Tài sản và vật quyền: Câu hỏi lý thuyết và bài tập tình huống (có đáp án)

Câu hỏi lý thuyết tài sản và vật quyền

1. Khái niệm tài sản, phân loại tài sản theo Bộ luật Dân sự 2015.

1.1 KHÁI NIỆM

Tài sản đóng một vai trò quan trọng trong Bộ luật dân sự, là vấn đề trung tâm của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì:

Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

1.2. PHÂN LOẠI TÀI SẢN

– Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản

* Vật

– Vật là  bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có thể cảm nhận bằng giác quan của mình. Với ý nghĩa pham trù pháp lý, vật chỉ có ý  nghĩa trở thành đối tượng của quan hệ pháp luật, tức là nó được con người kiểm soát và đáp ứng được một nhu cầu nào đó của con người.

Không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật. Ví dụ, Ô-xi còn ở dạng không khí trong tự nhiên thì chưa thể được coi là vật, vì chưa thể đưa vào giao dịch dân sự.

Chỉ khi được nén vào bình, tức là con người có thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và được coi là vật. Như vậy, muốn trở thành vật trong dân sự phải thỏa mãn những điều kiện sau: là bộ phận của thế giới vật chất; con người chiếm hữu được; mang lại lợi ích cho chủ thể; có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai.

– Vật được phân loại thành các nhóm khác nhau. Dựa vào mối liên hệ, phụ thuộc về công dụng của vật với nhau mà vật được phân thành: Vật chính là vật độc lập có thể khai thác theo tính năng (ti vi, điều hòa, máy ảnh…); vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính điều (khiển ti vi, điều hòa, vỏ máy ảnh,…).

Dựa vào việc xác định giá trị sử dụng của vật khi được chia ra thành nhiều phần nhỏ mà Bộ luật dân sự phân chia vật thành vật chia được và vật không chia được. Dựa vào đặc tính, giá trị của tài sản sau khi sử dụng thì chia thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao. Dựa vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta phân loại vật thành vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Ngoài ra, người ta còn chia ra làm vật đồng bộ và vật không đông bộ

*Tiền: Theo Mác  thì tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.

“Bộ luật dân sự năm 2015” và cả Bộ luật dân sự năm 2015 đều quy định tiền là một loại tà sản nhưng lại không có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền. chỉ có loại tiền có giá trị đang được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận,  mới được coi là tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ tích lũy tài sản và là thước đo giá trị.

* Giấy tờ có giá: Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, công trái… Xét về mặt hình thức giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự luật định.

Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo vệ. giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển nhượng với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ một lần, việc chuyển nhượng một phần giấy tờ có giá là vô hiệu.

Ngoài ra, giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro. Ngoài ra còn có các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký xe máy,… không phải là giấy tờ có giá. Những loại giấy tờ này chỉ được coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.

* Quyền tài sản: Quyền tài sản theo định nghĩa tại Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể và được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.

Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này, quyền sở hữu (vật quyền) cũng là một loại tài sản.

– Tài sản bao gồm bất động sản và động sản

Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bất động sản và động sản như sau:

“1. Bất động sản bao gồm:

a) Đất đai;

b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;

c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;

d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”

Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản là cách phân loại tài sản dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể di dời được. Bất động sản do đặc tính tự nhiên, được hiểu là các tài sản không thể di, dời được do bản chất tự nhiên cấu tạo nên tài sản đó, bao gồm:

+ Đất đai: đất đai trong giao lưu dân sự được xác định bằng diện tích đất cùng vị trí của mảnh đất đó. Điều này được thể hiện trên bản đồ địa chính, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thông qua quyết định giao đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.

+ Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai : Nhà, công trình trên đất cũng được coi là một dạng bất động sản do đặc tính tự nhiên nếu nó được xây dựng gắn liền với đất bằng một kết cấu chặt chẽ chứ không đơn thuần “đặt” trên đất. Vì vậy, một lều xiếc hay một lán chợ dựng tạm không được coi là bất động sản.

+ Cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất : Khoáng sản, cây cối hoa màu trên đất cũng được coi là bất động sản chừng nào người ta chưa khai thác, chặt cây, hay hái lượm. Nếu chúng được tách khỏi đất thì chúng trở thành động sản. Giả sử khoáng sản, cây cối, hoa màu tuy vẫn chưa được khai thác nhưng đã là đối tượng của hợp đồng mua bán trước, việc mua bán trước này có làm cho khoáng sản, cây cối hoa màu trở thành động sản hay không, cho dù nó vẫn còn ở trên đất? Luật pháp các nước đều cho rằng các tài sản này, trong trường hợp trên, đã trở thành động sản.

+ Các động sản trở thành bất động sản vì mục đích sử dụng chúng: Các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất động sản. Nhưng trong điều kiện nào thì động sản được coi là gắn liền với nhà, công trình xây dựng? Thông thường, việc gắn một động sản vào nhà, công trình xây dựng một mặt phải nhằm tạo một chỉnh thể thống nhất phục vụ cho mục đích sử dụng nhà, công trình đó, mặt khác, việc gắn động sản vào nhà, công trình phải do người có quyền (quyền sở hữu hoặc một quyền năng khác) đối với nhà, công trình xây dựng đó thực hiện.

Hơn nữa, việc gắn liền phải mang tính chất kiên cố, không thể tháo ra mà không làm hư hại hoặc mất vẻ mỹ quan của nhà, công trình. Ví dụ như hệ thống điện, nước trong nhà, bức tượng, nếu được gắn vào hốc tường một cách kiên cố cũng có thể được coi là bất động sản.

Bất động sản do pháp luật quy định: Ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, khi cần thiết, bằng các văn bản pháp luật cụ thể, pháp luật có thể quy định những tài sản khác là bất động sản. Ví dụ như theo quy định của Điều 5, Luật Kinh doanh bất động sản  năm 2014 thì quyền sử dụng đất là bất động sản.

Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó (nhà đã được xây,…).

Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét nhưng chắc chắn sẽ có hoặc được hình thành trong tương lai ( nhà đang được xây dựng theo dự án, tiền lương sẽ được hưởng,…). Ngoài ra, tài sản hình thành trong tương lai có thể bao gồm tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch tài sản đó mới thuộc sở hữu của các bên (tài sản mua bán, thừa kế nhưng chưa hoàn thành thủ tục chuyển giao cho chủ sở hữu).

2. Quyền tài sản theo Bộ luật Dân sự 2015.

1.Quyền tài sản là gì?

Kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã định nghĩa: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ” (Điều 181)Từ định nghĩa này, có thể rút ra được hai đặc điểm cơ bản của quyền tài sản theo quan điểm của những người soạn thảo Bộ luật Dân sự năm 2005: Một là,quyền tài sản phải có giá trị kinh tế – trị giá được bằng tiền; hai là,quyền tài sản có thể được chuyển giao trong giao dịch dân sự (có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán, tặng cho hoặc để thừa kế…). Việc quy định như vậy đã dẫn đến có nhiều quan điểm trái chiều xung quanh vấn đề một số quyền đem lại lợi ích kinh tế cho con người nhưng không được pháp luật cho phép chuyển giao trong các giao dịch dân sựcó được coi là quyền tài sản không? Ví dụ như quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm…

Khắc phục những hạn chế của Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.Từ quy định này có thể thấy, theo quan điểm của những người soạn thảo Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền tài sản chỉ còn mang một đặc điểm duy nhất “có thể trị giá được bằng tiền”-tức là bất kỳ quyền nào đen lại giá trị kinh tế cho con người sẽ được coi là quyền tài sản. Những người soạn thảo Bộ luật Dân sự năm 2015 cho rằng bản chất của quyền tài sản chỉ cần nhìn nhận ở góc độ giá trị kinh tế của nó (tức là trị giá được bằng tiền), việc có được chuyển giao hay không được chuyển giao trong giao dịch dân sự chỉ nhằm mục đích xác định những quyền tài sản nào sẽ là đối tượng của các giao dịch dân sự chứ đó không phải là đặc điểm của quyền tài sản. Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn liệt kê các loại quyền tài sản bao gồm: Quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và quyền tài sản khác. Xét cho cùng quy định này cũng không phải là một định nghĩa hoàn chỉnh về quyền tài sản mà nó nằm ở giữa ranh giới giữa một quy phạm định nghĩa và một quy phạm liệt kê.

Theo quan điểm của GS. Nguyễn Ngọc Điện thì“quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam được hiểu là quan hệ pháp luật khác với quan hệ sở hữu mà trên cơ sở quan hệ khác đó, một lợi ích định giá được bằng tiền hình thành và thuộc về một chủ thể của quan hệ đó”[1]. Khi nghiên cứu về đề này, PGS.TS Phùng Trung Tập lại cho rằng: “Quyền tài sản có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quyền và lợi ích của chủ thể trong việc chi phối, kiểm soát tài sản gồm chủ sở hữu và người có quyền khác với tài sản”[2]. Rõ ràng, ở góc độ lý luận, còn có nhiều cách hiểu chưa thống nhất về quyền tài sản, việc quy định một định nghĩa chính xác về quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự là hết sức cần thiết, tuy nhiên việc quy định như thế nào, sao cho chính xác, hợp lý thì không đơn giản.

2.Phân loại quyền tài sản
2.1. Quyền đối vật và quyền đối nhân

Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền chủ chủ thể, quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể được chia làm hai nhóm, quyền đối vật và quyền đối nhân. Trong quan niệm của người La-tinh, khối tài sản có của một người được tạo thành từ hai loại quyền: Quyền đối vật – tức là các quyền được thực hiện trên các vật cụ thể và xác định; quyền đối nhân – bao gồm các quyền tương ứng với các nghĩa vụ tài sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền[3]. Hiểu một cách khái quát, quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện các hành vi trực tiếp trên những vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay hợp tác của các chủ thể khác. Các quyền tài sản thể hiện dưới dạng quyền đối vật trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể kể đến là quyền sở hữu, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề; quyền của bên bảo đảm đối với tài sản bảo đảm…

Về mặt tính chất, các quyền đối vật mang những mức độ khác nhau (đầy đủ và không đầy đủ). Quyền đối vật đầy đủ toàn diện nhất được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015 chính là quyền sở hữu. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật (Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015).Quyền sở hữu cho phép người có quyền khai thác trọn vẹn năng lực tạo giá trị vật chất, kinh tế của tài sản. Chính chủ sở hữu là người có quyền tối hậu định đoạt tài sản (thông qua việc bán, tặng cho, để thừa kế…). Việc khai thác công dụng, sử dụng tài sản của chủ sở hữu luôn được đặt trong một giới hạn do luật định nhằm phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, của nhà nước. Ví dụ, Bộ luật Dân sự đặt ra các hạn chế (giới hạn độ cao xây dựng) – “địa dịch” đối với các bất động sản ở sân bay, ở các khu đô thị được quy hoạch, ở quanh khu vực lăng Bác (điển hình là việc xây dựng quá độ cao của ngôi nhà số 8B Lê Trực đã bị cưỡng chế tháo dỡ mặc dù đã được cấp phép). Quyền sở hữu của chủ sở hữu cũng bị hạn chế định đoạt trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ, khi định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung, tài sản là di tích lịch sử văn hóa phải dành quyền ưu tiên mua cho các đồng chủ sở hữu chung còn lại hoặc cho Nhà nước.

Dưới góc độ thụ động, người có quyền sở hữu “được quyền” không thực hiện quyền của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp chủ sở hữu buộc phải sử dụng, phải định đoạt tài sản dù có muốn hay không. Ví dụ, người sử dụng đất có nghĩa vụ sử dụng đất, nếu đất đai không được sử dụng liên tục trong một thời gian dài, kể cả việc sử dụng không đúng mục đích, sẽ bị thu hồi mà không có đền bù (Điều 64, Điều 82 Luật Đất đai năm 2013).

Bên cạnh những quyền đối vật đầy đủ còn có những quyền đối vật không đầy đủ. Điển hình cho những quyền đối vật không đầy đủđược quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là quyền hưởng dụng (Điều 257), quyền bề mặt (Điều 267), quyền đối với bất động sản liền kề(Điều 245), quyền của bên bảo đảm đối với tài sản bảo đảm (quyền của người cầm cố đối với tài sản cầm cố, quyền của người nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp). Bản chất của những quyền này là sự phân rã của quyền sở hữu. Ở góc độ nào đó, chủ sở hữu đã chuyển giao cho các chủ thể khác một số quyền năng đối với tài sản của mình (chuyển giao quyền chiếm hữu, quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi hay lợi tức từ tài sản trong một thời hạn nhất định) thông qua một giao dịch dân sự hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp chủ sở hữu luôn giữ lại cho mình quyền định đoạt tài sản.

Đối lập với quyền đối vật là quyền đối nhân. Quyền đối nhân được thiết lập trong mối quan hệ giữa hai người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật.Có thể hiểu, quyền đối nhân là quyền cho phép một người yêu cầu một người khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với một lợi ích vật chất của mình.Mối quan hệ giữa hai người này còn gọi là quan hệ nghĩa vụ[4]. Bản chất quyền đối nhân là quyền của chủ thể (chủ thể quyền) được yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa vụ) phải thực hiện một hành vi nhất định, nói cách khác quyền của chủ thể quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ được thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ. Tiêu biểu cho các quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm quyền đòi nợ, quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm…

2.2. Quyền tài sản có thể chuyển giao và quyền tài sản không thể chuyển giao

Bản chất các quyền tài sản là một dạng tài sản theo quy định của Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi nhìn nhận quyền tài sản với tư cách là đối tượng của giao dịch dân sự, thì Bộ luật Dân sự năm 2015 phải xác định rõ các quyền tài sản nào có thể là đối tượng của giao dịch dân sự (được phép chuyển giao), các quyền tài sản nào không thể trở thành đối tượng của giao dịch dân sự (không được phép chuyển giao). Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Rõ ràng, Bộ luật Bộ luật Dân sự năm 2015 không liệt kê những quyền tài sản nào được phép chuyển giao là đối tượng của các giao dịch dân sự và những quyền tài sản nào không được phép chuyển giao không thể là đối tượng của các giao dịch dân sự. Có hai vấn đề cần được làm rõ ở đây: Thứ nhất, liệu tất cả các quyền tài sản đều có thể trở thành đối tượng của giao dịch dân sự? Thứ hai, phải chăng chỉ có những quyền tài sản cụ thể được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc trong các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự năm 2015 mới có thể là đối tượng của các giao dịch dân sự?

Trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các quyền tài sản được phép đem ra bảo đảm là đối tượng của các giao dịch bảo đảm: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” (Điều 322). Kế thừa khoản 3 Điều 379 Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 3 Điều 377 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ là nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các nghĩa vụ khác gắn liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được thì không được thay thế bằng nghĩa vụ khác”. Hiểu rộng ra, quy định này chỉ hạn chế một số quyền tài sản không được thay thế, chuyển giao trong các quan hệ nghĩa vụ như quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, uy tín và các quyền tài sản gắn liền với nhân thân khác. Theo nguyên tắc, các chủ thể của pháp luật dân sự được làm bất kỳ những gì luật không cấm, điều này đồng nghĩa với việc Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép một số quyền tài sản khác được chuyển giao (là đối tượng của các giao dịch dân sự). Ví dụ,quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm…

2.3. Quyền tài sản được thực hiện trên vật hữu hình, quyền tài sản được thực hiện trên vật vô hình và quyền tài sản được thực hiện thông qua hành vi của con người

Căn cứ vào đối tượng tác động của quyền, quyền tài sản có thể được phân chia làm ba nhóm: Các quyền tài sản có đối tượng thực hiện trên những vật hữu hình (vật chất liệu); các quyền tài sản được thực hiện trên vật vô hình và các quyền tài sản được thực hiện thông qua hành vi của con người.

Nhóm các quyền tài sản có đối tượng thực hiện trên các vật hữu hình, có thể kể đến như quyền sử dụng đất; quyền sở hữu có đối tượng là vật hữu hình; các quyền hưởng dụng, quyền bề mặt… Đặc trưng của nhóm quyền này là chủ thể quyền được thực hiện những hành vi tác động trực tiếp lên vật hữu hình để thỏa mãn quyền mà không cần đến sự giúp đỡ hay cho phép của chủ thể khác. Lưu ý ở đây đối tượng của quyền phải là vật hữu hình (đất đai, nhà ở, xe máy, ô tô, máy tính…). Do vậy, để có thể thực hiện được quyền của mình thì các chủ thể quyền luôn phải thực hiện hành vi chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Việc chiếm hữu thực tế tài sản ở góc độ nào đó là một hình thức công khai quyền của chủ thể đối với những người thứ ba khi muốn xác lập quyền lên vật.

Nhóm các quyền tài sản có đối tượng thực hiện trên các vật vô hình gắn liền với hoạt động phát minh, sáng chế, có thể kể đến như quyền đối với sáng chế, quyền đối với giải pháp hữu ích, quyền tài sản là đối tượng của quyền tác giả… Cũng giống như nhóm quyền có đối tượng thực hiện trên vật hữu hình, chủ thể quyền ở đây cũng được chủ động thực hiện hành vi để thỏa mãn quyền của mình mà không cần đến sự đồng ý hay giúp đỡ của người khác. Tuy nhiên, có điểm khác biệt với nhóm quyền trên các vật hữu hình ở chỗ, đối tượng của quyền ở đây là những “vật vô hình”. Điều này đồng nghĩa với việc thực hiện quyền của chủ thể không nhất thiết phải chiếm hữu tài sản trên thực tế. Đặc điểm này kéo theo hệ quả việc công khai quyền của chủ thể quyền phải được thực hiện thông qua cơ chế đăng ký quyền tạicơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Nhóm các quyền tài sản có đối tượng là hành vithực hiện nghĩa vụ của người khác: Các quyền tài sản thuộc nhóm này có thể được kể đến như quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo hợp đồng… Đặc trưng cơ bản của nhóm quyền này là các chủ thể quyền muốn thỏa mãn được quyền của mình luôn cần đến sự “giúp đỡ” của chủ thể khác (sự thực hiện nghĩa vụ của chủ thể mang nghĩa vụ). Người chủ nợ không thể nào có được khoản tiền cho vay nếu con nợ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

2.4. Quyền tài sản phải đăng ký và quyền tài sản không phải đăng ký

Để xác định những quyền tài sản nào phải đăng ký, quyền tài sản nào không phải đăng ký thì không chỉ dựa vào quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 mà còn dựa vào các luật chuyên ngành liên quan như: Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Đất đai. Theo các văn bản này, các quyền tài sản phải đăng ký bao gồm: Quyền sử dụng đất; quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý[5]. Việc đăng ký quyền sử dụng đất được thực hiện ở Văn phòng đăng ký đất đai hoặc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đối với nơi chưa thành lập Văn phòng đăng ký đất đai hoặc bộ phận một cửa đối với địa phương đã tổ chức bộ phận một cửa để thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Việc đăng ký quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được thực hiện ở Cục Sở hữu trí tuệ trực thuộc Bộ Khoa học – Công nghệ. Đối với trường hợp luật không có quy định bắt buộc có thể dùng phương pháp loại trừ, quyền tài sản khác không phải là những quyền tài sản trên không bắt buộc phải đăng ký.

Có thể nói, việc đăng ký quyền tài sản có ý nghĩa rất lớn đối với Nhà nước và đối với các chủ thể liên quan. Đối với Nhà nước, việc bắt buộc đăng ký quyền tài sản giúp cho Nhà nước quản lý được sự lưu thông các quyền tài sản này trong xã hội. Bên cạnh đó, nó giúp cho Nhà nước xây dựng các chính sách thuế có liên quan (thuế thu nhập, thuế chuyển nhượng, phí trước bạ sang tên và các loại phí liên quan khác). Trong các hợp đồng có đối tượng là quyền tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, thông thường pháp luật Việt Nam quy định hợp đồng sẽ có hiệu lực vào thời điểm công chứng hoặc chứng thực. Thời điểm hoàn thành việc đăng ký chuyển giao quyền chính là thời điểm để chủ sở hữu mới có quyền “đối kháng” với người thứ ba khi có tranh chấp.

Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu tiên ghi nhận hai quyền khác đối với tài sản là quyền hưởng dụng và quyền bề mặt. Điều đó một mặt tạo cơ sở pháp lý quan trọng, thúc đẩy giao lưu dân sự trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế; đảm bảo tốt hơn cho các tài sản khi tham gia lưu thông dân sự được tối đa hóa giá trị, do không chỉ chủ sở hữu mà còn cả những người không phải là chủ sở hữu được phép khai thác tài sản. Mặt khác, đây cũng là công cụ pháp lý hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp phát sinh trên thực tiễn, hạn chế được rủi ro pháp lý, giữ được sự ổn định của các quan hệ dân sự và các quan hệ khác có liên quan. Việc Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định bắt buộc các chủ thể phải đăng ký các quyền khác đối với tài sản (bao gồm quyền hưởng dụng, quyền bề mặt và quyền đối với bất động sản liền kề) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng nghĩa với việc không có cơ chế công khai việc xác lập các quyền này cho các chủ thể khác trong xã hội. Đây có thể là nguyên nhân tiềm ẩn phát sinh nhiều tranh chấp dân sự có liên quan sau này. Vấn đề đặt ra cho pháp luật dân sự Việt Nam là cần phải xây dựng một cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp củangười thứ ba ngay tình khi tham gia xác lập giao dịch dân sự đối với các tài sản đã được xác lập quyền hưởng dụng, quyền bề mặt hay quyền sử dụng hạn chế trên đó.

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, việc đăng ký tài sản nói chung hay các quyền tài sản nói riêng ở Việt Nam hiện nay được thực hiện chưa nghiêm túc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như thủ tục hành chính còn rườm rà, lệ phí cao so với mức sống trung bình của người dân, đặc biệt phải kể đến do ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt.Đây là một thực tế gây ra nhiều khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có tranh chấp liên quan.

3. Phân biệt tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Nêu ý nghĩa pháp lý của sự phân biệt này.

Cơ sở pháp lý

Điều 108. Tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai, Bộ luật Dân sự 2015.

Định nghĩa

Tài sản hiện có là 

  • tài sản đã hình thành
  • chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản 
  • trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.

Tài sản hình thành trong tương lai gồm có:

  • Tài sản chưa hình thành;
  • Tài sản đã hình thành tuy nhiên chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch.

Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm thì tài sản hình thành trong tương lai bao gồm:

  • Tài sản từ vốn vay;
  • Tài sản đang hình thành/ đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm hai bên giao kết giao dịch bảo đảm;
  • Tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu nhưng chưa đăng ký cho đến sau thời điểm kí kết giao dịch.
Đối với tài sản đã hình thành Tài sản hình thành trong tương lai
Xác lập quyền sở hữu trước hoặc tại thời điểm ký Xác lập và sở hữu sau giao dịch
Rủi ro khi sử dụng làm tài sản đảm bảo thấp hơn Rủi ro khi sử dụng làm tài sản đảm bảo cao hơn
Ví dụ: Hai bên ký kết hợp đồng mua bán nhà chung cư đã hoàn thiện xong. Sau khi hợp đồng có hiệu lực và đã được thanh toán trả tiền thì bên mua được nhận nhà. Vậy căn hộ chung cư đó là tài sản hiện có. Ví dụ: hai bên kí kết hợp đồng mua bán nhà chung cư, tuy nhiên căn nhà đó vẫn đang trong quá trình xây dưng, chưa hòan thành. Vậy thì căn hộ chung cư này được coi là tài sản hình thành trong tương lai.

Ý nghĩa pháp lý

Việc xác định và phân loại tài sản trong hiện tại và tài sản hình thành trong tương lai có vai trò quan trọng để:

  • Xác định được đối tượng nào được phép giao dịch. Cụ thể là chỉ có những tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai (có giấy tờ chứng minh chắc chắn nó sẽ hình thành trong tương lai) thì mới là đối tượng của giao dịch.
  • Căn cứ xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.
  • Là căn cứ xác định quyền sở hữu của chủ tài sản.
  • Xác định hình thức và thủ tục xác nhận tài sản.
  • Căn cứ xác định giá trị của giao dịch.

Như vậy theo bộ luật Dân sự 2015, việc xác định rõ 2 loại tài sản sẽ giúp chủ tài sản xác định được đối tượng nào được phép giao dịch. Vừa có thể giúp chủ tài sản nhanh chóng thực hiện giao dịch mà còn có thể tránh những rủi do không đáng có khi sử dụng không đúng loại tài sản.

4. So sánh động sản và bất động sản. Nêu ý nghĩa của sự phân biệt này.

Động sản là gì ?

Động sản là tài sản có thể chuyển dịch hoặc di dời từ nơi này sang nơi khác trong không gian nhất định mà vẫn giữ nguyên tính năng, công dụng.

Bất động sản là gì?

Bất động sản hay còn gọi là địa ốc hay nhà đất là một thuật ngữ pháp luật có ý nghĩa bao gồm đất đai và những gì dính liền vĩnh viễn với mảnh đất. Những thứ được xem là dính liền vĩnh viễn như là nhà cửa, ga ra, kiến trúc ở trên hoặc dầu khí, mỏ khoáng chất ở dưới mảnh đất đó

Như vậy, Tài sản bao gồm Động sản và bất động sản. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản như: tiền, giấy tờ có giá, sách, bút, ti vi, tủ lạnh… có thể dịch chuyển bằng cơ học. Về cơ bản động sản và bất động sản được phân biệt với nhau bởi đặc tính vật lý, cụ thể: Bất động sản bao gồm đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng và các loại tài sản khác do pháp luật quy định, còn động sản là tài sản không phải là bất động sản.

So sánh động sản và bất động sản?

Giống nhau

Đều là một loại tài sản, được quy định theo BLDS VN

Khác nhau

Đặc điểm so sánh Bất động sản Động sản
Đối tượng Đối tượng được xếp vào là bất động sản có phạm vi khá hẹp. Theo khoản 1, điều 107, BLDS 2015 đã liệt kê các loại tài sản được xếp vào nhóm bất động sản gồm có:

– Đất đai

– Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai

– Tài sản khác gắn với đất đai, nhà, công trình xây dựng

– Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

Ngoài những tài sản kể trên, một số tài sản vô hình gắn liền với đất đai như quyền sử dụng đất, quyền thế chấp,… cũng được coi là bất động sản theo quy định trong pháp luật Kinh doanh Bất động sản.

Đối tượng được xếp vào là động sản có phạm vi khá rộng.

BLDS 2015 không liệt kê như trường hợp bất động sản mà quy định: “ Động sản là những tài sản không phải là bất động sản”.

Tính chất đặc thù Là những tài sản không thể di dời được Là những tài sản có thể di dời được
Đăng kí quyền tài sản Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là bất động sản được đăng kí theo quy định của BLDS 2015 và pháp luật về đăng kí tài sản. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản không phái đăng kí, trừ một số trường hợp pháp luật quy định.

Ý nghĩa phân biệt bất động sản và động sản :

+ Xác định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản. Theo Điều 168/BLDS2005 bất động sản được chuyển giao quyền sở hữu từ thời điểm đăng kí quyền sở hữu, còn đối với động sản động sản được xác lập tại thời điểm chuyển giao. một số trường hợp động sản được chuyển giao từ thời điểm đăng kí như xe máy, ô tô.

+Xác lập thủ tục đăng kí đối với tài sản. Bất động sản phải đăng kí theo quy định của pháp luật, động sản không phải đăng kí, một số trường hợp đăng kí như xe máy, ô tô….theo quy định Điều 167/ BLDS 2005.

+ Xác định địa điểm xác lập GDDS khi không có thỏa thuận khác. Theo khoản 2, điều 284/ BLDS 2005 quy định về địa điểm thực hiện GDDS, đối với BĐS thì xác lập GD tại nơi có BĐS, đối với ĐS tại nơi cư trú hoặc trụ sở của người bên có quyền

+ Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có thời hiệu.

Tài sản là vật vô chủ. Đối với ĐS quyền sở hữu được xác lập khi người đó phát hiện ra, khi không biết chủ sở hữu là ai, phải thông báo tìm kiếm sau một năm nếu không thấy chủ sở hữu thì người nhặt được tài sản.(điều 239/BLDS2005). Còn với BĐS, nếu phát hiện là vô chủ thì sẽ thuộc sở hữu nhà nước.. .

Theo quy định điều 247/BLDS2005  Nếu người chiếm hữu không có căn cứ pháp lí nhưng ngay tình, liên tục, công khai thì xác lập quyền sau 10 năm đối với ĐS, và 30 năm đối với BĐS

+ Xác định thẩm quyền tòa án về giải quyết tranh chấp trong GDDS, hay là các quyền đối với BĐS, ĐS theo quy định của điều 257, điều 258/ BLDS 2005.

+ Xác định đối tượng của các biện pháp bảo đảm, thông thường ĐS là cầm cố, kí cược, đặt cọc…Còn BĐS là đối tượng của biện pháp bảo lãnh

5. Chiếm hữu theo Bộ luật Dân sự 2015.

  1. Chiếm hữu theo quy định BLDS 2015

Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu.

Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ các trường hợp sau đây được quy định tại các Điều 228, 229, 230, 231, 232, 233 và 236 của Bộ luật dân sự:

  • Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu
  • Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy
  • Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên
  • Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc
  • Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc
  • Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước
  • Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
  1. Chiếm hữu theo quy định có căn cứ pháp luật

Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây:

  • Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản
  • Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản
  • Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật
  • Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật dân sự, quy định khác của pháp luật có liên quan
  • Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật dân sự, quy định khác của pháp luật có liên quan
  • Trường hợp khác do pháp luật quy định
  1. Các hình thức chiếm hữu theo quy định BLDS 2015

     a. Chiếm hữu ngay tình

Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.

     b. Chiếm hữu không ngay tình

Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.

     c. Chiếm hữu liên tục

Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.

     d. Chiếm hữu công khai

Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.

  1. Bảo vệ việc chiếm hữu theo quy định BLDS 2015

Trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại.

6. Phân tích quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản ? Sự giống và khác nhau giữa quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản ?

1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015

2. Quyền sở hữu.

Trong các chế định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì vấn đề quyền sở hữu được xem là một trong các chế định rất quan trọng, quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội cũng như trong pháp luật dân sự. Nó là một trong những tiền đề vật chất trong sự phát triển của nền kinh tế – xã hội, vì quyền sở hữu chính là sự thừa nhận của Nhà nước cho phép một chủ thể được thực hiện trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình. Sự thừa nhận ấy quy định giới hạn và khả năng thực hiện của họ trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia lao động sản xuất, kinh doanh… Điều đó tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin trình bày về nội dung của quyền sở hữu cũng như các căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành.

2.1 Khái niệm quyền sở hữu.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền sở hữu là những quyền dân dự đối với tài sản, cụ thể Điều 158 Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận như sau:

“Điều 158. Quyền sở hữu

Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”.

Ba quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt hợp thành nội dung của quyền sở hữu quy định trong pháp luật dân sự.

2.2 Các quyền cơ bản của quyền sở hữu

* Quyền chiếm hữu.

Điều 186 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:

“Điều 186. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu

Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì chủ sở hữu tài sản được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để có thể năm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Điều này có thể được hiểu theo một cách đơn giản và thông thường nhất là sự nắm giữ, quản lý cũng như là chi phối đối với một hay nhiều tài sản. Quyền chiếm hữu sẽ có hai loại đó là: Chiếm hữu ngay tình (chiếm hữu có căn cứ pháp luật) và chiếm hữu không ngay tình (chiếm hữu không có căn cứ pháp luật).

– Thứ nhất, đối với hình thức chiếm hữu ngay tình bao gồm các căn cứ đó là: Chủ sở hữu trực tiếp thực hiện việc chiếm hữu tài sản của mình; hay chủ sở hữu ủy quyền cho người khác thực hiện quản lý tài sản trong phạm vi được ủy quyền; hay quyền chiếm hữu được thực hiện thông qua các giao dịch dân sự đảm bảo phù hợp với ý chí của chủ sở hữu (người đang chiếm hữu hợp pháp thì sẽ chỉ được sử dụng hoặc chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản cho người khác nếu trong trường hợp mà được bên phía chủ sở hữu đồng ý); người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản mà xác định là tài sản trong trường hợp bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định; người phát hiện và thực hiện việc giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện theo quy định của pháp luật và các trường hợp khác do pháp luật quy định.

– Thứ hai, đối với trường hợp chiếm hữu không ngay tình thì đây được xem là một hình thức chiếm hữu không dựa trên bất kỳ một căn cứ luật định nào. Người chiếm hữu biết hoặc pháp luật buộc họ phải biết là mình đang chiếm hữu không có căn cứ hợp pháp nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm hữu, hoặc tuy về chủ quan họ không biết về việc này nhưng pháp luật buộc họ phải biết. Những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết về việc chiếm hữu của mình đang thực hiện là hành vi không ngay tình thường liên quan đến các loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.

* Quyền sử dụng.

Điều 189 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:

“Điều 189. Quyền sử dụng

Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.

Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì quyền sử dụng là quyền quyền trong việc khai thác công dụng, cũng như hưởng các hoa lợi, lợi tức của tài sản. Có thể hiểu một cách đơn giản, quyền sử dụng của chủ sở hữu tài sản là việc khai thác cũng như việc hưởng lợi ích từ khối tài sản khai thác được trong phạm vi pháp luật cho phép. Về nguyên tắc, chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật nên có những trường hợp chủ sở hữu không đủ trình độ chuyên môn để sử dụng tài sản là các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Ví dụ như việc vận hành, sử dụng xe ô tô, các dây truyền máy móc công nghiệp… trong trường hợp này, chủ sở hữu phải thông qua người thứ ba để thực hiện quyền sử dụng tài sản thì mới khai thác được các lợi ích vật chất, tính năng của tài sản. Cũng như quyền chiếm hữu, quyền sử dụng không chỉ thuộc về chủ sở hữu tài sản mà ở đây còn thuộc về những người không phải chủ sở hữu nhưng được chủ sở hữu giao quyền hoặc theo quy định của pháp luật. Có thể nói, việc sử dụng tài sản là một quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế đối với chủ sở hữu tài sản.

* Quyền định đoạt.

Quyền định đoạt là một trong các quyền năng của chủ sở hữu để quyết định số phận của tài sản. Căn cứ theo Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền định đoạt là quyền thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữ, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
Chủ sở hữu tài sản thực hiện quyền định đoạt của mình trên hai phương diện: Thứ nhất, định đoạt về số phận thực tế của tài sản như tiêu dùng hết, hủy bỏ hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản; thứ hai, định đoạt về số phận pháp lý của tài sản là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản từ người này sang người khác.
Thông thường, định đoạt số phận pháp lý đối với tài sản phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu như bán, trao đổi, tặng cho, thừa kế… thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian (trong hợp đồng cho thuê, cho mượn) hoặc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác bằng hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho…
Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Ví dụ, tiêu dùng hết tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó; khi bán tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của người bán đối với tài sản nhưng lại làm phát sinh quyền sở hữu về tài sản đối với người mua.
Trong hai hình thức định đoạt tài sản trên cho thấy: Việc định đoạt số phận thực tế của tài sản thì chủ sở hữu chỉ cần bằng hành vi của mình tác động trực tiếp lên tài sản, nhưng việc định đoạt số phận pháp lý của tài sản thì chủ sở hữu phải thiết lập với một chủ thể khác một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với hình thức định đoạt số phận pháp lý của tài sản, Bộ luật Dân sự quy định: Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi dân sự – nghĩa là người đó phải có đầy đủ tư cách chủ thể. Trong những trường hợp tài sản ít giá trị, việc thực hiện quyền định đoạt có thể bằng phương thức đơn giản như thỏa thuận miệng, chuyển giao ngay… nhưng trong những trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục thì phải tuân theo những quy định đó (Điều 193 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, Bộ luật Dân sự đã quy định việc ủy quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể ủy quyền cho người khác định đoạt tài sản, người được ủy quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu.
Tuy vậy, quyền định đoạt không có nghĩa tuyệt đối, trong những trường hợp nhất định mà pháp luật ràng buộc chủ thể có quyền định đoạt phải tuân theo những quy định để tránh vi phạm Hiến pháp và pháp luật, vì lợi ích chung của xã hội và để bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định. Điều 196 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu sẽ bị hạn chế khi những tài sản đem bán, đổi là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa thì Nhà nước (tổ chức, cá nhân theo luật định) có quyền ưu tiên mua. Trong trường hợp đó người bán phải giành quyền ưu tiên mua cho tổ chức, cá nhân này.
Mặc dù vậy, trong thực tế, có trường hợp không phải là chủ sở hữu, chủ sở hữu không ủy quyền, việc định đoạt tài sản có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo các quy định của pháp luật những người đó vẫn có quyền định đoạt tài sản, chẳng hạn như: Cơ quan, tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật, chấp hành viên kí hợp đồng bán đấu giá để thi hành án; chủ hiệu cầm đồ được bán tài sản nếu hết thời hạn đã thỏa thuận mà người vay không trả được tiền vay.

3. Quyền khác đối với tài sản.

– Khái niệm: Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.

– Quyền khác đối với tài sản bao gồm:

+ Quyền đối với bất động sản liền kề (Quy định tại Mục 1, Chương XIV Bộ luật dân sự năm 2015);

+ Quyền hưởng dụng (Quy định tại Mục 2, Chương XIV Bộ luật dân sự năm 2015);

+ Quyền bề mặt (Quy định tại Mục 3, Chương XIV Bộ luật dân sự năm 2015).

4. So sánh sự giống và khác nhau giữa quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản.

* Giống nhau:

– Là các vấn đề quyết định về quyền sở hữu của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.

– Là những quy định về nguyên tắc xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trong Bộ luật dân sự 2015

* Khác nhau:

– Quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng.

– Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.

5. Ý nghĩa.

Ý nghĩa trong thực tiễn giao dịch dân sự và áp dụng pháp luật dân sự ở Việt Nam: Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập , thực hiện trong trường hợp bộ luật dân sự, luật khác có liên quan đến quyết định, quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao trừ trường hợp bộ luật dân sự, luật khác có liên quan khác, chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không để trái với quy định của pháp luật.

7. Thời điểm chuyển rủi ro trong luật dân sự 2015

Thời điểm chịu rủi ro được quy định tại Điều 440 Bộ Luật Dân sự năm 2015 với nội dung như sau:

“Điều 440. Thời điểm chịu rủi ro

1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản mua bán cho đến khi tài sản được giao cho bên mua, còn bên mua chịu rủi ro đối với tài sản mua bán kể từ khi nhận tài sản, nếu không có thoả thuận khác.
2. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu không có thoả thuận khác.”

Chi phí vận chuyển và các chi phí liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản sẽ do một trong hai bên chịu. Việc xác định bên nào phải chịu chi phí này sẽ dựa trên có nguyên tắc như sau : Các bên sẽ thỏa thuận về việc bên nào sẽ chịu các loại chi phí này, nếu các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì bên bán sẽ phải chịu các loại chi phí này.

Việc đưa ra các nguyên tắc chịu các loại chi phí này là phù hợp vì nghĩa vụ của bên bán phải là phải giao tài sản đến địa điểm thỏa thuận, đồng thời bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu đối với tài sản sang cho bên mua. Hơn nữa, tất cả các loại chi phí trên đều liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các nghĩa vụ của bên bán. Do vậy, việc bên bán chịu các loại chi phí này là phù hợp. Đối với các hợp đồng mua bán tài sản đăng kí quyền sở hữu thì chi phí chuyển quyền sở hữu như lệ phí công chứng, chứng thực bên bán còn phải chịu, còn chi phí đăng kí quyền sở hữu tài sản bên mua phải chịu

8. Quyền khác đối với tài sản trong quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

Theo Điều 159 BLDS năm 2015 thì quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, bao gồm: quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt. Trong đó, về mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản về thực hiện quyền và thời điểm chuyển quyền, BLDS đã quy định:
– Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập, thực hiện trong trường hợp BLDS, luật khác có liên quan quy định; quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao, trừ trường hợp BLDS, luật khác có liên quan quy định khác;
– Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi trong phạm vi quyền được quy định tại BLDS, luật khác có liên quan nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản hoặc của người khác; chủ thể có quyền khác đối với tài sản cũng phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi quyền của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc BLDS, luật khác có liên quan quy định khác;
– Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy định của BLDS, luật khác có liên quan; trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản. Trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản (Điều 163-Điều 170): BLDS năm 2015 cơ bản kế thừa các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trong BLDS năm 2005. Tuy nhiên, để làm rõ hơn việc bảo vệ quyền khác đối với tài sản, BLDS năm 2015 quy định chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật; chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó. Đồng thời, để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn, thuận lợi hơn cho việc khai thác, sử dụng một cách hiệu quả các tài sản, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và để tạo cơ chế pháp lý để các chủ thể không phải là chủ sở hữu thực hiện quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của chủ thể khác, bảo đảm khai thác được nhiều nhất lợi ích trên cùng một tài sản, bảo đảm trật tự, ổn định các quan hệ có liên quan, Bộ luật sửa đổi quy định về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề trong BLDS 2005 và bổ sung quy định về quyền hưởng dụng, quyền bề mặt:
* Về quyền đối với bất động sản liền kề (Điều 245 – Điều 256): Bộ luật quy định quyền này theo cách tiếp cận điều chỉnh mối quan hệ giữa hai bất động sản, theo đó:
– Quyền đối với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác (gọi là bất động sản hưởng quyền);
– Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập do địa thế tự nhiên, theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc;
– Quyền đối với bất động sản liền kề có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân và được chuyển giao khi bất động sản được chuyển giao, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
– Việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề theo thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc khai thác bất động sản hưởng quyền phù hợp với mục đích sử dụng của cả bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền; không được lạm dụng quyền đối với bất động sản chịu hưởng quyền; không được thực hiện hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện quyền đối với bất động sản hưởng quyền trở nên khó khăn;
– Trường hợp có sự thay đổi về sử dụng, khai thác bất động sản chịu hưởng quyền dẫn đến thay đổi việc thực hiện quyền đối với bất động sản hưởng quyền thì chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền phải thông báo trước cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền trong một thời hạn hợp lý. Chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền phải tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền phù hợp với thay đổi này;
– Quyền đối với bất động sản liền kề chấm dứt trong trường hợp bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền thuộc quyền sở hữu của một người; việc sử dụng, khai thác bất động sản không còn làm phát sinh nhu cầu hưởng quyền; theo thỏa thuận của các bên và trường hợp khác theo quy định của luật.
* Về quyền hưởng dụng (Điều 257 – Điều 266): Là quyền mới được bổ sung:
– Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời hạn nhất định;
– Quyền hưởng dụng có thể được xác lập theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc; quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác; quyền hưởng dụng đã được xác lập có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác;
– Cá nhân, pháp nhân đều có thể là chủ thể có quyền hưởng dụng. Thời hạn của quyền hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc do luật quy định nhưng tối đa đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên nếu người hưởng dụng là cá nhân và đến khi pháp nhân chấm dứt tồn tại nhưng tối đa 30 năm nếu người hưởng dụng đầu tiên là pháp nhân;
– Người hưởng dụng có quyền tự mình hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của quyền hưởng dụng; người hưởng dụng có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng trong thời gian quyền này có hiệu lực, trường hợp quyền hưởng dụng chấm dứt mà chưa đến kỳ hạn thu hoa lợi, lợi tức thì khi đến kỳ hạn thu hoa lợi, lợi tức, người hưởng dụng được hưởng giá trị của hoa lợi, lợi tức thu được tương ứng với thời gian người đó được quyền hưởng dụng; yêu cầu chủ sở hữu tài sản thực hiện nghĩa vụ sửa chữa tài sản để bảo đảm không bị suy giảm đáng kể dẫn tới tài sản không thể sử dụng được hoặc mất toàn bộ công dụng, giá trị của tài sản; trường hợp thực hiện nghĩa vụ thay cho chủ sở hữu tài sản thì có quyền yêu cầu chủ sở hữu tài sản hoàn trả chi phí; người hưởng dụng có quyền cho thuê quyền hưởng dụng trong thời hạn của quyền hưởng dụng;
– Người hưởng dụng có nghĩa vụ tiếp nhận tài sản theo hiện trạng và thực hiện đăng ký nếu luật có quy định; khai thác tài sản phù hợp với công dụng, mục đích sử dụng của tài sản; giữ gìn, bảo quản tài sản như tài sản của mình; bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ để bảo đảm cho việc sử dụng bình thường; khôi phục tình trạng của tài sản và khắc phục các hậu quả xấu đối với tài sản do việc không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật hoặc theo tập quán về bảo quản tài sản; hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu khi hết thời hạn hưởng dụng;
– Chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản nhưng không được làm thay đổi quyền hưởng dụng đã được xác lập; yêu cầu Tòa án truất quyền hưởng dụng trong trường hợp người hưởng dụng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình; không được cản trở, thực hiện hành vi khác gây khó khăn hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người hưởng dụng; thực hiện nghĩa vụ sửa chữa tài sản để bảo đảm không bị suy giảm đáng kể dẫn tới tài sản không thể sử dụng được hoặc mất toàn bộ công dụng, giá trị của tài sản;
– Quyền hưởng dụng chấm dứt khi thời hạn của quyền hưởng dụng đã hết; theo thỏa thuận của các bên; người hưởng dụng trở thành chủ sở hữu tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng; người hưởng dụng từ bỏ hoặc không thực hiện quyền hưởng dụng trong thời hạn do luật quy định; tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng không còn; theo quyết định của Tòa án hoặc căn cứ khác theo quy định của luật.
Khi chấm dứt quyền hưởng dụng thì tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng phải được hoàn trả cho chủ sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
* Về quyền bề mặt (Điều 267 – Điều 273): Là quyền mới được bổ sung:
– Quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về chủ thể khác;
– Quyền bề mặt được xác lập theo quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc theo di chúc. Quyền bề mặt có hiệu lực từ thời điểm chủ thể có quyền sử dụng đất chuyển giao mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho chủ thể có quyền bề mặt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác;
– Quyền bề mặt có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác;
– Thời hạn của quyền bề mặt được xác định theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc di chúc nhưng không vượt quá thời hạn của quyền sử dụng đất. Trường hợp thoả thuận hoặc di chúc không xác định thời hạn của quyền bề mặt thì mỗi bên có quyền chấm dứt quyền này bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết trước ít nhất là 06 tháng;
– Chủ thể quyền bề mặt có quyền khai thác, sử dụng mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất thuộc quyền sử dụng đất của người khác để xây dựng công trình, trồng cây, canh tác và được sở hữu những tài sản được tạo lập nhưng không được trái với quy định của BLDS, pháp luật về đất đai, xây dựng, quy hoạch, tài nguyên, khoáng sản và quy định khác của pháp luật có liên quan. Trường hợp quyền bề mặt được chuyển giao một phần hoặc toàn bộ thì chủ thể nhận chuyển giao được kế thừa quyền bề mặt theo điều kiện và trong phạm vi tương ứng với phần quyền bề mặt được chuyển giao;
– Quyền bề mặt chấm dứt khi thời hạn hưởng quyền bề mặt đã hết; chủ thể có quyền bề mặt và chủ thể có quyền sử dụng đất là một; chủ thể có quyền bề mặt từ bỏ quyền của mình; quyền sử dụng đất có quyền bề mặt bị thu hồi theo quy định của Luật đất đai; theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của luật.
Khi quyền bề mặt chấm dứt, chủ thể quyền bề mặt phải trả lại mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho chủ thể có quyền sử dụng đất theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; chủ thể quyền bề mặt phải xử lý tài sản thuộc sở hữu của mình trước khi quyền bề mặt chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; trường hợp chủ thể quyền bề mặt không xử lý tài sản trước khi quyền bề mặt chấm dứt thì quyền sở hữu tài sản đó thuộc về chủ thể có quyền sử dụng đất kể từ thời điểm quyền bề mặt chấm dứt, trừ trường hợp chủ thể có quyền sử dụng đất không nhận tài sản đó. Trường hợp chủ thể có quyền sử dụng đất không nhận tài sản mà phải xử lý tài sản thì chủ thể có quyền bề mặt phải thanh toán chi phí xử lý tài sản.

9. Các hình thức sở hữu theo Bộ luật Dân sự 2015.

1. Khái niệm hình thức sở hữu

Hình thức sở hữu là cách thức chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong một chế độ sở hữu.

Trong chế độ sở hữu có thể có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu có những chủ sở hữu nhất định. Mỗi hình thức sở hữu có những đặc trưng riêng, nên pháp luật cũng có những quy định riêng thích hợp với mỗi loại hình thức sở hữu cụ thể.
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định mỗi hình thức sở hữu, chủ sở hữu có những cách thức thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong những giới hạn và phạm vi khác nhau.

2. Phân loại hình thức sở hữu

Trong chế độ sở hữu có thể có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Theo quy định của Điều 179 Bộ luật dân sự Việt Nam năm trước kia, trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, Nhà nước công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu gồm: sở hữu toàn dân; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; sở hữu hỗn hợp; sở hữu chung. Tuy nhiên, với sự ra đời của Bộ luật dân sự sau này, trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật dân sự cũ về các hình thức sở hữu, tiếp tục khẳng định các chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, theo đó, khẳng định các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Với quy định này, Bộ luật dân sự 2015, ngoài việc tiếp tục quy định các hình thức sở hữu khác đã được Bộ luật dân sự cũ quy định, thì đã có những điểm mới khi quy định về các hình thức sở hữu, đó là không tiếp tục quy định hình thức sở hữu hỗn hợp là một hình thức sở hữu độc lập, quy định hình thức sở hữu nhà nước với Nhà nước là chủ sở hữu thay thế hình thức sở hữu toàn dân với Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu có những chủ sở hữu nhất định. Mỗi hình thức sở hữu có những đặc trưng riêng, nên pháp luật cũng có những quy định riêng thích hợp với mỗi loại hình thức sở hữu cụ thể.

Ngoài ra, pháp luật dân sự Việt Nam quy định mỗi hình thức sở hữu, chủ sở hữu có những cách thức thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong những giới hạn và phạm ví khác nhau.

2.1 Sở hữu toàn dân (từ Điều 197 đến Điều 204)

Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đảm bảo đúng mục đích sử dụng
Sở hữu toàn dân chúng ta hiểu đơn giản đó là tài sản chung của toàn bộ người dân Việt Nam như khoáng sản, lãnh thổ, đất đai…
Và nhà nước là đại diện pháp lý có trách nhiệm bảo vệ, quản lý các tài sản này
Về quyền sở hữu toàn dân khi được giao cho doanh nghiệp, đơn vị vũ trang, cơ quan nhà nước hoặc đơn vị cá nhân đều phải tuân thủ thực hiện nghĩa vụ đầy đủ với nhà nước đồng thời nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quản lý sử dụng tài sản đó ( điều 200 đến 204)

2.2 Sở hữu riêng (Điều 205 và Điều 206)

Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc pháp nhân và tài sản hợp pháp về sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị
Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản sở hữu riêng của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác không gây ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác

2.3 Sở hữu chung (từ Điều 207 đến Điều 220)

Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất
-) Sở hữu chung theo phần: Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung và mỗi chủ sở hữu có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình
-) Sở hữu chung hợp nhất: là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung đồng thời các chủ sở hữu có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung ( bao gồm cả sở hữu chung hợp nhất không phân chia và phân chia)
Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất
Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (Điều 209 Bộ luật dân sự 2015)
– Các trường hợp sở hữu chung theo phần
+ Sở hữu chung của thành viên trong gia đình
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.
Lưu ý: Đối với sở hữu chung của thành viên trong gia đình thì việc sở hữu định đoạt sử dụng tài sản theo thỏa thuận của các thành viên trong gia đình nghĩa là có thể là tài sản chung hợp nhất hoặc phân chia theo phần. trường hợp không thỏa thuận thì áp dụng hình thức sở hữu chung theo phần
+ Sở hữu chung trong nhà chung cư: Trường hợp có thỏa thuận khác
về sở hữu chung hợp nhất:
Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. (Điều 210 Bộ luật dân sự 2015)
– Trường hợp sở hữu chung hợp nhất:
+ Sở hữu chung của vợ chồng
Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng
1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.
+ Sở hữu chung trong nhà chung cư
Điều 214. Sở hữu chung trong nhà chung cư
1. Phần diện tích, trang thiết bị và các tài sản khác dùng chung trong nhà chung cư theo quy định của Luật nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và không phân chia, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc tất cả các chủ sở hữu có thỏa thuận khác.
2. Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng tài sản quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc có thỏa thuận khác.
Ngoài hình thức sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần, Bộ luật dân sự 2015 còn ghi nhận sở hữu chung hỗn hợp. Đây thực chất là hình thức sở hữu chung theo phần với chủ thể quyền sở hữu đặc thù hơn khi do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.
Điều 215. Sở hữu chung hỗn hợp
1. Sở hữu chung hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.
2. Tài sản được hình thành từ nguồn vốn góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận hợp pháp thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp.
3. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân theo quy định tại Điều 209 của Bộ luật này và quy định của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận.

2.4 Ý nghĩa các hình thức sở hữu theo bộ luật dân sự 2015

-) Thứ nhất, sự phân loại này bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ghi nhận tại các điều 32, 51 và 53, đồng thời cũng phù hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành.
-) Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do đó, có thể xác định Nhà nước chính là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản này. Vì vậy, trên cơ sở sở hữu toàn dân, Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản công.
-) Thứ ba, tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân là một hình thức sở hữu đặc biệt, không thể coi là một dạng của sở hữu riêng hoặc sở hữu chung, do đó, các quy định này tạo ra một chế độ pháp lý riêng biệt đối với hình thức sở hữu này.

10. Căn cứ xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu theo Bộ luật Dân sự 2015.

Các căn cứ xác lập quyền sở hữu

Các căn cứ xác lập quyền sở hữu là những sự kiện pháp lí do BLDS quy định. Dựa vào nguồn gốc của những sự kiện pháp lí, người ta có thể phân chia làm ba nhóm sau:

Xác lập theo hợp đồng hoặc từ hành vi pháp lí đơn phương

Hợp đồng là một sự kiện pháp lí trên cơ sở thỏa thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể làm phát sinh sự chuyển dịch quyền sở hữu đối với tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Các hợp đồng mua bán, tặng cho, cho vay,.. nếu được xác lập phù hợp với quy định của BLDS thì những người được chuyển giao tài sản thông qua các giao dịch hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản đó.

Những tài sản theo quy định của pháp luật phải đăng kí, sang tên, xin phép thì quyền sở hữu được xác lập từ thời điểm hoàn tất các thủ tục đó. Nghĩa là bằng hợp đồng dân sự hợp pháp mà quyền sở hữu đối với vật của người này chấm dứt nhưng lại làm xuất hiện quyền sở hữu đối với vật của người khác.

Tương tự, việc nhận tài sản từ di sản thừa kế của người chết theo di chúc hoặc những người được hưởng trong hứa thưởng và thi có giải có quyền sở hữu đối với tài sản đã nhận theo di chúc hoặc tài sản đã nhận thưởng.

Xem thêm: Di chúc và đặc điểm của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự 2015

Xác lập theo quy định của pháp luật

Đây là những sự kiện pháp lí mà theo quy định của BLDS, quyền sở hữu được xác lập bao gồm:

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

Kết quả của lao động sản xuất là sự hoạt động của con người trong quá trình tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà trước hết là cho bản thân chủ thể đó. Nguồn gốc ban đầu của tài sản là lao động, vì vậy ai đã bỏ sức lao động ra thì có quyền sở hữu đối với những thu nhập có được do lao động hoặc do sản xuất kinh doanh hợp pháp (Điều 222 BLDS). Đối với hoa lợi, lợi tức, quyền sở hữu được xác lập theo quy định của pháp luật. Cụ thể:

– Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được tài sản đó.

– Người tiến hành hoạt động sáng tạo có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ hoạt động sáng tạo theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ.

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản trong trường hợp sáp nhập, trộn lẫn và chế biến

Do các sự kiện sáp nhập, trộn lẫn, chế biến là sự hợp nhất tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau. Kể từ thời điểm sáp nhập, trộn lẫn, vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung hoặc riêng của các chủ sở hữu đó. Những chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán phần giá trị tài sản. Cụ thể:

– Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được sáp nhập với nhau tạo thành vật không chia được và không thể xác định tài sản đem sáp nhập là vật chính hoặc vật phụ thì vật mới được tạo thành là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó; nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành, chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được trộn lẫn với nhau tạo thành vật mới không chia được thì vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó, kể từ thời điểm trộn lẫn.

– Chủ sở hữu của nguyên vật liệu được đem chế biến tạo thành vật mới là chủ sở hữu của vật mới được tạo thành.

+ Người dùng nguyên vật liệu thuộc sở hữu của người khác để chế biến mà ngay tình thì trở thành chủ sở hữu của tài sản mới nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó.

+ Trường hợp người chế biến không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại.

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do các sự kiện không xác định được chủ sở hữu hoặc do bị chôn giấu, đánh rơi, bỏ quên

Cơ sở của việc xác lập quyền sở hữu theo những sự kiện trên không phải chỉ đơn giản là các hành vi phát hiện, tìm thấy, nhặt được. Ngoài những sự kiện trên, pháp luật quy định phải sau một thời gian nhất định tương ứng với mỗi sự kiện và giá trị của tài sản đó mà quyền sở hữu mới được xác lập. Ví dụ: Đối với tài sản bị đánh rơi, bỏ quyên phải sau một năm kể từ ngày thông báo công khai về tài sản nhặt được, nếu giá trị bằng hoặc thấp hơn mười lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì vật đó thuộc sở hữu của người nhặt được. Cụ thể:

– Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.

– Người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.

– Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

Trong trường hợp tìm thấy tài sản bị chôn giấu hoặc bị vùi lấp, bị chìm đắm thì quyền sở hữu được xác lập có thể thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. ĐIểm a và b Khoản 2 Điều 229 BLDS quy định như sau:

– Tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật;

– Tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do các sự kiện gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên

Đối với những sự kiện này, người bắt được ngoài việc thông báo công khai, phải sau một thời hạn tùy thuộc vào đối tượng thất lạc thì quyền sở hữu mới được xác lập. Cụ thể:

– Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.

– Trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì người bắt được phải thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia cầm.

– Khi vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ.

Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do được thừa kế tài sản theo pháp luật

Thông qua việc nhận di sản thừa kế theo pháp luật, quyền sở hữu của một người nào đó được xác lập đối với các tài sản mà họ đã nhận từ di sản của người chết.

Xác lập theo những căn cứ riêng biệt

Ngoài những căn cứ có tính phổ biến nêu trên, quyền sở hữu còn có thể được xác lập theo những căn cứ riêng khác. Đó chính là các bản án, quyết định của tòa án (quyết định hòa giải thành) hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

VÍ dụ: Công nhận quyền sở hữu cá nhân của mỗi người sau khi chia tài sản chung hợp nhất của vợ chồng trong các bản án, quyết định li hôn; các quyết định hòa giải nhà ở của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Quyền sở hữu của một chủ thể có thể được xác lập theo thời hiệu khi có các điều kiện do pháp luật quy định như: Một người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì người ấy trở thành chủ sở hữu tài sản đó. Khi đó, quyền sở hữu sẽ được xác lập và được công nhận kể từ thời điểm người đó bắt đầu chiếm hữu. Tuy nhiên, quy định về thời hiệu này không áp dụng nếu BLDS hoặc luật khác có liên quan quy định khác.

Đối với các tài sản bị tịch thu (Điều 244 BLDS), bị trưng mua (Điều 243 BLDS) về nguyên tắc đây là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với một chủ thể nhất định nhưng đó lại là căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu toàn dân.

Nếu dựa vào quy trình hình thành và thay đổi quyền sở hữu thì các căn cứ xác lập quyền sở hữu có thể chia thành:

– Căn cứ đầu tiên: là những sự kiện pháp lí do đó mà quyền sở hữu được xác lập đầu tiên đối với vật. Theo căn cứ này quyền sở hữu mới phát sinh không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu trước đó. Ví dụ: sản phẩm mới được tạo ra trong quá trình sản xuất hoặc việc nhận những kết quả các các tài sản mang lại.

– Căn cứ kế tục: là những sự kiện pháp lí xác lập quyền sở hữu mới trên cơ sở chuyển dịch quyền theo ý chí của chủ sở hữu cũ thông qua các hợp đồng dân sự hợp pháp hoặc do thừa kế. Đối với các căn cứ kế tục, chủ sở hữu mới phải chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ liên quan đến tài sản đã chuyển giao của chủ sở hữu cũ với người thứ ba.

Ví dụ: người đã mua nhà của chủ sở hữu nhưng nhà đó chủ sở hữu đang cho người khác thuê mà hợp đồng thuê chưa hết kì hạn thì chủ sở hữu mới không có quyền hủy bỏ hợp đồng thuê của chủ sở hữu cũ với người thuê khi chưa kết kì hạn thuê.

11. Hình thức sở hữu chung theo Bộ luật Dân sự 2015.

1. Sở hữu chung theo phần là gì?

Theo Điều 209 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 209. Sở hữu chung theo phần

1. Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung.

2. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Sở hữu chung theo phần có đặc thù là phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản. Cách thức hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ của mỗi chủ sở hữu trong sở hữu chung theo phần được xác định tương ứng với phần quyền sở hữu của mỗi người, ngoại trừ có thỏa thuận khác.

2. Sở hữu chung hợp nhất là gì?

Điều 210 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về sở hữu chung hợp nhất như sau:

Điều 210. Sở hữu chung hợp nhất

1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung.

Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia.

2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung.

Nếu phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu trong sở hữu chung theo phần được xác định đối với tài sản chung thì trong sở hữu chung hợp nhất, nó lại “không được xác định”. Việc không xác định được không chỉ là yếu tố khách quan mà còn là yếu tố chủ quan. Bởi đôi khi tài sản chung có thể xác định được phần trên thực tế nhưng nhà làm luật cũng không xác định phần vì mục đích duy trì tính đồng thuận, nhất trí cao của các đồng sở hữu chủ khi thực hiện các quyền đối với tài sản chung. Chính bởi vậy, sở hữu chung hợp nhất được chia thành sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Yếu tố “có thể” phân chia là do các chủ thể thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định, ví dụ như sở hữu chung của vợ chồng. Sở hữu chung hợp nhất không phân chia là do ý chí của nhà làm luật muốn duy trì và bảo tồn hình thức sở hữu này vì lợi ích của số đông, lợi ích chung của cộng đồng như sở hữu chung nhà chung cư, sở hữu chung của dòng họ.

Việc hưởng quyền cũng như việc gánh các nghĩa vụ từ tài sản chung thuộc sở hữu chung hợp nhất là ngang nhau giữa các chủ sở hữu.

3. Thế nào là sở hữu chung của cộng đồng?

Theo Bộ luật dân sự 2015:

Điều 211. Sở hữu chung của cộng đồng

1. Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng đồng.

2. Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

3. Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.

Theo đó, có thể xác định các yếu tố của sở hữu chung của cộng đồng như sau:

– Chủ thể của sở hữu chung cộng đồng là một tập hợp các cá nhân được gắn kết với nhau theo đơn vị hành chính như thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc. Đây được coi như những đơn vị hành chính nhỏ nhất nên sự gắn kết của các thành viên thường hình thành từ lâu đời và có mối quan hệ khăng khít với nhau. Họ có sở hữu chung đối với nhà văn hóa, nhà rông, đối với đường đi, giếng nước, sân đình..; chủ sở hữu chung cộng đồng còn là những người có cùng quan hệ huyết thống như dòng họ. Thực tế có rất nhiều dòng họ lớn có nhà thờ họ, tiền quỹ cũng các trang thiết bị được thiết kế kèm theo để phục vụ cho nhu cầu gặp gỡ, chia sẻ giữa các thành viên trong dòng họ như họ Vũ, họ Nguyễn, họ Trần… Thành viên của các dòng họ này được trải dài khắp mọi tỉnh thành của cả nước, thậm chí cả các Việt kiều ở nước ngoài cũng là thành viên của các dòng họ này; chủ sở hữu chung cộng đồng còn là những cá nhân có chung tín ngưỡng, tôn giáo như sở hữu chung đối với nhà chùa của các phật tử theo Phật giáo, đối với nhà thờ của Thiên Chúa Giáo;

– Căn cứ xác lập sở hữu chung cộng đồng là theo tập quán, do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật. Yếu tố tự nguyện hay do tập quán là nguồn chủ yếu tạo lập nên tài sản chung của cộng đồng,

– Mục đích sử dụng tài sản chung cộng đồng là phải vì lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng. Do đó, nếu người dân có chứng cứ cho rằng những người được giao quyền quản lý tài sản chung cộng đồng đã lạm quyền để sử dụng tài sản chung nhằm mục đích tư lợi hay thực hiện các hoạt động từ tài sản chung nhưng đã đi trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước hoặc tuyên truyền lối sống mê tín, dị đoan, đồi trụy… thì sẽ bị tước quyền quản lý tài sản chung và phải chịu các trách nhiệm pháp lý khác nữa;

– Thuộc loại hình thức sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Quy định này của pháp luật nhằm bảo tồn và duy trì các tài sản thuộc hình thức sở hữu này vì phần lớn những tài sản chung này đều chứa đựng các yếu tố văn hóa, lịch sử, có giá trị tinh thần của cả một dòng họ, vùng quê nên thể hiện nét đẹp của truyền thống dân tộc và mục đích sử dụng những tài sản này là vì cộng đồng chung. Cho nên bất cứ sự thỏa thuận nào giữa các thành viên của sở hữu chung cộng đồng (ngay cả đối với dòng họ) nhằm chia tài sản chung thì đều không được pháp luật cho phép.

4. Sở hữu chung của các thành viên gia đình

Trong thực tế cuộc sống, có rất nhiều tài sản do các thành viên trong gia đình cùng tạo lập, đóng góp công sức để lập nên, đặc biệt là các tài sản có giá trị lớn như quyền sử dụng đất, nhà ở…. Vậy trong trường hợp nào thì tài sản được xác định là tài sản chung của hộ gia đình?

Tại Điều 212 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:

Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình

1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.

Như vậy, theo quy định tren sở hữu của các thành viên gia đình đối với tài sản chung về cơ bản là thuộc hình thức sở hữu chung theo phần, trừ các trường hợp khác được pháp luật quy định.

– Về chủ thể: là các thành viên gia đình. Các thành viên gia đình là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với nhau nhưng phải cùng sống chung. ;

– Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung đối với các thành viên gia đình: do các thành viên đóng góp, cùng tạo lập nên và các căn cứ khác do luật quy định;

– Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung phải dựa trên nguyên tắc thỏa thuận. Đặc biệt, đối với những với tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình thì phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp sở hữu chung của vợ chồng.

5. Khi nào thì tài sản được xác định là sở hữu chung của vợ chồng?

Vấn đề xác định tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa đặc biệt quan trong khi vợ chồng có nhu cầu chia tài sản. Vì theo nguyên tắc chung của luật hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng sẽ chia đôi khi ly hôn. Theo Điều 213 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng

1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.

5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.

Khác với sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu chung của vợ chồng là hình thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Trong thời kỳ còn tồn tại sở hữu chung thì phần quyền sở hữu của mỗi người là như nhau theo nguyên tắc “của chồng công vợ” nhưng khi phân chia có thể do thỏa thuận, do một bên chết, do ly hôn thì phần quyền sở hữu của mỗi người mới được xác định. Việc xác định phần quyền sở hữu của mỗi người là một nửa trên tổng khối tài sản chung trừ khi có thỏa thuận khác hoặc có chứng cứ chứng minh phần công sức đóng góp của mỗi người vào khối tài sản chung là khác nhau. Việc định phần quyền của vợ/chồng trong khối tài sản chung khi phân chia cũng chính là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu chung của vợ chồng.

Về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng được quy định tại dựa trên các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014:

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng phải có sự thỏa thuận hoặc ủy quyền. Pháp luật còn cho phép vợ chồng được thỏa thuận về chế độ sở hữu chung trước khi kết hôn. Sự thỏa thuận này cần phải lập thành văn bản có công chứng và các bên phải thực hiện theo đúng những thỏa thuận này, trừ trường hợp sau đó các bên thỏa thuận hủy bỏ chế độ này thì quyền sở chung của vợ chồng lại tuân theo quy định của pháp luật.

6. Sở hữu chung trong nhà chung cư

Tại Điều 214 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về sở hữu chung trong nhà chung cư.

Theo khoản 3 Điều 3 Luật nhà ở năm 2014, nhà chung cư là nhà có từ 2 tầng trở lên, có nhiều căn hộ, có lối đi, cầu thang chung, có phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung và hệ thống công trình hạ tầng sử dụng chung cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, bao gồm nhà chung cư được xây dựng với mục đích để ở và nhà chung cư được xây dựng có mục đích sử dụng hỗn hợp để ở và kinh doanh.

Sở hữu chung nhà chung cư thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không phân chia vì những tài sản chung như diện tích, trang thiết bị và các tài sản khác dùng chung trong nhà chung cư nếu được phân chia thì làm mất đi giá trị sử dụng của nhà chung cư. Đối với các căn hộ trong nhà chung cư thì có thể thuộc sở hữu riêng hoặc sở hữu chung của chủ sở hữu các căn hộ. Việc quản lý, sử dụng đối với tài sản chung của nhà chung cư thì cần dựa trên nguyên tắc thỏa thuận và tất cả các chủ sở hữu chung đề có quyền ngang nhau. Theo Luật nhà ở năm 2014 thì chủ sở hữu các căn hộ sẽ bầu ra Bản quản trị nhà chung cư để quyết định sử dụng quỹ bảo trì là 2% giá trị của các căn hộ trong tòa nhà vì lợi ích chung của nhà chung cư.

Trường hợp nhà chung cư bị tiêu hủy thì quyền của chủ sở hữu các căn hộ đối với phần diện tích đất chung của tòa nhà vẫn không mất đi. Neu quyền sử dụng đất do chủ đầu tư thuê của nhà nước 50 năm thì chủ sở hữu các căn hộ chỉ có quyền sở hữu căn hộ và có quyền sử dụng đất chung trong thời hạn 50 năm. Nếu chủ đầu tư được nhà nước giao đất ổn định và lâu dài thì chủ sở hữu các căn hộ cũng có quyền sở hữu căn hộ và có quyền sử dụng đất chung ổn định lâu dài. Trường hợp nhà chung cư bị tiêu hủy do thiên tai hoặc do chất lượng của nhà đã quá cũ thì việc quyết định xây mới và quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ sở hữu căn hộ cũng phải dựa trên sự thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

7. Thế nào là sở hữu chung hỗn hợp?

Theo Điều 215 Bộ luật dân sự 2015 thì:

Điều 215. Sở hữu chung hỗn hợp

1. Sở hữu chung hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.

2. Tài sản được hình thành từ nguồn vốn góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận hợp pháp thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp.

3. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân theo quy định tại Điều 209 của Bộ luật này và quy định của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận.

Sở hữu chung hỗn hợp thuộc hình thức sở hữu chung theo phần, tuy nhiên chúng có những đặc điểm riêng sau đây:

– Chủ sở hữu chung thuộc các thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân;

– Tài sản chung là vốn góp để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Tài sản chung để góp vốn có thể là bất cứ loại tài sản nào như quyền sử dụng đất, nhà ở, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản khác… Việc góp vốn phải được lập thành văn bản, có công chứng và đăng ký nếu pháp luật có quy định.

– Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung hỗn hợp vừa tuân thủ quy định của sở hữu chung theo Điều 209 Bộ luật dân sự và quy định của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận. Luật doanh nghiệp năm 2020 là luật chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ về góp vốn vào doanh nghiệp và khi đó có điều lệ hoạt động của doanh nghiệp điều chỉnh về quan hệ góp vốn này.

12. Bảo vệ quyền sở hữu theo Bộ luật Dân sự 2015.

1. Phương thức, cách thức bảo vệ quyền sở hữu

Một trong những phương thức bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, đó là việc pháp luật quy định và công nhận:

“Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đổi với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kì người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật” (Điều 164 Bộ luật dân sự năm 2015).

Quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản còn gắn liền với việc ngăn cản bất kì người nào có hành vi xâm phạm quyên sở hữu, quyền khác đối với tài sàn của mình. Chủ sở hữu còn được quyền trụy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.

Khi chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản không thể tự mình bảo vệ quyền sở hữu nếu có sự xâm hại thì họ:

“… có quyền yêu cầu toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đổi với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại” (Điều 164 BLDS).

BLDS ghi nhận và phân biệt nhiều phương thức kiện dân sự khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Sự đa dạng của cuộc sống cho chúng ta thấy rằng, sự xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản có nhiều nội dung khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau. Vì vậy, vấn đề là phải chọn phương thức nào cho phù hợp với mức độ và những tình tiết cụ thể của vụ việc.

2. Cách thức kiện đòi lại tài sản

Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu toà án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Đòi lại tài sản là một trong những phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 166 BLDS:

“Chủ sở hữu, chủ thế có quyền khác đổi với tài sân có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật…”.

Tuy nhiên, đối với những tài sản đang được chiếm hữu bởi chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản (khoản 2 Điều 166).

Những yêu cầu chung trong việc đòi lại tài sản.

– Đối với nguyên đơn: Người kiện đòi lại tài sản phải là chủ sở hữu của tài sản và phải chứng minh quyền sở hữu của mình đối với tài sản đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp. Nguyên đơn cũng có thể là người có quyền khác đối với tài sản thông qua những căn cứ xác lập quyền được pháp luật quy định, về nguyên tắc chung: Tài sản đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp đã rời khỏi chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản ngoài ý chí của những người này (đánh rơi, bỏ quên, bị mất cắp…) thì chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người đang chiếm hữu bất hợp pháp.

Trong phương thức kiện này, về nguyên tắc, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người có quyền khác với tài sản. Khi lấy lại tài sản, chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản không phải bồi thường một khoản tiền nào, trừ trường hợp người chiếm hữu không ngay tình phải bỏ ra chi phí hợp lí để sửa chữa tài sản, làm tăng giá trị của tài sản.

– Đối với bị đơn: Người bị kiện phải trả lại tài sản là người đang thực tế chiêm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật không ngay tình như tài sản do trộm cắp, cướp, lừa đảo mà có; biết tài sản đó là của gian nhưng vẫn mua hoặc nhặt được tài sản do chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh rơi, bỏ quên… nhưng đã không giao nộp cho cơ quan có ttách nhiệm thì người chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Trong trường hợp người chiếm hữu, người sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật không ngay tình nhưng đã giao tài sản cho người thứ ba thì người thứ ba cũng có nghĩa vụ hoàn ttả tài sản đó nếu chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có yêu cầu hoàn trả.

Tóm lại, khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ thì những người đang thực tế chiếm hữu vật đều phải trả lại tài sản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 581 BLDS, ngoài việc trả lại tài sản nhũng người này còn

“… phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”.

– Nếu bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình mà tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu như thông qua một giao dịch có đền bù (mua bán) và theo ý chí của người chiếm hữu có căn cứ pháp luật như người mượn, thuê… của chủ sở hữu. Trong trường hợp này, chủ sở hữu không được kiện đòi lại tài sản ở người đang thực tế chiếm hữu. Chủ sở hữu sẽ kiện người mình đã chuyển giao tài sản theo hợp đồng bồi thường thiệt hại vì đây là ữách nhiệm theo hợp đồng. Thực tế hiện nay việc lưu thông hàng hoá tự do và thị trường hàng hoá phong phú đa dạng và rộng lớn, người mua không thể biết nguồn gốc tài sản, cho nên pháp luật cần phải bảo vệ họ;mặt khác, buộc những người có tài sản khi cho thuê, cho mượn, gửi giữ… phải có biện pháp bảo đảm.

– Bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng kí quyền sở hữu thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi lại tài sản. Bởi vì đối với những tài sản này, người mua chỉ có quyền sở hữu khi sang tên đăng kí chuyển quyền sở hữu từ người chủ sở hữu. Người thực tế đang có tài sản phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu và có quyền yêu cầu người chuyển giao vật cho mình hoàn trả tiền hoặc các lợi ích vật chất mà mình bị thiệt hại.

Trường hợp người chiếm hữu ngay tình thông qua giao dịch với người chủ sở hữu theo quyết định của toà án hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc mua thông qua bán đấu giá thỉ hành án nhưng sau đó những căn cứ trên không còn (bị huỷ, bị sửa) thì người chiếm hữu ngay tình có quyền sở hữu tài sản đã mua. Những trường họp này người mua và người bán hoàn toàn không có lỗi. Ngược lại, lỗi thuộc về cơ quan nhà nước, do vậy, cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm theo Điều 598 BLDS.

Trong quan hệ pháp luật này, lợi ích vật chất của chủ sở hữu và người đang thực tế chiếm giữ vật là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình đều được luật bảo vệ thoả đáng. Đây cũng là một biện pháp cần thiết để bảo đảm lưu thông dân sự và giáo dục tính thận trọng cho chủ sờ hữu khi chuyển giao tài sản cho người khác. Tuy nhiên, chủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại tài sản ở người mình đã chuyển giao thông qua hợp đồng dân sự. Người được chuyển giao tài sản đã lạm dụng tín nhiệm bán tài sản của người đã chuyển giao cho mình cho người thứ ba phải bồi thường thiệt hại. Người mua hoàn toàn không thể biết (nhiều trường hợp luật cũng không buộc họ phải biết) người bán là người không có quyền bán tài sản đó. Do vậy, xét về hành vi, ý thức của người thực tế chiếm hữu vật bất hợp pháp là họ không có lỗi trong việc mua bán. Luật cho phép người thứ ba ngay tình tiếp tục sử dụng tài sản đó là hợp lí và tránh được sự thông đồng giữa chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp để gây thiệt hại cho người thứ ba. Những người đã thuê, mượn, nhận giữ tài sản của chủ sở hữu mà bán tài sản đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân. Tài sản trong trường hợp này là vật chứng để chứng minh là của chủ sở hữu. Người chiếm hữu hợp pháp của chủ sở hữu đã chuyển giao tài sản cho người thứ ba phải chịu trách nhiệm dân sự với chủ sở hữu bằng trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.

Trong việc kiện đòi lại tài sản theo quy định tại các điều 166, 167, 168 BLDS, chủ sở hữu được lấy lại tài sản khi có đù các yếu tố sau đây:

– Tài sản rời khỏi chủ sở hữu hay rời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù (cho, tặng, thừa kế theo di chúc).

– Người thực tế đang chiếm giữ tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình.

– Tài sản hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp.

– Tài sản không là bất động sản hoặc động sản phải đăng kí quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định.

3. Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu,

quyền khác đối vói tài sản

Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thoả mãn các nhu cầu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp lụật. Nói cách khác:

“chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đổi với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đen lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 160 BLDS).

Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, BLDS đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện quyền của mình, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở trái pháp luật.

Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sàn không thuộc quyền sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật.

Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này, BLDS cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ, yêu cầu người có hành vi cản trở ttái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngoài việc công nhận quyền trên, Điều 169 BLDS còn quy định: chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.

Phương thức kiện này nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.

4. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại

Điều 170 bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đổi với tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đổi với tài sản bồi thường thiệt hại”.

Quy định này áp dụng trong các trường hợp sau:

– Người chiếm hữu hợp pháp bán tài sản cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường giá ttị của tài sản. Ví dụ: A chọ B mượn tài sản. B bán cho c là người ngay tình thì A kiện B đòi bồi thường thiệt hại.

– Người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất họp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hoặc tài sản đã bị tiêu huỷ… Trong trường hợp này, chủ sở hữu không thể lấy lại được tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại. Nghĩa là, chủ sở hữu có quyền kiện đòi người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp tài sản của mình phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra cho chủ sở hữu. Nói cách khác, họ phải thanh toán cho chủ sở hữu giá trị của tài sản bằng một số tiền nhất định. Ngoài ra, người gây thiệt hại phải bồi thường hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản (nếu có).

5. Những nguyên tắc vê bảo vệ quyền sở hữu

Về nguyên tắc chung, quyền sở hữu tài sản của các chủ thể trong luật dân sự được pháp luật công nhận và bảo vệ. Điều 163 BLDS đã ghi nhận:

“1. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản”.

Cùng với việc ghi nhận này và để bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng, khoản 2 Điều 163 BLDS cũng chỉ ra rằng:

“Trường hợp thật cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”.

Trong quá trình thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt theo quy định tại Điều 158 BLDS, không phải bất cứ lúc nào chủ sở hữu cũng có toàn quyền và “độc lập tuyệt đối” với những chủ thể khác. Bởi lẽ, chủ sở hữu cũng đồng thời là chủ thể của các quan hệ xã hội, họ phải sống trong xã hội và cộng đồng. Điều đó có nghĩa là, khi hành xử quyền của mình, trong một số trường hợp chủ sở hữu bị hạn chế bởi một giới hạn nhất định.

Tuy nhiên, để cho chủ sở hữu có được những điêu kiện thuận lợi khi sử dụng các quyền của mình, BLDS cho phép họ có một số quyền nhất định đối với tài sản của người khác và đồng thời cũng phải chịu sự ràng buộc bởi một số nghĩa vụ nhất định để các chủ thể khác được thuận tiện khi sử dụng quyền của mình.

13. Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi kiện đòi tài sản theo Bộ luật Dân sự 2015.

* Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự: pháp luật dân sự không định nghĩa cụ thể thế nào người thứ ba ngay tình nhưng có thể hiểu người thứ ba ngay tình là người tại thời điểm tham gia giao dịch dân sự người này không có cơ sở để biết việc giao dịch của mình với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu do tại thời điểm khi tham gia vào giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình hoàn toàn tin rằng người giao dịch với mình là người có quyền giao dịch và đối tượng tài sản giao dịch đáp ứng các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực, từ đó cho thấy người ngay tình hoàn toàn không có lỗi khi tham gia vào giao dịch. Vì vậy, pháp luật dân sự đưa ra biện pháp bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự, trong trường hợp giao dịch dân sự dẫn đến vô hiệu không do lỗi của người thứ ba.
* Người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi khi giao dịch dân sự vô hiệu trong các trường hợp sau:
– Trường hợp thứ 1: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này (khoản 1 Điều 133 BLDS năm 2015), tức là trừ trường hợp người chiếm hữu ngay tình hay người thứ ba ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Trong trường hợp này pháp luật quy định để người thứ ba được xem là ngay tình thì người thứ ba không có cơ sở để biết mình tham gia vào giao dịch dân sự với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu và người thứ ba có căn cứ tin rằng đối tượng tài sản và chủ thể giao dịch với mình có đủ điều kiện tham gia giao dịch theo quy định của pháp luật. Trường hợp này thường xảy ra đối với những tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như: xe đạp, laptop, điện thoại di động…
Tuy nhiên, đối với trường hợp người thứ ba có được tài sản thông qua giao dịch dân sự không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản như: tặng cho, thừa kế…  hoặc trong trường hợp giao dịch với những loại tài sản bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu và chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản đó.
Ví dụ: Để có tiền chơi điện tử A (13 tuổi) bán chiếc xe đạp của ba mẹ cho anh B, sau đó anh B đã bán chiếc xe đạp này cho anh C, anh C đã trả tiền mua xe đạp cho A và nhận xe. Trong trường hợp này, xét theo quy định của Điều 21 BLDS năm 2015 thì giao dịch giữa A và anh B bị vô hiệu do anh B giao dịch với người chưa đủ 15 tuổi và việc bán chiếc xe đạp này của A không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, đồng thời chưa có sự đồng ý của ba mẹ A, còn đối với giao dịch giữa anh  B và anh C không bị vô hiệu vì  đủ điều kiện để giao dịch có hiệu lực, mặc dù giao dịch ban đầu đối với tài sản đem ra giao dịch là chiếc xe đạp đã bị vô hiệu, vì theo Khoản 1 Điều 133 BLDS năm 2015 “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực”.
Như vậy chiếc xe đạp mà anh C mua theo quy định của pháp luật là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, do đó anh C không có cơ sở để biết rằng mình mua chiếc xe đạp là đối tượng tài sản giao dịch trước đó đã bị vô hiệu, trong trường hợp này anh C được coi là người thứ ba ngay tình và được pháp luật bảo vệ quyền lợi, lúc này chủ sở hữu tài sản là cha mẹ của A không có quyền đòi lại tài sản từ anh C. Nhưng ngược lại nếu anh C có được chiếc xe đạp do được anh B tặng không phải là mua hoặc trong trường hợp anh C mua lại chiếc xe đạp từ anh B nhưng chiếc xe đạp này anh B trộm của gia đình A thì căn cứ theo quy định tại Điều 167 của BLDS năm 2015 thì chủ sở hữu của chiếc xe đạp là cha mẹ của A vẫn có quyền đòi lại chiếc xe đạp từ anh C vì anh C có được tài sản này do được ông B tặng cho là hợp đồng không có đền bù hoặc anh C có được tài sản này mua lại chiếc xe đạp do anh B trộm mặc dù anh C không biết được chiếc xe đạp mình mua do ông B trộm.
– Trường hợp thứ 2: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu (đoạn 2 khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015)
Trong trường hợp này được hiểu là người thứ ba tham gia giao dịch dân sự đối với tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do đó mặc dù tài sản này là đối tượng giao dịch dân sự trước đó đã bị vô hiệu thì giao dịch dân sự vẫn phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba vì người thứ ba đã căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch, trường hợp này người thứ ba được xem là ngay tình và được pháp luật bảo vệ quyền lợi khi xảy ra tranh chấp.
– Trường hợp thứ ba: Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa. (đoạn 2 khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015)
Ví dụ: Do anh B là bạn bè thân thiết, nên anh A đã cho anh B mượn xe máy sử dụng, tuy nhiên sau đó anh B đã bán chiếc xe máy này với giá rẻ cho anh C, vì ham rẻ và không am hiểu pháp luật anh C đồng ý mua mặc dù xe không có giấy tờ. Xét theo quy định tại khoản 3 Điều 133 BLDS năm 2015 “Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu”. Vậy trong trường hợp này anh C không là người thứ ba ngay tình vì đối với những loại tài sản cụ thể như xe máy pháp luật quy định tài sản này phải được đăng ký theo quy định của Thông tư số 15/2014/TT-BCA của Bộ Công an ngày 04/4/2014 quy định về đăng ký xe, như vậy trong trường hợp này xe không có các loại giấy tờ theo quy định thì sẽ không hoàn tất được thủ tục đăng ký, do đó anh C không được pháp luật bảo vệ quyền lợi vì không ngay tình và phải trả lại tài sản nếu chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.
Tuy nhiên, trong trường hợp này pháp luật quy định nếu người thứ ba tham gia giao dịch dân sự đối với đối tượng tài sản chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng người thứ ba nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa, trong các trường hợp này người thứ ba sẽ được pháp luật công nhận là người thứ ba ngay tình và được pháp luật bảo vệ, bởi lẽ trong trường hợp này người thứ ba đã căn cứ vào việc tài sản đã được thông qua bán đấu giá tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc căn cứ vào bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã quyết định người giao dịch với mình có quyền sở hữu tài sản đó, do đó người thứ ba xác lập, thực hiện giao dịch đối với đối tượng tài sản này không bị vô hiệu, mặc dù tài sản là đối tượng của giao dịch trước đã bị vô hiệu.
Ví dụ: Anh A căn cứ vào Bản án hôn nhân và gia đình giữa anh B và chị C để xác lập giao dịch với chị C đối với tài sản mà chị C được nhận là ngôi nhà. Trong thời gian anh A làm thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật thì bản án bị sửa theo kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, theo đó bản án sửa lại công nhận quyền sở hữu ngôi nhà này là của anh B chứ không phải của chị C, nhưng trong trường hợp này theo quy định của pháp luật giao dịch giữa anh A với chị C đối với tài sản là ngôi nhà này vẫn có hiệu lực pháp luật, mặc chị C không phải chủ sở hữu của ngôi nhà.
Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu thực sự của tài sản và của cả người thứ ba ngay tình khi tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến đối tượng giao dịch cùng là một tài sản, khoản 3 Điều 133 BLDS năm 2015 quy định chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. Như vậy, pháp luật quy định trong trường hợp chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu vẫn có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Từ các trường hợp pháp luật quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu rút ra vấn đề là
– Nếu tài sản tham gia giao dịch dân sự mà pháp luật quy định phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người tham gia giao dịch cần phải tìm hiểu tài sản này có được đăng ký hay chưa:
nếu tài sản chưa được đăng ký theo đúng quy định thì không nên giao dịch hoặc chỉ nên tham gia giao dịch dân sự đối với tài sản đã thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản, nhằm trong trường hợp người tham gia giao dịch với đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu hoặc đối với người không có quyền định đoạt tài sản vì không phải là chủ sở hữu do bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bị hủy, bị sửa.
Đối với các trường hợp này, theo quy định của pháp luật người thứ ba tham gia giao dịch được xem là ngay tình và giao dịch dân sự vẫn phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba, ngược lại nếu người tham gia giao dịch không xem xét các khía cạnh này thì sẽ không được xem là người thứ ba ngay tình và giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu, do đó người thứ ba sẽ không được pháp luật bảo vệ quyền lợi khi phát sinh tranh chấp.

14. Sở hữu riêng là gì ? Phân tích yếu tố chủ thể, khách thể và nội dung sở hữu riêng ?

1. Quy định chung về sở hữu riêng

Quyền sở hữu riêng là một phạm trù pháp lí và được hiểu theo hai nghĩa sau đây:

+ Theo nghĩa khách quan: Quyền sở hữu riêng là tổng hợp quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng và định đoạt những tài sản thuộc quyền sở hữu của một cá nhân, một pháp nhân. Quyền sở hữu riêng quy định tại Bộ luật dân sự là một bộ phận của chế định quyền sở hữu, điều chỉnh các quan hệ xã hội của cá nhân, pháp nhân về sở hữu tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.

+ Theo nghĩa chủ quan: Quyền sở hữu riêng là những quyền dân sự cụ thể của cá nhân, pháp nhân với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản của mình thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.

Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với tài sản còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu riêng có đầy đủ 3 yếu tố: Chủ thể, khách thể và nội dung quyền sở hữu riêng. Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Đây là quyền bất khả xâm phạm, không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình.

2. Chủ thể của sở hữu riêng ?

Với tư cách là một quan hệ pháp luật về sở hữu, sở hữu riêng có các yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung.

Chủ thể của sở hữu riêng là từng cá nhân hoặc từng pháp nhân. Mọi cá nhân dù đã trưởng thành hay chưa trưởng thành, có hay không có năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ đều có quyền sở hữu, quyền thừa kể và các quyền khác đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.

Trong trường hợp công dân không có năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, khi thực hiện quyền sở hữu (sử dụng hay định đoạt) phải thông qua hành vi của người giám hộ theo quy định từ Điều 46 đến Điều 63 của Bộ luật dân sự. Ngoài ra, đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 24 Bộ luật dân sự) khi định đoạt tài sản như bán, tặng cho, trao đổi… phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.

Pháp nhân khi thành lập phải phù hợp các yêu cầu của luật và mỗi pháp nhân được xác định phạm vi năng lực chủ thể rõ ràng, theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, việc sở hữu tài sản của pháp nhân cũng như thực hiện các quyền năng thuộc quyền sở hữu của pháp nhân cũng phải phù hợp với năng lực pháp luật của pháp nhân đó.

Như vậy, muốn trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu riêng được toàn quyền tự mình hành xử những quyền năng của chủ sở hữu thì cá nhân, pháp nhân phải đáp ứng những điều kiện nhất định.

Cá nhân, pháp nhân có quyền sở hữu đôi với những thu nhập do lao động, sản xuất, kinh doanh trong các ngành kinh tế quốc dân, trong kinh tế tập thể. Chủ thể của sở hữu riêng còn được sở hữu đối với những tư liệu sản xuất trong các thành phần kinh tế khác.

Bộ luật dân sự ngoài việc quy định cá nhân là chủ thể sở hữu riêng là công dân Việt Nam còn công nhận các chủ thể là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có vốn đầu tư về nước để sản xuất, kinh doanh. Những người này cũng là chủ thể của sở hữu riêng đối với phần vốn, tài sản mà họ đã đầu tư tại Việt Nam.

3. Khách thể của sở hữu riêng ?

Khách thể của sở hữu riêng là những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân. Tài sản đó có thể là những tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng.

Phạm vi khách thể của sở hữu riêng không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh, tài sản hợp pháp không bị hạn chế về số lượng, giá trị (khoản 2 Điều 205 bộ luật dân sự năm 2015).

Khách thể của sở hữu riêng bao gồm:

– Những thu nhập hợp pháp: Là khoản tiền hoặc hiện vật có được do kết quả của lao động hợp pháp đem lại. Các khoản tiền thù lao, tiền thưởng do có các công trình nghiên cứu khoa học, các sáng chế, sáng kiến cải tiến kĩ thuật, các giải pháp hữu ích được đem ra sử dụng. Các khoản tiền nhuận bút do có tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật được xuất bản, triển lãm…, được giải thưởng do trúng vé sổ số. Những thu nhập từ kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân… hoặc do được thừa kể, được tặng, cho…

Những thu nhập hợp pháp cùa cá nhân, pháp nhân là những tài sản còn lại sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế cho Nhà nước như: Thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tiêu thụ đặc biệt. Theo quy định của pháp luật, trong một số trường hợp, cá nhân còn phải chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.

Thu nhập hợp pháp còn là những khoản tiền trợ cấp, các khoản tiền bồi thường về sức khỏe, tài sản của công dân do người có hành vi gây thiệt hại đã bồi thường, những khoản lợi nhuận có được từ các giao dịch dân sự, hoa lợi và lợi tức… Khách thể của sở hữu riêng còn gồm cả những thu nhập thường xuyên và không thường xuyên nhưng hợp pháp của mỗi cá nhân.

– Của cải để dành là tiền hoặc hiện vật (vàng, bạc, kim khí quý, đá quý…) do thu nhập hợp pháp của cá nhân mà có nhưng chi tiêu sử dụng không hết. Của cải để dành có thể dưới nhiều hình thức khác nhau như cho vay, cho thuê, chôn giấu… Đây là những tài sản mà cá nhân chưa dùng đến.

– Nhà ở là tư liệu sinh hoạt nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu về chỗ ở của cá nhân hoặc gia đình họ. Nhà ở là công trình được công dân xây dựng, mua, được thừa kế, được tặng cho hoặc do đổi chác. Nhà ở có thể là công trình kiến trúc kiên cố, bán kiên cố, hoặc đơn sơ… nhưng chính là nơi công dân dùng để ở, nghỉ ngơi, là nơi sinh sống chính của công dân. Nhà ở là tư liệu tiêu dùng đặc biệt vì nó biểu hiện rõ khả năng kinh tế, văn hoá, thẩm mĩ của công dân và trong quá trình sử dụng có thể phát sinh lợi nhuận về tài sản. Cơ cấu nhà ở được thể hiện diện tích chính, diện tích phụ… nhưng đều nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt và mục đích để ở của công dân. Nhà và các công trình xây dựng cũng là tài sản có giá trị của các pháp nhân được sử dụng làm văn phòng, trụ sở, kho bãi hoặc mục đích khác.

– Tư liệu sinh hoạt là những tài sản phục vụ cho nhu cầu đi lại, giải trí, vui chơi, nghỉ ngơi… thoả mãn nhu cầu về mặt vật chất và tinh thần của cá nhân.

– Tư liệu sản xuất bao gồm vốn (tiền, vàng, đá quý…) và các tài sản khác như nhà kho, nhà xưởng, máy móc thiết bị… mà cá nhân, pháp nhân được quyền sử dụng và sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Cá nhân, pháp nhân có toàn quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh.

Ngoài các tài sản trên còn bao gồm những loại tài sản khác và các hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản, những gì phụ thuộc vào tài sản đó do thuộc tính tự nhiên hay nhân tạo… đều là khách thể của sở hữu riêng.

4. Nội dung sở hữu riêng

Nội dung quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân được thể hiện ở việc làm chủ, chi phổi tài sản thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản (Điều 206 Bộ luật dân sự 2015).

Cá nhân, pháp nhân có thể tự mình thực hiện quyền chiếm hữu tài sản hoặc thông qua hợp đồng dân sự giao cho người khác thực hiện quyền chiếm hữu (gửi giữ) hoặc cả quyền sử dụng (cho thuê, cho mượn).

Quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu riêng được pháp luật dân sự khuyến khích tạo điều kiện nhằm giải phóng sức sản xuất và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cá nhân, pháp nhân có quyền dùng vốn, công cụ và tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của mình để đưa vào sản xuất, kinh doanh, phục vụ các nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng hoặc các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật. Cá nhân, pháp nhân không được thực hiện quyền sử dụng của mình để hoạt động sản xuất kinh doanh bất hợp pháp. Mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân hoặc sử dụng tài sản mà hủy hoại môi trường… đều bị xử lí nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Quyền định đoạt tài sản của cá nhân, pháp nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Khi cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền sử dụng và định đoạt tài sản của mình không được làm rối loạn hoạt động kinh tế-xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh quốc phòng của Nhà nước. Không được tuyên truyền, kích động bạo lực… (qua việc sử dụng các phương tiện thông tin) hoặc tuyên truyền văn hoá phẩm đồi trụy làm băng hoại truyền thống đạo đức của dân tộc.

Tóm lại, các quyền năng cụ thể của sở hữu riêng trong chế độ xã hội ta được khẳng định và củng cố. Điều 206 Bộ luât dân sự năm 2015 đã chỉ rõ:

“7. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt thuộc sở hữu riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác không trái pháp luật.

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

5. Sở hữu riêng của vợ, chồng

Tài sản riêng của vợ chồng được xác định theo 2 giai đoạn chính: trước khi đăng ký kết hôn và từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Đối với những tài sản hình thành trước thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản riêng của các bên vợ, chồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận nhập khối tài sản riêng này vào khối tài sản chung. Ví dụ: tài sản được tặng cho riêng, tài sản được tạo lập thông qua việc mua bán tài sản trước khi đăng ký kết hôn,…

Đối với những tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân: thông thường tài sản của vợ, chồng hình thành trong thời kỳ này đều được coi là tài sản chung. Tuy nhiên, nếu vợ chồng có thỏa thuận khác về những tài sản hình thành sau khi đăng ký kết hôn là tài sản riêng thì vẫn là tài sản riêng. Bên cạnh đó, một số loai tài sản khác được coi là tài sản riêng trong hôn nhân như tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Trường hợp các bên có tranh chấp về tài sản, nếu các bên không chứng minh được đó là tài sản riêng thì được coi là tài sản chung.

15. Phân tích quan hệ sở hữu chung của các thành viên trong gia đình.

Pháp luật quy định sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình là hình thức sở hữu chung theo phần. Điều 212 Bộ luật dân sự 2015 quy định về sở hữu chung của các thành viên trong gia đình như sau:

Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình
1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này”

Chủ thể xác lập tài sản là các thành viên trong gia đình, đó có thể là bố, mẹ, con cái, ông bà,…Các tài sản do các chủ sở hữu cùng nhau đóng góp, tạo lập nên, các tài sản đó có thể là: tiền mặt, nhà cửa, đất đai, xe,…

Các chủ sở hữu thỏa thuận trong việc quản lý, sử dụng tài sản. Các thành viên có quyền tự do sử dụng, quản lý tài sản là tài sản chung của gia đình mà không bị ai ngăn cản, can thiệp. Tuy nhiên vì là tài sản chung gắn với quyền lợi của tất các chủ sở hữu, tài sản nhằm phục vụ cho lợi ích của tất cả các chủ sở hữu, việc một chủ thể sử dụng tài sản sẽ làm ảnh hưởng đến việc sử dụng tài sản của các chủ thể còn lại. Nên các việc sử dụng, quản lý, định đoạt tài sản phải có thỏa thuận của tất cả các chủ thể. Tất cả các chủ thể không phân biệt độ tuổi, giới tính, đều có quyền thỏa thuận đưa ra ý kiến trong việc sử dụng, quản lý tài sản. Theo đó các chủ sở hữu phải sử dụng, quản lý, định đoạt tài sản theo phương thức đã thỏa thuận.

Tuy nhiên ngoại lệ đối với tài sản chung là những tài sản có giá trị như: bất động sản, đông sản phải đăng ký, nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình thì việc sử dụng, quản lý, sử dụng tài sản phải được những thành viên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thỏa thuận. Chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi dân sự là chủ thể từ đủ 18 tuổi trở lên, không thuộc các trường hợp bị mất, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi.

Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình là một hình thức sở hữu chung theo phần. Theo đó sở hữu chung theo phần là hình thức sở hữu mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình. Trong trường hợp các thành viên trong gia đình có thỏa thuận về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mỗi chủ thể theo một phương thức nhất định, thì quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu được xác định theo thỏa thuận. Vì là sở hữu chung theo phần mà tài sản chung của các thành viên trong gia đình có thể phân chia, khi có thành viên yêu cầu chia tài sản. Việc chia tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật.

16. Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ và tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu.

  1. Căn cứ pháp lý

Bộ luật dân sự 2015

  1. Căn cứ xác lập quyền sở hữu

Đối với tài sản vô chủ hoặc tài sản không có chủ sở hữu thì phải xác định xem có được xác lập quyền sở hữu đối với các loại tài sản này không.

  • Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
  • Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
  • Thu hoa lợi, lợi tức.
  • Tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến.
  • Được thừa kế.
  • Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.
  • Chiếm hữu, được lợi về tài sản trong trường hợp 10 năm với động sản, 30 năm với bất động sản.

Như vậy nếu như đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ hoặc tài sản không xác định được chủ sở hữu thì có quyền xác lập quyền sở hữu đối với các tài sản này.

  1. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu

Việc xác lập quyền sở hữu trong trường hợp này được quy định tại điều 228 BLDS 2015

3.1. Đối với tài sản vô chủ

  • Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Chủ sở hữu có thể tự chấm dứt quyền sở hữu của mình đối với tài sản bằng cách tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi chứng tỏ việc mình từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó.
  • Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác. Nếu như tài sản vô chủ là bất động sản thì bất động sản đó sẽ thuộc về Nhà nước.

3.2. Đối với tài sản không xác định được chủ sở hữu

Việc thực hiện xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được chủ sở hữu được thực hiện như sau:

  • Thông báo công khai cho chủ sở hữu tài sản
  • Người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
  • Việc giao nộp phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người giao nộp, người nhận, tình trạng, số lượng, khối lượng tài sản giao nộp.
  • Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.
  • Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được chủ sở hữu
  • Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là động sản thì quyền sở hữu đối với động sản đó thuộc về người phát hiện tài sản.
  • Sau 05 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước; người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

17. So sánh căn cứ xác lập quyền sở hữu do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến tài sản.

1. Cơ sở pháp lý: 

Điều 225. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp sáp nhập

1. Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được sáp nhập với nhau tạo thành vật không chia được và không thể xác định tài sản đem sáp nhập là vật chính hoặc vật phụ thì vật mới được tạo thành là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó; nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành, chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Khi một người sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là động sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập thì chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có một trong các quyền sau đây:

a) Yêu cầu người sáp nhập tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người sáp nhập giá trị tài sản của người đó;

b) Yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại nếu không nhận tài sản mới;

c) Quyền khác theo quy định của luật.

3. Khi một người sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là bất động sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập thì chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có một trong các quyền sau đây:

a) Yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại;

b) Quyền khác theo quy định của luật.

4. Khi một người sáp nhập tài sản là động sản của mình vào một bất động sản của người khác thì chủ sở hữu bất động sản có quyền yêu cầu người sáp nhập dỡ bỏ tài sản sáp nhập trái phép và bồi thường thiệt hại hoặc giữ lại tài sản và thanh toán cho người sáp nhập giá trị tài sản sáp nhập, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Điều 226. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp trộn lẫn

1. Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được trộn lẫn với nhau tạo thành vật mới không chia được thì vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó, kể từ thời điểm trộn lẫn.

2. Khi một người đã trộn lẫn tài sản của người khác vào tài sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải của mình và không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn thì chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn có một trong các quyền sau đây:

a) Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người đã trộn lẫn phần giá trị tài sản của người đó;

b) Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại nếu không nhận tài sản mới.

Điều 227. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp chế biến

1. Chủ sở hữu của nguyên vật liệu được đem chế biến tạo thành vật mới là chủ sở hữu của vật mới được tạo thành.

2. Người dùng nguyên vật liệu thuộc sở hữu của người khác để chế biến mà ngay tình thì trở thành chủ sở hữu của tài sản mới nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó.

3. Trường hợp người chế biến không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại.

Trong Bộ luật dân sự năm 2015, các quy định về việc xác lập quyền sở hữu trong trường hợp sáp nhập, trộn lẫn, chế biến tài sản được quy định tại các điều luật trên. Các khái niệm sáp nhập, trộn lẫn, chế biến có những điểm tương đồng nhau, song về bản chất, chúng có những điểm khác nhau.

Bản chất của việc sáp nhập tài sản thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:

Trước hết, chúng ta xét đến tài sản trước khi sáp nhập. Tài sản đem sáp nhập có thể là động sản hoặc bất động sản:

– Có thể đem sáp nhập các động sản với nhau. Trong trường hợp này, tài sản sau khi sáp nhập có thể là động sản hoặc bất động sản.

– Có thể đem sáp nhập các bất động sản với nhau, trong trường hợp này, tài sản sau khi sáp nhập luôn là bất động sản.

– Hoặc có thể đem tài sản sáp nhập tài sản là động sản với tài sản là bất động sản, trong trường hợp này tài sản sau khi sáp nhập luôn là bất động sản. Tài sản đem sáp nhập có thể là vật chính và vật phụ hoặc không phân biệt được vật chính và vật phụ.

Việc xác định tài sản trước khi sáp nhập có ý nghĩa trong việc xác định vật mới sau khi đã sáp nhập. Tài sản sau khi sáp nhập có mối quan hệ gắn bó với nhau, nhưng không có sự pha trộn về tính chất của mỗi tài sản đem sáp nhập. Do vậy, tài sản mới tạo thành thường là tài sản có sự kết hợp giá trị sử dụng của các tài sản đem sáp nhập. Tài sản mới tạo thành có thể là vật chia được hoặc không chia được.

Mặc dù thông thường các tài sản đem sáp nhập có thể tách ra trở về vị trí ban đầu. Tuy nhiên, cũng có những tài sản sau khi sáp nhập mặc dù vẫn nhận biết và phân biệt được từng tài sản sáp nhập, nhưng nếu tách chúng ra thì giá trị tài sản giảm sút hoặc một trong các tài sản sẽ bị hư hỏng.

Về phương diện pháp lý, Bộ luật dân sự chỉ xem xét đến các tài sản sau khi sáp nhập không thể tách ra được. Bởi trong trường hợp này, quyền và lợi ích của mỗi chủ thể có tài sản đem sáp nhập liên quan chặt chẽ đến nhau. Trong trường hợp này, việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản sau khi sáp nhập được quy định như sau:

– Trong trường hợp các chủ sở hữu đều đồng ý sáp nhập tài sản của mình thành một tài sản mới, nếu tài sản đem sáp nhập có thể phân biệt được tài sản nào là vật chính, vật phụ, thì theo nguyên tắc vật phụ phải đi kèm với vật chính, vật mới tạo thành thuộc sở hữu của chủ sở hữu vật chính kể từ thời điểm vật mới tạo thành. Tuy nhiên, chủ sở hữu vật mới phải thanh toán giá trị tài sản đem sáp nhập là vật phụ cho chủ sở hữu vật phụ. Nếu tài sản đem sáp nhập không phân biệt được vật chính, vật phụ và vật mới tạo thành là vật không chia được, thì vật mới tạo thành thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu có vật đem sáp nhập.

– Trong trường hợp một người đem sáp nhập tài sản là động sản của người khác với tài sản là động sản của mình mà không có sự đồng ý của họ, thì quyền sở hữu đối với vật mới tạo thành có thể thuộc về chủ sở hữu tài sản đem sáp nhập hoặc thuộc về người sáp nhập, tùy theo sự lựa chọn của chủ sở hữu tài sản đem sáp nhập.

Chủ sở hữu tài sản đem sáp nhập có thể yêu cầu người sáp nhập tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người sáp nhập giá trị tài sản của người đó. Nếu không nhận tài sản mới tạo thành thì chủ sở hữu tài sản đem sáp nhập có quyền yêu cầu người sáp nhập thanh toán giá trị tài sản của mình và bồi thường thiệt hại.

Nếu tài sản đem sáp nhập thuộc nhiều chủ sở hữu khác nhau và những người này trước khi tài sản được đem sáp nhập đều chưa đồng ý việc sáp nhập tài sản, nếu có hai người trở lên nhận tài sản thì họ có quyền sở hữu chung đối với tài sản. Những chủ sở hữu tài sản trước khi sáp nhập không nhận tài sản có quyền yêu cầu người nhận vật thanh toán giá trị tài sản cho mình và yêu cầu người sáp nhập bồi thường thiệt hại.

Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung quy định mới về việc sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là bất động sản của mình, mặc dù chủ sở hữu bất động sản đã biết hoặc phải biết động sản đem sáp nhập đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập. Trường hợp này xảy ra nhiều trong thực tế, khi chủ sở hữu động sản biết được việc đó thì khó có thể đòi lại chính tài sản bị sáp nhập, bởi vì người ta coi một động sản được gắn với một bất động sản thì bất động sản là vật chính và động sản là vật phụ; hoặc bất động sản là tài sản có giá trị lớn hơn nhiều so với tài sản là động sản. Vì vậy, để giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập, Bộ luật dân sự quy định chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có quyền yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại.

18. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đánh rơi, bỏ quên và xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu.

  1. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đánh rơi, bỏ quên

Việc nhặt được tài sản của người khác đánh rơi, bỏ quên là một trong những căn cứ chiếm hữu tài sản hợp pháp và được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2015: Chiếm hữu có căn cứ pháp luật:

Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan.

Việc xác lập quyền chiếm hữu khi không xác định được chủ sở hữu tài sản và việc có được tài sản là ngoài ý muốn của người nhận được sẽ là căn cứ chiếm hữu tài sản được coi là hợp pháp.

Xác lập quyền sở hữu tài sản đối với tài sản nhặt được do người khác đánh rơi, bỏ quên khi đáp ứng các điều kiện quy định về mặt hình thức và thời gian, cụ thể như sau:

Điều 230. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên

1.Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

2.Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:

a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;

b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

Khi nhặt được tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không biết được thông tin của chủ sở hữu thì người nhặt được phải giao cho cơ quan chức năng tại khu vực nhặt để cơ quan chức năng thông báo công khai cho chủ sở hữu biết để đến nhận tài sản – Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi nhặt được tài sản có chức năng giải quyết những vụ việc trên.

Như vậy, tài sản nhận được do người khác đánh rơi, bỏ quên thì người nhặt được vẫn có thể là chủ tài sản hợp pháp trong khi đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.

2. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu.

Bộ luật dân sự năm 2015 quy định xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu như sau:

Điều 228. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu

1. Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó.

Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.

2. Người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

Việc giao nộp phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người giao nộp, người nhận, tình trạng, số lượng, khối lượng tài sản giao nộp.

Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.

Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là động sản thì quyền sở hữu đối với động sản đó thuộc về người phát hiện tài sản.

Sau 05 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước; người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

Tài sản vô chủ được hiểu là tài sản chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó

Bộ luật dân sự năm 2015 quy định khi một người phát hiện tài sản vô chủ thì người đó có thể trở thành chủ sở hữu tài của tài sản đó nếu như tài sản đó là động sản trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.

Ngoài ra điều 288 BLDS năm 2015 còn quy định thêm trường hợp xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được chủ sở hữu. Theo đó người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.

Sau khi thông báo người phát hiện tài sản mà không xác định được ai là chủ sở hữu có thể trở thành chủ sở hữu khi sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là động sản

Nếu như tài sản mà không xác định được chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì sau 05 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước; người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

Bài tập tình huống môn tài sản và vật quyền

Tình huống 1:

Gia đình ông A khai hoang một mảnh đất để canh tác; thời gian canh tác, sử dụng của ông A đã trên 30 năm mà không có ai tranh chấp về quyền sử dụng đất với ông A. Trong 30 năm ấy, ông A đã bỏ rất nhiều công sức vào việc cải tạo đất hoang kém màu mỡ thành mảnh đất màu mỡ và hiện trên đất được trồng nhiều loại cây ăn quả quý hiếm, là địa điểm cho nhiều du khách đến thăm quan, chụp ảnh. Sau khi khai thác, ông A thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước như nộp thuế, và ông A xem mảnh đất ấy như đất thuộc quyền sử dụng của mình. Tuy nhiên, mảnh đất của ông A là đối tượng được nhắm tới cho việc đầu tư kinh doanh của công ty X. Công ty X làm đơn xin cấp phép đầu tư và đề nghị Ủy ban nhân dân huyện H cho thuê mảnh đất ông mà A đã khai hoang để thực hiện dự án chăn nuôi bò sữa. Ủy ban nhân dân huyện H nơi ông A khai hoang đồng ý phê duyệt cho công ty X thuê đất trên với thời hạn 50 năm.

Hỏi:

1. Ông A có quyền xác lập quyền sử dụng hợp pháp với mảnh đất trên không? Tại sao? Ông A có quyền xác lập sử dụng hợp pháp mảnh đất trên, vì:

Căn cứ vào Đ 236 BLDS 2015

“Điều 236. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Theo quy định trên, ông A được coi là người chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai 30 năm , do đó đã đủ điều kiện xác lập quyền sở hữu đối với BĐS trên mảnh đất đó.

Căn cứ Đ 101 luật đất đai 2013

“Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.”

Theo quy định trên, ông A đủ điều kiện được cấp GCN quyền sử dụng đất đối với mảnh đất đó. vì vậy, ông A có quyền xác lập sử dụng hợp pháp mảnh đất trên.

2. Việc huyện H cho công ty X thuê diện tích đất mà ông A đã khai hoang và đang sử dụng có đúng với quy định của pháp luật không? Căn cứ? Việc huyện H cho công ty X thuê diện tích đất mà ông A đã khai hoang và đang sử dụng không đúng với quy định của pháp luật.

Vì như đã giải thích ở phần 1, diện tích đât khai hoang đang được ông A sử dụng hợp pháp, do đó UBND huyện H muốn cho công ty X thuê diện tích đất trên thì phải làm đúng quy định pháp luật, cụ thể: phải ra quyết định thu hồi đất có đền bù đối với diện tích đất của ông A theo quy định tại K3 Điều 69 luật Đất đai 2013

“3. Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:

a) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày;

b) Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến từng người có đất thu hồi, trong đó ghi rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;

c) Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt;

d) Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện.

Trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại Điều 71 của Luật này.”

3. Hãy tư vấn bảo vệ quyền lợi của ông A theo những quy định của pháp luật hiện hành. Theo quy định pháp luật hiện hành, ông A có thể khiếu nại đến UBND huyện H về hành vi cho công ty thuê đất trái pháp luật hoặc có thể khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại K1, Đ 204 Luật đất đai 2013.

Điều 204. Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về đất đai

1. Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.”

Tình huống 2:

Ông A lấy bà B có một người con chung là X. Năm 1974 ông A ly hôn bà B, X đi theo bà B, sau đó hai mẹ con bà B sang Mỹ sinh sống. Năm 1978, ông A chuyển nhà đi nơi khác và lấy bà C. Ông A, bà C có 2 người con, bà C không biết và cũng không được ông A cho biết về sự tồn tại của X. Năm 1986, ông A chết không để lại di chúc. Bà C quản lý toàn bộ mảnh đất của ông A để lại có diện tích 1200m2. Đến năm 2002, bà C cắt cho anh D và chị H (con chung của ông A và bà C) mỗi người 600m2 đất. Việc cắt đất của bà C được chính quyền xác nhận. Năm 2017, D, H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên D, H. Từ đó gia đình D và H sử dụng ổn định, không có tranh chấp trong suốt thời gian đó tới nay. Năm 2017, X về nước và tìm lại anh em họ hàng, tìm về nơi ông A sinh sống cuối cùng và biết ông A đã chết, để lại khối tài sản là 1.200 m2 đất, bà C đã chia hết cho hai con của mình là D và H. X không đồng ý nên đã khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung tại Tòa án nhân dân huyện Y tỉnh T. X cho rằng 1.200 m2 đất X để lại là tài sản chung trong đó có phần của X.

Hỏi:

1. Thời hiệu khởi kiện bảo vệ quyền sở hữu được xác định như thế nào theo Bộ luật Dân sự 2015?

“Điều 623. Thời hiệu thừa kế

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Theo quy định trên, thời hiệu để anh khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế (Năm 1986 khi ông A) chết. Vì vậy năm 2017 anh X khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện.

2. X có quyền sở hữu chung đối với 1.200 m2 đất không? Tại sao? X không có quyền sở hữu chung 1200m2 đất vì đã hết thời hiệu khởi kiện chi di sản thừa kế (30 năm đối với Bất động sản) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu ( chính là bà C người quản lý toàn bộ mảnh đất sau khi ông A CHẾT).

CSPL Đ 623 BLDS 2015.

3. Với yêu cầu khởi kiện của X, Tòa án nhân dân huyện Y sẽ phải giải quyết thế nào cho đúng? Do không có căn cứ tar lại đơn Khởi kiện theo Đ 123 BLTTDS 2015 nên Tòa án sẽ tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án và tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh A do đã hết thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế Theo điều 623 BLTTDS 2015.

Tình huống 3:

Gia đình ông A và gia đình ông B có 2 mảnh đất liền kề nhau. Diện tích của ông A là 60 m2 (chiều ngang 5 m, chiều dài 12 m) và ông A muốn xây nhà ở với thiết kế 7 tầng. Theo thiết kế dự tính để xin giấy phép xây dựng thì tầng 1 ông A dùng làm nơi để xe, còn các phòng khách, phòng nghỉ, phòng ăn… từ tầng 2 trở lên với diện tích sàn mỗi tầng là 66 m2. Muốn thế, ông A phải thiết kế diện tích sàn của các tầng đua ra 6m2 so với diện tích đất là 60 m2 ở tầng 1 và sẽ bị chờm sang phần không gian của nhà ông B đúng bằng phần đất mà gia đình ông B đang dùng để làm lối đi ra đường công cộng (phần chờm từ diện tích sàn tầng 2 của nhà ông A sẽ là mái che trên phần lối đi của nhà ông B ra đường công cộng, ngang 0,5 m và dài 12 m). Ông A đặt vấn đề được khai thác, sử dụng phần diện tích khoảng không tương ứng với phần diện tích đất mà ông B đang dùng làm lối đi và được tính từ độ cao của tầng thứ 2 nhà ông A theo thiết kế hất lên phía trên trời.

Hỏi:

1. Thỏa thuận giữa ông A và ông B có hợp pháp không? Đặt tên gọi cho thỏa thuận giữa A và B? Đối tượng của thỏa thuận ở đây là loại tài sản nào?

  • Thỏa thuận giữa ông A và ông B được coi là một giao dịch dân sự, bởi nó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các bên tham gia thỏa thuận. Điều 117 bộ luật dân sự 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gồm có:
  • Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
  • Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
  • Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
  • Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

=> Từ những căn cứ trên, việc thỏa thuận giữa bên A và bên B phải đáp ứng yêu cầu về mặt chủ thể; hình thức của giao dịch bắt buộc phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực theo quy định.

Bản chất của giao dịch dân sự này là thỏa thuận về quyền và lợi ích của bên A và bên B về quyền sử dụng đất (trực tiếp của đối tượng là quyền bề mặt trong quyền sử dụng đất), hình thức thỏa thuận giữa hai bên có thể là cho mượn, cho thuê, hoặc hình thức khác. Theo quy định tại điều 267 bộ luật dân sự 2015 về quyền bề mặt như sau:

     “Điều 267. Quyền bề mặt: Quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về chủ thể khác”

Theo như mô tả thì hai bên đang thỏa thuận về việc sử dụng khoảng không gian trên mặt đất (từ tầng 2 ngôi nhà) thì đây là thuộc quyền bề mặt khi quyền sử dụng đất thuộc về ông B. Chính vì vậy, một số tên giao dịch có thể tham khảo như: hợp đồng (thỏa thuận) về thuê (cho mượn..) quyền sử dụng đất; hợp đồng (thỏa thuận) về quyền sử dụng đất; hợp đồng (thỏa thuận) về việc sử dụng quyền bề mặt của quyền sử dụng đất..

2. Nội dung thỏa thuận gồm những điều khoản cơ bản nào?

Thông thường nội dung của một thỏa thuận, giao dịch, hợp đồng thì phải có những nội dung chính như sau:

  • Đối tượng của hợp đồng;
  • Số lượng, chất lượng;
  • Giá, phương thức thanh toán;
  • Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
  • Quyền, nghĩa vụ của các bên;
  • Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
  • Phương thức giải quyết tranh chấp.

3. Thủ tục xác lập quyền của ông A với khoảng không gian trên mặt đất của nhà ông B như thế nào?

Điểm l Khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai quy định:

…4. Đăng ký biến động được thực hiện đối với trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận hoặc đã đăng ký mà có thay đổi sau đây:

     …l) Xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền sử dụng hạn chế thửa đất liền kề;…

Như vậy, để xác lập quyền sử dụng khoảng không đối với bất động sản liền kề, người sử dụng đất phải thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai.

Tình huống 4:

Năm 2017, Ông Nguyễn Văn A được thừa kế của bố mẹ một ngôi nhà 02 tầng trên thửa đất có diện tích 1.000 m2 vuông tại xã Hòa An, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Hạnh Phúc. Thửa đất của ông Nguyễn Văn A bị vây bọc bởi các thửa đất liền kề không có lối đi ra đường công cộng. Trước đây, bố mẹ ông A đã thỏa thuận với ông Nguyễn Văn B về việc ông B để cho bố, mẹ ông A được sử dụng ngõ đi chung với diện tích là 30 m2. Nay thấy bố mẹ ông A đã qua đời, ông B đòi rào lại lối đi chung và yêu cầu ông A phải trả tiền thì mới cho đi. Do không có điều kiện thường xuyên về chăm nom và quản lý ngôi nhà nên ông Nguyễn Văn A quyết định bán cả nhà và thửa đất nêu trên cho ông Trần Văn C. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở được ký ngày 3/1/2017 tại Phòng Công chứng Số 1 tỉnh Hạnh Phúc. Ngày 13/3/2017 ông C đi làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất và nhà ở để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Vĩnh Lạc. Ngày 10/4/2017, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Vĩnh Lạc cập nhật thông tin của ông Trần Văn C vào sổ địa chính và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Trần Văn C vào ngày 15/4/2017. Ngày 20/4/2017, ông A bàn giao đất cho ông C.

Hỏi:

1, Ông B có được quyền rào lại lối đi chung không? ông A có phải trả tiền để được sử dụng lối đi chung không? Việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với lối đi chung thực hiện theo quy định nào? Việc sử dụng thửa đất và việc sở hữu ngôi nhà của ông Nguyễn Văn A có những hạn chế gì?

Nội dung

2. Thời điểm ông Trần Văn C xác lập quyền sử dụng dất là thời điểm nào trong các thời điểm sau đây:

a) Ngày ký hợp đồng công chứng (3/1/2017);

b) Ngày ông C đi làm thủ tục đăng ký (13/3/2017);

c) Ngày Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai ghi thông tin của ông C vào Sổ địa chính (15/4/2017);

d) Ngày bàn giao đất (20/4/2017).

Theo Điều 503 Bộ luật Dân sự 2015, Điều 95 và Điều 188 Luật Đất Đai 2013, thì việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Như vậy, đối với quyền sử dụng đất, thời điểm xác lập quyền sử dụng đất là thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.

Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất

3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.”

Vì vậy, Thời điểm ông Trần Văn C xác lập quyền sử dụng đất là ngày Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai ghi thông tin của ông C vào Sổ địa chính (15/4/2017);

3. Giả sử trong khoảng thời gian từ khi ký hợp đồng đến khi bàn giao đất trên thửa đất ông A bán cho ông C có nhiều cây ăn quả có giá trị đến vụ thu hoạch. Vậy Ông A có quyền khai thác những hoa quả này sau khi đã ký hợp đồng bán đất cho ông C không?


Ghi chú: Bài viết được được tặng hoặc được sưu tầm hoặc được biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện đáp án chưa chính xác, vui lòng góp ý tại phần Bình luận. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *