Cách thức Tòa án thực hiện nghĩa vụ chứng minh:

Giai đoạn chuẩn bị xét xử: Xét về bản chất, hoạt động chứng minh trong giai đoạn này chỉ là hoạt động chuẩn bị cho hoạt động thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể tại phiên tòa. Trong giai đoạn này, Thẩm phán và Hội thẩm đều tiến hành nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá hồ sơ nhưng chủ yếu do thẩm phán chủ toạ phiên tòa tiến hành và ra quyết định giải quyết. Nghĩa vụ của thẩm phán trong giai đoạn này là kiểm tra xem đã đầy đủ về thủ tục pháp lý chưa, xem xét, đánh giá các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đủ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án chưa, có cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ những vấn đề hoặc tình tiết nào của vụ án, nếu chưa đủ chứng cứ để chứng minh thì cần bổ sung thêm. Sau khi đã kiểm tra và đánh giá, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định tại khoản 1 Điều 151.

Giai đoạn xét xử vụ án: nghĩa vụ chứng minh của Tòa án được thực hiện thông qua các hoạt động sau:

Hoạt động xét hỏi tại phiên tòa: Mục đích của việc xét hỏi tại phiên tòa của Hội đồng xét xử là thông qua kiểm tra chứng cứ trong vụ án một cách toàn diện , khách quan, kể cả những chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án cũng như những chứng cứ tại phiên tòa để làm sáng tỏ sự thật vụ án.

Xem xét vật chứng: việc đưa vật chứng ra xem xét nhằm làm rõ tính khách quan, liên quan và hợp pháp của vật chứng để xác định được giá trị chứng minh trong vụ án.

Xem xét tại chỗ: (Điều 213) thông qua hoạt động này, Hội đồng xét xử thực hiện nghĩa vụ chứng minh cũng nhắm kiểm tra chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật vụ án. Đồng thời, nếu qua tranh luận mà Hội đồng xét xử thấy có chứng cứ mới xuất hiện thì ra quyết định trở lại xét hỏi nhằm làm rõ các nội dung cần thiết.

Nghị án và tuyên án: nghĩa vụ chứng minh của Tòa án thể hiện rõ nhất qua hoạt động này. Khi nghị án, Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra lại tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện. bản án là kêt quả của hoạt động xét xử công khai, trực tiếp nên được công bố một cách công khai và trực tiếp tại phiên tòa thông qua việc tuyên án của Hội đồng xét xử (kết tội hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội).

Nghe các bên tranh luận và nghe bị cáo nói lời sau cùng: trong hoạt động này, Hội đồng xét xử thực hiện nghĩa vụ chứng minh thông qua việc lắng nghe các bên tranh luận, đối đáp. Qua đó giúp cho Hội đồng xét xử có những nhận định xác thực về vụ án, làm cơ sở cho việc nghị án và đưa ra phán quyết phù hợp, đúng đắn.


Ghi chúBài viết được được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *